2. Kết quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị: ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
2.1. Ưu điểm trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Tư duy mới về kinh tế và chính trị đã làm thay đổi căn bản đời sống kinh tế và đời sống chính trị, tạo ra bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế và sự ổn định về chính trị của đất nước.
Trong đổi mới kinh tế, Đại hội XII đánh giá: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế được nâng lên. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông thoáng hơn. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế” [1]. “Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã từng bước phù hợp với cơ chế thị trường; hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh”[2].
Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhờ vậy, sau hơn 30 năm đổi mới chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước thoát khỏi khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
Trong đổi mới chính trị, Đại hội XII đánh giá: Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn[3]. “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhất là vai trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc”[4]. “Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản”[5]. “Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao”[6]. Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện”[7]. Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt kết quả tích cực[8]. Quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn[9].
2.2. Hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Thứ nhất, đổi mới chính trị vẫn còn chậm hơn so với đổi mới kinh tế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua vẫn còn nhiều chính sách chưa phù hợp với cuộc sống, gây cản trở sự phát triển kinh tế. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi, nhiều cấp nhiều ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy dịnh về quản lý nhà nước không còn phù hợp, chưa bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác động giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn nữa các nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các vùng và toàn xã hội. Có những chính sách bị biến dạng qua nhiều tầng nấc hành chính quan liêu. Việc ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành luật rất chậm.
Đổi mới của khu vực kinh tế nhà nước cũng còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, xảy ra nhiều tham nhũng, tiêu cực, tạo ra sự e ngại từ phía các nhà đầu tư vào các khu vực kinh tế nhà nước, giảm khả năng đóng góp khả năng, trí tuệ và kinh nghiệm của các nhà đầu tư vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước; chưa có chính sách phù hợp để thúc đẩy kinh tế khu vực ngoài quốc doanh; nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhận chậm thay đổi nên việc phát triển đảng trong khu vực kinh tế tư nhân còn rất chậm; mối quan hệ nhà nước - thị trường chưa được giải quyết thỏa đáng vô hình trung tạo ra kẽ hở một cách "hợp pháp" cho các hoạt động kinh tế ngầm lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế nói chung, gây ra những hệ quả chính trị - xã hội không nhỏ.
Độ vênh trong quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế nhiều thành phần còn thể hiện ở mức độ cung cấp vốn, phân bổ dự án đầu tư thiếu tập trung, hoặc nếu tập trung thì lại tập trung quá mức. Do quản lý vừa buông lỏng, vừa hình thức nên hiệu quả không đáng kể so với đầu tư. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng của Chính phủ xử lý nhiều vấn đề chưa nhạy bén, thiếu linh hoạt và còn quan liêu nên đôi khi đưa ra những quy định trái ngược nhau, gây xáo trộn ở một số lĩnh vực và tâm lý bất ổn trong dư luận nhân dân.
“Hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu nền kinh tế, thực hiện ba đột phá”[10]. “Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa tạo đột phá lớn trong huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển”[11]. “Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự thông thoáng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường”[12]…
Thứ hai, tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân vẫn tồn tại, có nơi có diễn biến phức tạp. Hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội có xu hướng hành chính hóa và bộ máy cồng kềnh.
Đại hội XI của Đảng thắng thắn nhìn nhận về những hạn chế trong đổi mới chính trị so với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm” [13]; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước”[14]; “công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục” [15].
Thứ ba, đổi mới trong bản thân lĩnh vực chính trị cũng còn những hạn chế.
Ý chí của quyền lực chính trị chưa được coi trọng và tuân thủ một cách nhất quán. Chủ trương của Nhà nước và các địa phương không đồng bộ, thậm chí trái ngược nhau. Việc coi thường kỷ cương đang làm sức mạnh của hệ thống chính trị chậm được tăng cường và có phần bị suy giảm. Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ làm cho một số nghị quyết của Đảng khó đi vào cuộc sống hoặc bị vận dụng sai lệch.
Chủ trương của Nhà nước và các địa phương không đồng bộ, thậm chí trái ngược nhau. Việc coi thường kỷ cương đang làm giảm đi sức mạnh của hệ thống chính trị vốn rất hiệu quả trước đây. Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ làm cho một số nghị quyết của Đảng khó đi vào cuộc sống. Nhiều chủ trương đã đề ra hoặc bị rơi vào quên lãng, hoặc thiếu tính khả thi do lối tư duy nóng vội, duy ý chí và không có tinh thần trách nhiệm đã không được thực hiện nghiên túc, đầy đủ.
Mặt khác, trong đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trị - chủ thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.
Đại hội XII chỉ rõ: “Chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế. Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực thi công vụ còn nhiều yếu kém. Cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính còn phức tạp, phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển”[16]. “Việc triển khai một số nhiệm vụ tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lột tội phạm. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiệm trọng[17]. “Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp có lúc, có nơi chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở, còn có biểu hiện hành chính hóa, chưa thiết thực, hiệu quả”[18]. “Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thể chế hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ”[19]. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm[20]…
Đại hội XII cũng thẳng thắn chỉ ra hạn chế: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”[21], đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển và cải thiện đời sống nhân dân.
2.3. Nguyên nhân ưu điểm, hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
- Nguyên nhân ưu điểm: Vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn luôn được khẳng định là nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nói chung cũng như nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Bên cạnh đó, sự ổn định cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội với tốc độ tăng trưởng cao, tạo tiền đề vật chất đặc biệt quan trọng, làm “bệ đỡ” để đổi mới chính trị.
- Nguyên nhân hạn chế: Ở một số khía cạnh, vấn đề đổi mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và phân định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Rất nhiều trường hợp, ở nhiều lĩnh vực, cán bộ lãnh đạo đường lối tham gia vào công việc của cán bộ quản lý một cách quá sâu nên dễ dẫn đến hai tình huống: hoặc không đạt được kết quả như chủ trương do trình độ và chuyên môn không đúng tầm, khi đó không xác định được ai sẽ là người chịu trách nhiệm; hoặc là do bất đồng ý kiến, không tìm được tiếng nói chung trong việc tiến hành công việc dẫn đến công việc bị bê trễ, lơ lửng kéo dài mà cũng không thể quy trách nhiệm cho cụ thể cá nhân nào. Việc nhất thể hóa các chức danh lãnh đạo là một chủ trương đúng, song ở một số chủ thể cụ thể, bản thân người lãnh đạo hoặc do hạn chế về năng lực, hoặc chưa có nhận thức đúng về yêu cầu, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, chưa phân định rạch ròi giữa lãnh đạo và quản lý, dẫn đến chồng chéo, thiếu thống nhất, hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo, quản lý thấp.
3. Những vấn đề đặt ra về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Thứ nhất, về chính trị, mặc dù đã có những thành tựu bước đầu, nhưng hiện còn nhiều vấn đề bức thiết đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết như: xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - với tư cách là môi trường pháp lý và động lực cho phát triển kinh tế chưa được thực hiện một cách đúng mức; việc đấu tranh phòng chống tham nhũng, cải cách hành chính còn hạn chế; trong nhiều mối quan hệ, chính trị chưa mở đường cho kinh tế phát triển mà đôi khi, còn kìm hãm sự phát triển.
Xét trên phương diện quy luật, dân chủ hóa các hoạt động kinh tế phải đi đôi với dân chủ hóa chính trị. Dân chủ hóa kinh tế có nghĩa các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế (người dân, doanh nghiệp) có tiếng nói trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế; giảm thiểu, dẫn tới xóa bỏ mọi hình thức độc quyền, lấy thị trường làm căn cứ quan trọng nhất để phân bổ các nguồn lực phát triển; xác lập cơ chế đảm bảo môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Từ đó, cũng đặt ra các yêu cầu cho đổi mới chính trị như: nhất quán định hướng chính trị trong phát triển kinh tế thị trường; xác lập được vị thế, vai trò, tiếng nói của người dân trong hoạch định chính sách; Nhà nước hoạt động theo chuẩn mực của nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật, bản thân Nhà nước cũng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp… Có những yếu tố của thị trường trước đây chúng ta không thừa nhận, không cho phép tồn tại, giai đoạn đổi mới đã thừa nhận, thậm chí khuyến khích phát triển như: thị trường tài chính, thị trường sức lao động, thị trường chứng khoán…, vậy, những yếu tố của nền dân chủ hiện đại như: xã hội dân sự, tự do báo chí, quyền lập hội…có được chấp nhận không, chấp nhận và vận dụng ở mức độ nào cũng cần phải được nhận thức và giải quyết trên phương diện lý luận.
Thứ hai, về mặt lý luận, một số vấn đề trong mối quan hệ giữa “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” chưa được làm rõ, chưa tạo ra sự thống nhất trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trong khi kinh tế là cái quyết định chính trị, kinh tế mới ở mức “định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhưng chính trị là cái phản ánh kinh tế lại là “xã hội chủ nghĩa”. Có nghĩa là cái phản ánh ở trình độ cao hơn cái được phản ánh; cái bị quyết định cao hơn cái quyết định. Nhận thức như vậy liệu có phù hợp với quy luật khách quan. Chính nhận thức như vậy đã tạo ra những sự lúng túng, khiên cưỡng nhất định trong xây dựng các chính sách đổi mới chính trị.
Thứ ba, nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân còn có biểu hiện chưa thống nhất.
Về kinh tế tư nhân, Nghị quyết Đại hội XII nêu: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế” [22]. Để kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW (ngày 3 tháng 6 năm 2017) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, về quan điểm, Đảng ta cho rằng, phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây được coi là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP. Điều đặc biệt quan trọng là, phải xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, nhất là những định kiến về chính trị, để thực sự tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh hơn nữa phát triển kinh tế tư nhân. Bởi trong thực tế đã có lúc chúng ta đã có những định kiến với thành phần kinh tế này. Như vậy, tuy kinh tế tư nhân đã được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế ở nước ta, nhưng ở một số địa phương, ở một số chủ thể chính trị, chưa có nhận thức thống nhất, nên việc xử lý những vấn đề liên quan đến kinh tế tư nhân chưa nhất quán, thậm chí có sai phạm, chưa tạo động lực cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ và hiệu quả.
Thứ tư, việc đổi mới nhận thức về sở hữu đã thực sự tạo điều kiện để giải phóng sức sản xuất xã hội. Tuy nhiên, quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề này trong những năm qua còn có nội dung chưa đủ rõ, chưa được hiểu thống nhất. Chẳng hạn, trong Cương lĩnh (1991) ghi là xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu, đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) lại ghi là xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp. Việc hiểu nội hàm khái niệm “tiến bộ phù hợp” cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất cao. Điều này dẫn đến sự thiếu thống nhất trong nhận thức và giải quyết thực tiễn vấn đề sở hữu trong lĩnh vực kinh tế, nhất là đối với kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
4. Kiến nghị bổ sung một số nhận thức và định hướng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
4.1. Kiến nghị một số nguyên tắc cần quán triệt bổ sung nhận thức và định hướng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị phải do Đảng lãnh đạo và vì mục tiêu bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển.
- Sự nghiệp đổi mới nói chung, đổi mới thể chế kinh tế và thể chế chính trị nói riêng phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng và phải lấy mục tiêu cao nhất “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm cơ sở cho việc nhận thức, giải quyết và thực hiện mối quan hệ này.
- Để thực hiện được mục tiêu đổi mới thể chế kinh tế cần phải đặc biệt coi trọng việc giữ vững ổn định chính trị, có nghĩa là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị chứ không phải là sự thoả hiệp, cải lương dẫn đến từ bỏ sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Đổi mới là thực hiện tốt hơn nữa nhất nguyên chính trị, không chấp nhận chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Đa nguyên kinh tế không đồng nhất với đa đảng chính trị.
- Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường thì Đảng phải lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách kinh tế phục vụ cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, bảo đảm kinh tế tăng trưởng bền vững, hạn chế tình trạng bất công, bóc lột, hủy hoại môi trường. Muốn giữ vững được sự lãnh đạo của Đảng cần tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tức là nguyên tắc có ý nghĩa sống còn này phải được thực thi nghiêm túc ở mọi cấp, mọi ngành.
- Kinh tế nhà nước thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; cơ cấu kinh tế của nhà nước được đổi mới căn bản trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập.
Thứ hai, đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị phải đảm bảo sự phát triển đồng bộ của cả kinh tế, cả chính trị.
- Không được tuyệt đối hoá hoặc đổi mới thể chế kinh tế, hoặc đổi mới thể chế chính trị tránh rơi vào khuynh hướng duy vật máy móc hoặc khuynh hướng chủ quan duy ý chí. Việc nhấn mạnh những nội dung cụ thể trong đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là do yêu cầu, điều kiện thực tiễn đất nước và quốc tế cụ thể đòi hỏi.
- Các quyết định chính trị phải đảm bảo tính hậu thuẫn, hỗ trợ, mở đường cho kinh tế phát triển theo đúng định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa chứ không được cản trở kinh tế phát triển hoặc phát triển chệch hướng mục tiêu chính trị.
- Không thể coi tăng trưởng kinh tế là mục đích tự thân và là mục tiêu cuối cùng của đổi mới. Tăng trưởng kinh tế tự thân không dẫn tới bảo đảm xây dựng được một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Nếu kinh tế tăng trưởng mà dẫn tới phân hoá giàu - nghèo, bất công xã hội, hủy hoại môi trường thì sẽ làm sai lệch mục tiêu chính trị đúng đắn của đổi mới kinh tế.
- Đổi mới kinh tế đồng bộ nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm không dàn trải. Các vùng, các địa phương phải chủ động khai thác và phát huy thế mạnh của mình chứ không nên sao chép một móc một mô hình cụ thể.
- Phát triển kinh tế phải dựa trên nội lực là chủ yếu đồng thời sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, tránh rơi vào tình trạng tạo ra gánh nợ ngày càng nặng nề cho các thế hệ sau. Không để xã hội Việt Nam thành xã hội tiêu dùng, là thị trường cho các loại hàng hoá rẻ tiền, chất lượng kém, công nghệ lạc hậu. Hội nhập kinh tế để nhập công nghệ tiên tiến chứ không trở thành bãi rác công nghiệp cho các nước phát triển.
- Đổi mới thể chế kinh tế và thể chế chính trị phải kết hợp hài hoà với giải quyết các vấn đề xã hội. Tiêu chí phát triển bền vững đòi hỏi phải làm tốt các vấn đề như chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của trẻ em, vấn đề lao động trẻ em, vấn đề tự do báo chí, thông tin, vấn đề dân chủ, vấn đề tôn giáo, dân tộc... Những sai lầm khi giải quyết những vấn đề đó có thể trở thành nguyên cớ để các thế lực thù địch gây sức ép lên chế độ chính trị của chúng ta.
- Độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động lựa chọn các đối tác hợp tác, chủ động xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn khổ quy định chung; chủ động điều chỉnh pháp luật, chính sách cho phù hợp; chủ động tổ chức sản xuất và điều hành kinh tế trong nước nhằm nâng cao không ngừng khả năng cạnh tranh không chỉ trong thị trường nội địa mà cả trên thị trường quốc tế, chủ động phương cách thực hiện các cam kết.
Thứ ba, lấy thực tiễn đất nước và quốc tế làm căn cứ điều chỉnh mối quan hệ giữa đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính trị. Theo quan điểm duy vật biện chứng, trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thì xét đến cùng kinh tế luôn quyết định chính trị. Tuy nhiên, trong những điều kiện thực tiễn cụ thể chính trị phải được ưu tiên so với kinh tế. Vấn đề ưu tiên bước đi đổi mới kinh tế hay chính trị trước hết phải căn cứ vào thực tiễn cụ thể của đất nước và quốc tế chứ không thể tùy tiện, chủ quan, sách vở.
4.2. Kiến nghị một số nội dung nghiên cứu bổ sung nhận thức và định hướng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong văn kiện Đại hội XI, Đảng đã nêu ra mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây được coi là sự sáng tạo độc đáo về mặt lý luận, phản ánh sinh động các lĩnh vực trọng yếu trong sự phát triển của đất nước. Những mục tiêu này đang là định hướng quan trọng cho sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân. Mặc dù mục tiêu là định hướng lớn, tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ cũng cần có sự bổ sung, phát triển. Điều này không phải là xa rời mục tiêu, xa rời nguyên tắc mà chính là sự sáng tạo.
Trong thời kỳ hiện nay, mục tiêu này có thể bổ sung thêm cụm từ “hạnh phúc” vào mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”. Bởi lẽ, trong thời đại ngày nay, hạnh phúc được coi là chỉ số rất quan trọng để đánh giá sự phát triển của một đất nước. Hạnh phúc được hình thành trên cơ sở tổng hợp của sự hài hòa nhiều yếu tố, cả vật chất (kinh tế) đến những yếu tố văn hóa tinh thần. Do vậy, chỉ số này cũng cần được xem là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, trong đổi mới chính trị, cần xác định rõ ràng hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, để việc nhất thể hóa các chức danh lãnh đạo không bị chồng chéo, thiếu minh bạch, thậm chí có thể dẫn đến lạm quyền. Cần nghiên cứu xây dựng bổ sung và hoàn thiện nhanh cơ chế, chính sách, pháp luật để kiểm soát quyền lực, nhất là trong điều kiện thực hiện nhất thể hóa các chức danh lãnh đạo như hiện nay, để việc lãnh đạo đảm bảo tính nguyên tắc, theo định hướng đúng và không để xảy ra những sự việc tiêu cực, lạm quyền, tham nhũng đáng tiếc như đã xảy ra trong thời gian vừa qua.
Bên cạnh đó cần phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội thông qua việc đổi mới toàn bộ hệ thống, xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm phát huy sức sáng tạo, tính tích cực của nhân dân trong việc tham gia góp ý cho Đảng, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống văn hóa mới, nhất là ở khu vực nông thôn.
Thứ ba, bên cạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược do Trung ương quản lý, cần tập trung xây dựng con người chính trị về đạo đức, năng lực, về văn hóa chính trị… của đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp cơ sở, nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của nông nghiệp, nông thôn.
Thứ tư, cần xác định rõ hơn những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo hướng:
- Xác định và tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường, nhất là quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu, quy luật giá cả.
- Xác định định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế như thế nào để Đảng, Nhà nước làm tốt chức năng lãnh đạo, quản lý mà không can thiệp sâu vào kinh tế, đảm bảo tính linh hoạt của kinh tế thị trường, thúc đẩy sản xuất phát triển. Mở rộng nội hàm “định hướng xã hội chủ nghĩa” của nền kinh tế thị trường theo nghĩa mục tiêu hướng tới của nền kinh tế là xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta với những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh của Đảng đã xác định. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể các đặc trưng, không thể chỉ quy về một số đặc trưng (chủ yếu về chính trị, xã hội, quan hệ sản xuất) để coi đó là định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, tiếp tục xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá xác đáng hơn. Kinh tế tư nhân ngày càng đóng góp to lớn hơn trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội. Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể luôn duy trì ổn định trong khoảng 40-43%, và chiếm khoảng 83% lao động xã hội. Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh. Số lượng doanh nghiệp của tư nhân tăng nhanh với nhiều loại hình đa dạng; phong trào khởi nghiệp được đẩy mạnh…
Trong những năm tới cần xác định:
- Tiếp tục thể chế hóa một số nội dung Nghị quyết phù hợp giai đoạn 2017 - 2020, xác định rõ những nội dung tiếp tục phải được thể chế hóa và nội dung không còn phù hợp, cần phải điều chỉnh, để tiếp tục đổi mới hơn nữa cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, để kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Điển hình như, đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, cần quy định rõ việc thành lập và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, các đoàn thể trong doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời, tiếp tục hỗ trợ công tác theo dõi, phân tích và cung cấp thông tin cho hoạt động xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu cho kinh tế tư nhân.
- Thúc đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với việc cơ cấu lại các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp tư nhân. Thực hiện đúng chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; khuyến khích và mở rộng các hình thức hợp tác, liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo mối quan hệ hợp tác, cạnh tranh, cùng có lợi.
- Hình thành, phát triển thị trường nhân lực quản trị kinh doanh, kể cả đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước.
- Tăng cường phát triển Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân. Tăng cường cơ cấu tương xứng với những người xuất thân từ kinh tế tư nhân vào hệ thống chính trị các cấp trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn và điều kiện quy định chung. Chú trọng đẩy mạnh bồi dưỡng, đào tạo một đội ngũ doanh nhân Việt Nam có đức, có tài và bản lĩnh kinh doanh để xây dựng nền kinh tế dân tộc vững mạnh trong hội nhập quốc tế./.
(hết)
PGS.TSKH Nguyễn Văn Đặng
PGS. TS Đặng Quang Định
[1] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,Hà Nội 2016; tr.97-98.
[2] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,Hà Nội 2016; tr.98.
[3] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.187.
[4] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.190.
[5] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.171
[6] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.172.
[7] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.172.
[8] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.172.
[9] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.167.
[10] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016; tr.98-99.
[11] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016; tr.99.
[12] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016; tr.99.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.179.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.171.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.172.
[16] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.173-174.
[17] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.174.
[18] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.157
[19] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.158.
[20] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội 2016, tr.168.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.68.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016, tr. 107-108