1. Vai trò và thực tiễn phát triển của Quỹ tín dụng nhân dân thời gian qua
Kinh tế tập thể, hợp tác xã (KTTT, HTX) có ý nghĩa, vai trò to lớn đối với sự phát triển đất nước ta. KTTT, HTX là thành phần kinh tế thể hiện bản chất, tính ưu việt của CNXH ở nước ta đảm bảo định hướng XHCN. Phát triển KTTT, HTX là cách thức, con đường để liên kết, hỗ trợ phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của những người sản xuất nhỏ, đưa những người sản xuất nhỏ tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị quốc gia, toàn cầu, đưa người sản xuất nhỏ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Phát triển KTTT, HTX là cách thức, con đường để thực hiện kết hợp giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển bền vững, kết hợp giữa phát triển kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) là mô hình hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng từ năm 1993 cho đến nay theo Quyết định 390/TTg ngày 27-01-1993 của Thủ tướng Chính phủ. Về tính chất và mục tiêu hoạt động, QTDND, Điều 2 Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13/8/2001 quy định: QTDND hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống. Hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân phải bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy để phát triển.[2] Điều 4 (khoản 30) Luật các tổ chức tín dụng (Luật số 32/2024/QH15 ngày 18/01/2024) định nghĩa: QTDND tổ chức tín dụng do pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Trải qua hơn 30 năm hình thành và phát triển, quy mô và chất lượng hoạt động của QTDND đã có sự tăng trưởng đáng kể. Mô hình QTDND không ngừng phát triển bền vững, mở rộng ra nhiều địa phương trên cả nước, ngay cả trong bối cảnh kinh tế nhiều biến động (như tác động của khủng hoảng tài chính châu Á 1997, khủng hoảng tài chính năm 2008, đại dịch Covid-19) và cạnh tranh gay gắt.[3] Tính đến cuối năm 2024, hệ thống QTDND có 1.176 quỹ, được phân bố trên 57 tỉnh, thành phố của cả nước, với tổng tài sản là 194.421 tỉ đồng, phục vụ gần 02 triệu hội viên. Tổng dư nợ là 138.723 tỉ đồng, chiếm 0,88% dư nợ toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Nợ xấu duy trì ở mức 0,68% - thấp hơn bình quân toàn ngành ngân hàng. Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) - “ngọn cờ đầu” của hệ thống - cũng ghi dấu ấn: tổng tài sản đạt 61.700 tỷ đồng, gấp 3,6 lần so với 2013; nợ xấu chỉ 0,36% với tỷ lệ bao phủ trên 250%.
QTDND đã khẳng định tính ưu việt của mô hình dựa trên cộng đồng và phục vụ lợi ích của cộng đồng. Huy động vốn từ thành viên chiếm hơn 89%. Các khoản tín dụng cung cấp chủ yếu là cho vay thành viên, chiếm khoảng 95 - 99% tổng dư nợ. Với đặc điểm giới hạn về địa bàn hoạt động và việc các khoản vay chủ yếu là cho vay ngắn hạn với giá trị nhỏ, nên thủ tục cho vay tại các QTDND thường đơn giản hơn, giải quyết nhanh, tỉ lệ nợ xấu thấp.[4]
QTDND và NHHTX thiết thực phục vụ lợi ích cộng đồng. Cụ thể: thứ nhất, đã huy động hàng trăm nghìn tỷ đồng từ nông thôn và tái đầu tư tại chỗ, giữ nguồn lực ở địa phương thay vì chảy về đô thị; thứ hai, góp phần quan trọng giảm nghèo bền vững, hỗ trợ sinh kế cho hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ; thứ ba, hạn chế tín dụng đen, vốn đang là vấn nạn xã hội ở nhiều vùng nông thôn; thứ tư, thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt ở những nơi ngân hàng thương mại chưa vươn tới; thứ năm, gắn kết niềm tin cộng đồng, trở thành nơi “người dân gửi gắm tài chính” qua nhiều thế hệ. Thông qua hoạt động của mình, QTDND góp phần quan trọng tăng khả năng tiếp cận thị trường cho các đối tượng ở nông thôn, thúc đẩy kinh tế địa phương, xóa đói, giảm nghèo, nhờ đó giúp bảo vệ an ninh kinh tế - xã hội ở cơ sở.
Trong thực tiễn phát triển đã có những mô hình QTDND hiệu quả, thành công, trong đó nổi bật là 03 QTDND tiên tiến điển hình:
(1) QTDND Nông trường Mộc Châu - tỉnh Sơn La
Gần 30 năm xây dựng và phát triển, QTDND Nông trường Mộc Châu đã trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế cộng đồng, gắn bó mật thiết kế đời sống bà con trên cao nguyên Sơn La. Thành lập năm 1996 với vốn ban đầu chỉ vài trăm triệu đồng, tính đến ngày 31/7/2025, Quỹ đã đạt tổng nguồn vốn gần 1.400 tỷ đồng, trong đó Dư nợ cho vay trên 1.200 tỷ đồng với trên 10.000 thành viên, được Ngân hàng Nhà nước đánh giá là QTDND hoạt động hiệu quả nhất của QTDND cả nước.
Nguồn Vốn tín dụng của Quỹ tập trung chủ yếu cho phát triển chăn nuôi bò sữa - chuyên ngành kinh tế đặc trưng của Mộc Châu. Hiện Quỹ có tới 70% thành viên vay vốn để đầu tư đàn bò, cải tạo trang trại, mở rộng sản xuất, qua đó góp phần đưa Mộc Châu trở thành thành “thủ phủ bò sữa” nổi tiếng. Đồng thời, Quỹ cũng đồng hành cùng bà con phát triển trồng chè, cây ăn quả, du lịch cộng đồng.

Không chỉ kinh doanh hiệu quả, QTDND Nông trường Mộc Châu còn tích cực tham gia an sinh xã hội: thường xuyên hỗ trợ hàng trăm triệu đồng cho Quỹ khuyến học, các hộ nghèo, gia đình chính sách; xây dựng trường học; trao học bổng cho học sinh. Trong đại dịch COVID-19, Quỹ đã giảm lãi suất cho vay thành viên với tổng số tiền trên 8 tỷ đồng và hỗ trợ các chương trình phòng chống dịch. Với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp giàu kinh nghiệm, Quỹ nhiều năm liền được xếp loại “giỏi”, từng được Ngân hàng Thế giới lựa chọn tham gia Dự án Tài chính Nông thôn 3.

QTDND Nông trường Mộc Châu được chính quyền và nhân dân ghi nhận sự đóng góp trong sự phát triển kinh tế địa phương: đặc biệt, Quỹ đã vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba, 4 lần đón nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính Phủ, 5 lần đón nhận Cờ thi đua xuất sắc của Chính phủ, khẳng định vai trò cơ sở tài chính vững chắc, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
(2) Quỹ tín dụng nhân dân Dương Nội - Thành phố Hà Nội
Nằm tại phường Dương Nội - khu vực đô thị phát triển nhanh chóng của Thủ đô Hà Nội, QTDND Dương Nội hoạt động trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng thương mại hiện đại. Tuy nhiên, Quỹ vẫn giữ bản sắc vững chắc “tài chính cộng đồng”, trở thành tiêu đề cho hàng trăm hộ gia đình và cơ sở kinh doanh nhỏ trong khu vực.
Thành viên vay vốn tại QTDND Dương Nội chủ yếu là hộ gia đình, tiểu thương, dịch vụ dân sinh và các cơ sở sản xuất nhỏ. Nếu như ngân hàng thương mại ưu tiên khách hàng lớn, quy trình phức tạp thì QTDND tập trung phục vụ nhóm khách hàng “ngách” - những người cần tài khoản vay vài triệu đồng để sửa chữa nhà cửa, mở rộng kinh doanh, đầu tư phương tiện tiện ích. Đây chính là khoảng trống mà ngân hàng khó bao phủ.

Tính đến ngày 31/7/2025, QTDND Dương Nội đạt Tổng nguồn vốn 606 tỷ đồng, dư nợ cho vay 389 tỷ đồng, tăng trưởng tín dụng trên 23% so với năm trước. Với vốn điều lệ chỉ 20 tỷ đồng, đã khai thác hiệu quả sức mạnh từ niềm tin tin cộng đồng, vận hành nguồn vốn gấp nhiều lần quy mô vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ sử dụng vốn cho vay đạt 70,5% cho thấy đồng vốn huy động từ dân cư được trao trở lại phục vụ chính cộng đồng, đúng tinh thần “của dân - cho dân - vì dân”.
Trong môi trường đô thị hiện đại, sự phát triển của QTDND Dương Nội minh chứng rằng: những tổ chức tín dụng nhỏ vẫn có vai trò đặc biệt khi tập trung vào gần gũi, linh hoạt và đáp ứng thời gian. Nếu ngân hàng thương mại có thể mạnh ở quy mô và công nghệ thì QTDND thể hiện sức mạnh liên kết cộng đồng - nơi từng đồng vốn nhỏ được gom lại thành sức mạnh lớn, giúp hàng trăm hộ dân ổn định và vươn lên.
Hàng năm, QTDND Dương Nội trích hơn 100 triệu đồng tham gia xây dựng các quỹ như: Quỹ vì người nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ khuyến học, tặng học bổng cho các em học sinh giỏi xuất sắc và học sinh nghèo vượt khó của 5 trường Trung học cơ sở và Tiểu học trên địa bàn Dương Nội và Đại Mỗ, tặng quà cho hộ nghèo và các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn trong dịp Tết cổ truyền và ủng hộ các hoạt động phong trào văn hoá văn nghệ thể dục thể thao của thanh thiếu niên.
Suốt hành trình 30 năm, Quỹ đã nhận được nhiều danh hiệu danh giá, bao gồm: được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng Ba (năm 2004), Chính phủ tặng Bằng khen và Cờ thi đua xuất sắc của Chính Phủ trong việc góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (năm 2004), được Thống đốc NHNN Việt Nam và Bộ Tài chính, UBND TP Hà Nội tặng bằng khen (năm 2017), nhiều năm liền được NHNN chi nhánh TP. Hà Nội công nhận là tập thể lao động xuất sắc và nhiều danh hiệu cao quý khác.
(3) Quỹ tín dụng nhân dân Nhân Trạch - Quảng Trị
Nằm trên địa bàn xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch (Quảng Bình) nay thuộc tỉnh Quảng Trị - vùng ven biển trọng điểm của tỉnh, QTDND Nhân Trạch nhiều năm qua đã trở thành kênh dẫn vốn quan trọng, giúp ngư dân và các hộ sản xuất, kinh doanh nhỏ yên tâm phát triển sinh kế.
Được thành lập từ năm 1996 với số vốn điều lệ ban đầu chỉ hơn 53 triệu đồng, tính đến ngày 30/6/2025, Quỹ có 4.179 thành viên, tổng nguồn vốn đạt 916 tỷ đồng, huy động 835 tỷ đồng, dư nợ cho vay 650 tỷ. Nguồn vốn của Quỹ chủ yếu tập trung cho các ngành nghề đặc thù ven biển như đóng mới, sửa chữa tàu thuyền, mua sắm công cụ, con giống phục vụ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản; hỗ trợ sản xuất - chế độ biến hải sản, nước mắm truyền thống; đồng thời cho vay hộ gia đình phát triển dịch vụ, chăn nuôi để đa dạng hóa thu nhập. Ngoài ra, QTDND Nhân Trạch còn tạo điều kiện cho lao động vay vốn đi làm ở nước ngoài, mở ra cơ hội làm việc và nguồn thu nhập ổn định cho nhiều hộ dân.

QTDND Nhân Trạch thường xuyên tham gia các hoạt động an sinh xã hội tại địa phương và trên cả nước. Năm 2024, QTDND Nhân Trạch đã xây dựng 15 căn nhà Đại đoàn kết, mỗi căn trị giá 50 triệu đồng, trao nhiều phần quà Tết cho hộ nghèo và nhận hỗ trợ đầu trẻ mồ côi với tổng kinh phí 90 triệu đồng. Những hoạt động này đã góp phần giúp lan tỏa tinh thần thần nhân văn, gắn kết cộng đồng và củng cố thêm niềm tin của người dân đối với tổ chức.
Trước các kết quả đạt được, QTDND Nhân Trạch vinh dự nhận Huân chương lao động hạng Ba năm 2006 và 2016; Huân chương lao động hạng Nhì năm 2020; Cờ thi đua của UBND Tỉnh Quảng Bình năm 2019 và năm 2024 nhiều năm liền được vinh danh là tập thể lao động xuất sắc do UBND cấp tỉnh và huyện trao tặng.
Với kết quả nổi bật, QTDND Nhân Trạch được chính quyền địa phương và hệ thống QTDND toàn quốc ghi nhận là mô hình tiêu biểu, không chỉ bởi dư nợ tăng trưởng ổn định, nợ xấu thấp, mà còn bởi những đóng góp xã hội thiết thực cho cộng đồng vùng biển.
Như vậy, có thể nói, QTDND là một “thành trì nhân văn” của hệ thống tài chính Việt Nam - nơi lợi ích kinh tế gắn liền với lợi ích xã hội, nơi sự phát triển của từng thành viên hòa vào sự phát triển chung của cộng đồng và quốc gia; cũng là minh chứng khẳng định tính ưu việt của chế độ chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Thực tiễn kết quả hoạt động của QTDND cho thấy mô hình hợp tác xã - nếu được tổ chức bài bản và quản trị minh bạch - hoàn toàn có thể trở thành trụ cột tài chính của cộng đồng. Không chỉ cung ứng vốn, mô hình này còn góp phần giữ vững niềm tin xã hội, ổn định đời sống dân cư, và định hình một nền kinh tế công bằng hơn. Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX, xem đây là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Phát triển mạnh mẽ kinh tế tập thể, các tổ chức kinh tế hợp tác chính là phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội, hướng đến mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta mong muốn.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn thẳng vào thực tế là quy mô của QTDND chỉ chiếm thị phần nhỏ trong hệ thống tài chính quốc gia. Đa số QTDND có quy mô hoạt động nhỏ và vừa, hoạt động chủ yếu trên địa bàn một phường, một xã, hoặc có thể mở rộng phạm vi hoạt động ở các phường, xã liền kề theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Sự liên kết giữa các QTDND với NHHTX một số nơi vẫn còn chưa chặt chẽ. Phần lớn hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ của các QTDND còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhân lực làm việc trong các QTDND còn thiếu và yếu về chuyên môn, nghiệp vụ…
2. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của QTDND trong giai đoạn mới
Kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam được dự báo có nhiều biến chuyển nhanh chóng, khó lường, tạo ra những cơ hội, thuận lợi mới, nhưng cũng có nhiều thách thức đối với các QTDND:
Một là, phong trào hợp tác xã quốc tế, mô hình QTDND quốc tế tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đa dạng trên hầu khắp các lĩnh vực như nông nghiệp, sản xuất, bán lẻ, tài chính, nhà ở, việc làm, giáo dục, y tế, dịch vụ xã hội...[5] .
Hai là, ở trong nước, nhu cầu tham gia vào HTX, QTDND ngày càng lớn để đẩy mạnh liên kết, hỗ trợ, giúp đỡ sản xuất nhỏ, kinh tế hộ nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận thị trường, xuất khẩu chính ngạch, giảm thiểu rủi ro, tăng tính công khai, minh bạch của quá trình sản xuất, hình thành các vùng nguyên liệu lớn, đẩy mạnh áp dụng khoa học và công nghệ, cơ giới hóa sản xuất lớn. Các doanh nghiệp, thành phần kinh tế khác ngày càng có nhu cầu tạo chuỗi liên kết với các HTX để phát huy lợi thế của các loại hình kinh tế hợp tác, mở rộng năng lực sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh trước sức ép của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tận dụng hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia.
Ba là, tác động từ sự phát triển của khoa học công nghệ trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (Machine Learning), điện toán đám mây (Cloud Computing), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (Internet of things - IoT)… ngày càng phát triển, được ứng dụng mạnh mẽ vào các hoạt động tài chính, ngân hàng để đánh giá, phân loại khách hàng; quyết định giải ngân hay giúp đơn giản hóa các quy trình, thủ tục và rút ngắn thời gian giao dịch. Điều này đặt ra yêu cầu đầu tư lớn nguồn lực và đào tạo cán bộ để ứng dụng công nghệ số trong hoạt động của các QTDND.
Bốn là, trước yêu cầu đặt ra của kỷ nguyên phát triển mới, vừa qua Đảng ta đã tiến hành thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị và sáp nhập các đơn vị hành chính, “sắp xếp lại giang sơn” với sự vận hành của bộ máy chính quyền địa phương hai cấp tại 34 tỉnh, thành phố, 3.321 đơn vị hành chính cấp xã trong cả nước. Thực tế này đặt ra yêu cầu nhanh chóng hoàn thành việc sáp nhập các QTDND phù hợp với mô hình tổ chức mới. Sau sáp nhập, quy mô hoạt động các QTDND sẽ tăng lên.
Năm là, Ngân hàng Nhà nước có chủ trương cơ cấu lại hệ thống QTDND và NHHTX Việt Nam giai đoạn 2025 - 2030, định hướng đến năm 2045. Mục tiêu đặt ra là trên cơ sở đánh giá thực trạng, bài học kinh nghiệp và đề ra những giải pháp đột phá để phát triển QTDND và NHHTX phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển của đất nước.
Kỷ nguyên phát triển mới đặt ra yêu cầu các QTDND cần tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, … để nâng cao hiệu quả hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện. Trên cơ sở các phân tích ở trên, nhóm tác giả đề xuất một số nhóm giải pháp sau để tiếp tục phát huy vai trò và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của QTDND - một bộ phận của kinh tế hợp tác xã - trong nền kinh tế quốc dân thời gian tới:
Thứ nhất, nhanh chóng ổn định tổ chức hoạt động của các QTDND trên cả nước sau sáp nhập, vượt qua khó khăn, thách thức bước đầu của quá trình sáp nhập trên tinh thần đoàn kết, tất cả vì lợi ích của cộng đồng. Khắc phục những hạn chế đã được chỉ ra trong hoạt động của các QTDND.
Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành Đề án tái cơ cấu tổng thể hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam giai đoạn 2025-2030 và định hướng đến năm 2045 trên cơ sở lắng nghe, tiếp thu ý kiến từ cơ sở và các bên liên quan, phù hợp với các chủ trương chiến lược mà Đảng mới ban hành, nhất là chủ trương chuyển đổi số toàn diện và chuyển từ tư duy "quản lý" sang "kiến tạo phát triển".
Thứ hai, QTDND là một mô hình kinh tế tập thể mang tính đặc thù, vừa hướng đến lợi ích cộng đồng, vừa chịu sự chi phối của các yếu tố thị trường. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, QTDND đang đối mặt với nhiều thay đổi, đặc biệt là yêu cầu chuyển đổi số đang được triển khai sâu rộng trong ngành ngân hàng. Nếu khuôn khổ pháp lý không được điều chỉnh kịp thời, phù hợp với xu thế phát triển, QTDND có nguy cơ tụt hậu và dần mất vai trò trong nền kinh tế.
Việc đảm bảo QTDND hoạt động an toàn, đúng tôn chỉ là điều kiện cần thiết, nhưng nếu pháp luật đặt nặng yếu tố kiểm soát mà thiếu cơ chế hỗ trợ và khuyến khích đổi mới, thì sẽ vô tình hạn chế tiềm năng phát triển của khu vực này. Vì vậy, cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý vừa đảm bảo an toàn, vừa mang tính linh hoạt và mở, để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giúp QTDND không chỉ thích ứng mà còn phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.
Thứ ba, rà soát và tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức của các QTDND theo hướng tinh, gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Đầu tư thỏa đáng phát triển hệ thống hạ tầng số phục vụ hoạt động của các QTDND, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa bàn công tác. Đồng thời, kịp thời đào tạo, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ QTDND ngang tầm nhiệm vụ trong bối cảnh mới.
Thứ tư, nhân rộng các mô hình hay, cách làm hiệu quả trong đổi mới phương thức kinh doanh, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động của QTDND… Xây dựng, nhân rộng các mô hình QTDND thành công, năng động, hiện đại, năng lực quản trị, điều hành tốt. Tiến hành tổng kết thực tiễn thấu đáo làm cơ sở nhân rộng những mô hình phát triển QTDND thành công điển hình đã được thực tiễn kiểm chứng tại một số địa phương, địa bàn, tổ chức.
Thứ năm, tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế, tiếp tục tham khảo kinh nghiệm và thực tiễn quốc tế như của Nhật Bản (ngân hàng Norinchukin Bank), Hàn Quốc (mô hình Liên đoàn Hợp tác xã Nông nghiệp quốc gia - NACF), Hà Lan (ngân hàng Rabobank)… để hoàn thiện mô hình và hoạt động của QTDND phù hợp với bối cảnh tình hình mới.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới.
2. Chính phủ (2001), Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13/8/2001 về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân.
3. TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, “Định hướng tái cấu trúc hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh mới”, ngày 05/5/2025, https://tapchinganhang.gov.vn/dinh-huong-tai-cau-truc-he-thong-quy-tin-dung-nhan-dan-trong-boi-canh-moi-15925.html
4. Hương Giang và Hoàng Giáp, “Cơ cấu tổng thể hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, xây dựng hệ sinh thái tài chính cộng đồng bền vững”, ngày 04/07/2025, https://www.sbv.gov.vn/vi/web/sbv_portal/w/c%C6%A1-c%E1%BA%A5u-l%E1%BA%A1i-h%E1%BB%87-th%E1%BB%91ng-qu%E1%BB%B9-t%C3%ADn-d%E1%BB%A5ng-nh%C3%A2n-d%C3%A2n-x%C3%A2y-d%E1%BB%B1ng-h%E1%BB%87-sinh-th%C3%A1i-t%C3%A0i-ch%C3%ADnh-c%E1%BB%99ng-%C4%91%E1%BB%93ng-b%E1%BB%81n-v%E1%BB%AFng-1
5. Trang điện tử của Quỹ tín dụng nhân dân Thị trấn Nông trường Mộc Châu: https://ncf.com.vn/
6. Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2024, phương hướng hoạt động kinh doanh năm 2025 của Quỹ tín dụng nhân dân Dương Nội.
7. Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2024, phương hướng hoạt động kinh doanh năm 2025 của Quỹ tín dụng nhân dân Nhân trạch.
TS. Nguyễn Mạnh Hùng và TS. Lục Anh Tuấn[1]
[1] Ban Thư ký khoa học, Hội đồng Lý luận Trung ương.
[2] Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13/8/2001 về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân.
[5] Theo báo cáo năm 2020 của Liên minh HTX Quốc tế (ICA), trên toàn thế giới hiện có hơn 3 triệu HTX với 1 tỷ người là thành viên, tương đương hơn 12% dân số thế giới, trong đó 300 HTX lớn nhất thế giới hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, bao gồm: bảo hiểm (32%), nông nghiệp (35%), thương mại bán buôn và bán lẻ (19%), dịch vụ tài chính ngân hàng (8%), công nghiệp và tiện ích (2%), y tế, giáo dục và chăm sóc xã hội (2%) và các dịch vụ khác (2%) với tổng doanh thu đạt 2.146 tỷ USD, tạo việc làm hay cơ hội việc làm cho 280 triệu người lao động trên toàn cầu, tương ứng với 10% người lao động trên thế giới.