Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ​

Ngày phát hành: 04/01/2023 Lượt xem 5418

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội (Ảnh tư liệu)

 

  1. Quá trình nhận thức của Đảng về mối quan hệ lớn cần giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội

 

Từ 1986 đến trước 2011

Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng ta chưa xác định rõ, cụ thể, nhất là hệ các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình thực hiện các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong các kỳ đại hội đầu thời kỳ đổi mới, về tư tưởng chỉ đạo, về một số nội dung liên quan đến các mối quan hệ lớn cần tập trung giải quyết đã được Đảng ta chú trọng. Chẳng hạn, Đại hội VI (1986) đã nhấn mạnh đến nội dung “ổn định” và “phát triển” khi đề cập đến yêu cầu “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội” cùng với “tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”. Báo cáo chính trị Đại hội viết: “Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được”[1].

 

Tới Đại hội VIII (1996), sau 10 năm thực hiện đổi mới đất nước, Đảng đã rút ra 6 bài học chủ yếu, trong đó đã đề cập đến tư tưởng của mối quan hệ “đổi mới, ổn định và phát triển” khi đề cập “đổi mới phải được thực hiện trên cơ sở bảo vệ, kế thừa” những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những thành quả to lớn của cách mạng” cùng với “kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới”. Đồng thời trong 6 bài học của Đại hội, Đảng ta cũng đề cập đến mối quan hệ giữa “đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị”. Văn kiện viết: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”[2].

 

Trên cơ sở quan điểm của Đảng về “phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” trong Cương lĩnh 1991, Đại hội X (2006), lần đầu tiên mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” được xác định trong các bài học lớn từ thực tiễn 20 năm đổi mới: “Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta” chính là thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[3].

 

Về mối quan “giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất” đã được Đảng ta nêu trong Đại hội VI. Đường lối phát triển kinh tế đất nước được đề cập tại Đại hội: “… phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”[4]. Một trong 7 phương hướng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua, gọi tắt là Cương lĩnh 1991 cũng đã đề cập đến môi quan hệ này: “Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu” phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.

 

Cương lĩnh 1991 cũng nhấn mạnh đến nội dung của mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”, khi nhấn mạnh “kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài”[5]. Đến Đại hội VIII, nhận thức về mối quan hệ này ngày càng rõ hơn: “Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”[6]. Mối quan hệ này được Đảng nhấn mạnh và yêu cầu cao hơn tại Đại hội IX: “Tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.

Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục”[7].

 

Về mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” đã được Đảng ta nêu trong Cương lĩnh 1991, là một trong bảy phương hướng trong Cương lĩnh: Thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung này cũng được nhấn mạnh trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 tại Đại hội IX: “Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng – an ninh[8].

 

Về chính sách đối ngoại cũng đã được Đại hội VI nêu trong Báo cáo chính trị: “… giữ vững độc lập, tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới”[9], và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 đã nhấn mạnh: “Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế[10].

 

Về mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là một trong những nội dung đã được đề cập khá sớm. Ngay trong Báo cáo chính trị Đại hội VI đã khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội[11] và mối quan hệ chủ đạo này tiếp tục được khẳng định trong hầu hết các văn kiện của các Đại hội thời kỳ đổi mới.

 

Từ 2011 đến nay

Trong quá trình tổng kết thực tiễn 25 năm thực hiện đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển) được Đại hội XI của Đảng thông qua, đã xác định hệ mục tiêu đổi mới, của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, gồm 8 đặc trưng, 8 phương hướng. Đồng thời trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng đã phát hiện và xác định hệ các mâu thuẫn lớn cần phải nắm vững và giải quyết bảo đảm cho định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững, cũng như thực hiện được hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là: “Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”[12].

 

Trên cơ sở 8 mối quan hệ lớn được xác định tại Đại hội XI (2011) và tổng kết thực tiễn tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội lần thứ XII (2016), Đảng đã bổ sung thêm một mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ, đó là quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; đồng thời đã điều chỉnh mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa thành quan hệ giữa tuân theo quy luật của thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; đến Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII), mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường được bổ sung thành quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội[13].

 

Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”, thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, xuất phát từ thực tiễn, Đảng bổ sung mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội[14].

 

Đến nay, Đảng ta đã xác định 10 mối quan hệ lớn cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. (1) Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; (2) giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; (3) giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; (4) giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; (5) giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; (6) giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; (7) giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; (8) giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; (9) giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; (10) giữa thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”[15].

 

Như vậy, Đảng đã có những điều chỉnh, bổ sung từng mối quan hệ một cách chặt chẽ, đầy đủ, thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đây là những vấn đề mang tính quy luật khách quan, tồn tại, vận động trong điều kiện quá độ “gián tiếp” lên chủ nghĩa xã hội, phải được nhận thức sâu sắc và giải quyết thường xuyên ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực. 10 mối quan hệ lớn là sự khái quát cao nhận thức lý luận của Đảng trên con đường thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

 

2. Những giá trị cốt lõi của mười mối quan hệ lớn

 

Thứ nhất: Việc nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn đã được Đảng ta thực hiện trong mối liên hệ hữu cơ với nhận thức và từng bước hoàn thiện 8 đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam cũng như 8 phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ đã tạo ra bước chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Chúng ta đã giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo ra sự ổn định về chính trị trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường.

 

Thứ hai: Giá trị cốt lõi trong các mối quan hệ lớn cần nắm vững và xử lý thể hiện trước hết ở mối quan hệ lớn thứ nhất: Giữa đổi mới, ổn định và phát triển. Đây là mối quan hệ có vị trí tổng quát, bao trùm các mối quan hệ còn lại, đồng thời trong mối quan hệ này, ổn định là tiền đề và điều kiện, đổi mới là động lực, là phương thức, con đường tất yếu phải đi và phát triển là mục đích. Do vậy, giữ vững được ổn định, nhất là ổn định chính trị sẽ thực hiện được con đường đổi mới và mục đích phát triển. Để giữ vững ổn định (chính trị), nhất định phải nắm vững và giải quyết 9 mối quan hệ tiếp theo.

Các mối quan hệ còn lại phản ánh toàn diện đổi mới trên các lĩnh vực, các khía cạnh của đời sống xã hội, trong đó tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị đã được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ, nhất là đổi mới chính trị, hệ thống chính trị phải đóng vai trò bảo đảm chính trị cho đổi mới kinh tế, đồng thời thúc đẩy kinh tế phát triển, không cản trở sự phát triển của kinh tế.

 

Thứ ba: Nội hàm giữa đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn. Không còn tư duy tuyệt đối hóa, xơ cứng, máy móc và siêu hình, nhấn mạnh một chiều về vai trò của đổi mới kinh tế hoặc chính trị; tư duy, nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng đầy đủ hơn, phù hợp với thực tiễn sống động của đời sống kinh tế và đời sống xã hội, mang “hơi thở” của cuộc sống.

 

Thứ tư: Nhận rõ thực chất mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan. Các quy luật của kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh...) là khách quan. Định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ quan, nhưng không phải là chủ quan duy ý chí hay giáo điều máy móc. Định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ quan nhưng phải luôn dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Nói rộng ra, đó là mối quan hệ giữa hai bộ phận cốt lõi của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và cũng chính là hai bộ phận cốt lõi của một hình thái kinh tế - xã hội ra đời ở giai đoạn đầu. Mục tiêu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường là thực hiện "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

 

Thứ năm: Nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có những bước tiến. (1) Về cơ chế quản lý kinh tế không ngừng được đổi mới, từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp đến cơ chế quản lý kinh tế gắn với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước góp phần giải phóng và phát huy các tiềm năng trong xã hội. (2) Về chế độ phân phối có sự phát triển mới, xác định rõ vai trò của thị trường, nhà nước và nhân dân.

 

Thứ sáu: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội luôn được xác định rõ ràng, nhất quán và xuyên suốt. Điều này được thể hiện ở chỗ tầm quan trọng và nội dung của mối quan hệ này được phát triển hơn và được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), trong các văn kiện của Đại hội XI, XII và một số nghị quyết Trung ương. Nguyên tắc nhất quán trong giải quyết mối quan hệ này là “không đánh đổi xã hội, môi trường để tăng trưởng kinh tế”. Quan điểm có tính nguyên tắc này của Việt Nam hoàn toàn phủ hợp với quan điểm “phát triển bền vững”, “phát triển bao trùm” hiện đang được thảo luận nhiều trên thế giới cũng như tính xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang xây dựng và phát triển.

 

Thứ bảy: Đảng ta đặc biệt quan tâm bổ sung, phát triển tư duy lý luận, về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. (1) Nhận thức rõ tầm quan trọng của “Dựng nước đi đôi với giữ nước”. Bảo vệ là điều kiện để xây dựng; xây dựng tạo sức mạnh để bảo vệ, trong bảo vệ có xây dựng, trong xây dựng có bảo vệ, phòng ngừa nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. (2) Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. (3) Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. (4) Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. (5) Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến.

 

3. Những nội dung cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện

 

Một là: Những nội dung cần tiếp tục có sự thống nhất trong nhận thức và triển khai

- Nội dung của 10 mối quan hệ lớn cần được nghiên cứu để đề xuất cụ thể, cả về cơ sở lý luận chứ không chỉ dừng lại phương pháp luận chung chung. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng không ít cán bộ Đảng viên nhân dân chưa quan tâm đầy đủ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của các mối quan hệ lớn. Trên cơ sở đó cụ thể hóa những điều kiện, biện pháp, cách thức giải quyết các mối quan hệ này trong mối liên hệ nội tại giữa chúng cũng như trong mối liên hệ với việc nhận thức và thực hiện 8 đặc trưng và 8 phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chỉ có như vậy mới có được những định hướng, giải pháp khả thi trong việc nắm vững và giải quyết từng mối quan hệ[16].

 

- Mối quan hệ giữa giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được nêu ra từ rất sớm nhưng nội hàm, cơ chế vận hành của mối quan hệ này còn lúng túng, chưa rõ. Do vậy, cần (i) Nghiên cứu làm rõ nội hàm, cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, khắc phục tính chung chung, lúng túng trong thực hiện cơ chế, nhất là nội dung, cơ chế “nhân dân làm chủ”[17]. (ii) Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và công dân cũng cần được làm rõ nội hàm của mối quan hệ. (iii) Thống nhất trong nhận thức và quyết liệt trong giải quyết vấn đề kiểm soát quyền lực trong Đảng cần được nghiên cứu thấu đáo. (iv) Khắc phục tính chung chung trong cơ chế ngăn ngừa sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự suy thoái, tự chuyển hóa” trong đội ngũ đảng viên.

 

- Mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ lớn, cơ bản, đòi hỏi phải giải quyết trong tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khắc phục nhận thức chưa đầy đủ về bản chất, vai trò, chức năng của Nhà nước, thị trường, xã hội, cũng như mối quan hệ giữa ba thực thể này khi đề cao vai trò Nhà nước xem nhẹ thị trường, xã hội; ngược lại đề cao vai trò thị trường xem nhẹ vai trò Nhà nước,v,v…

 

Hai là: Một số kiến nghị

- Tiếp tục giải quyết tốt quan hệ Nhà nước – Thị trường – Xã hội.

Căn cứ đề xuất: (1) Để bảo đảm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải giải quyết tốt quan hệ Nhà nước – Thị trường – Xã hội trên thực tế. Có 4 chủ thể tham gia giải quyết quan hệ này là Nhà nước, Thị trường, Xã hội và doanh nghiệp. Cần giải quyết hài hòa lợi ích của 4 chủ thể này. (2) Cần khắc phục triệt để cơ chế bao cấp, “xin – cho” trá hình, vì còn “xin – cho” thì chưa thể có cơ chế thị trường đúng nghĩa. Đặc biệt, cần chuyển tư duy “xin - cho” sang tư duy phân bổ nguồn lực dựa trên kết quả đầu ra; căn cứ trên các nguyên tắc thị trường để phân bổ nguồn lực; tăng tính tự chủ cho địa phương, doanh nghiệp trong sử dụng nguồn lực. Cơ chế “xin – cho” là điểm nghẽn cố hữu trong việc giải quyết quan hệ nhà nước - thị trường ở nước ta hiện nay. Vì vậy, thay vì nhà nước trực tiếp phân bổ, thì nhà nước thực hiện hoàn thiện thể chế để thị trường phân bổ một cách tối ưu các nguồn lực, trước hết là các nguồn lực tài chính, đất đai. Muốn vậy, hệ thống thể chế về thẩm định, phê duyệt dự án, kiểm tra, giám sát việc sử dụng nguồn lực phải được rà soát tổng thể để bổ sung, chỉnh sửa theo hướng minh bạch hóa, xóa bỏ lợi ích cục bộ ngành, địa phương.

 

- Sắp xếp lại thứ tự các mối quan hệ lớn

Đưa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ lên đầu tiên trong hệ thống 10 mối quan hệ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nhận thức và giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Căn cứ đề xuất: Đây là quan hệ, thậm chí là quan hệ tổng quát, bao trùm, rộng lớn nhất trong chính trị và trong đời sống xã hội, khẳng định bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa – chế độ do nhân dân làm chủ, nó chi phối cả hệ thống các mối quan hệ.

 

Quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân theo chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm được xác định thành quan hệ chính trị – pháp lý giữa các chủ thể trong xã hội: Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – nhân dân làm chủ. Đây là quan hệ chính trị – pháp lý giữa các chủ thể, đều hướng vào mục tiêu: Đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng đi liền với bảo vệ. Đảng lãnh đạo việc thực hiện đường lối chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được Nhà nước (với chức năng quản lý) thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng thành luật pháp và chính sách để nhân dân thực thi vai trò, quyền và nghĩa vụ của người chủ để làm chủ. Mối quan hệ rường cột này được bảo đảm bởi nền tảng tư tưởng, nền tảng pháp lý, sức mạnh kinh tế, sức mạnh đạo đức, luật pháp và văn hóa, theo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và dân vận.

 

- Ngoài ra, chúng tôi xin nêu có một số ý kiến khác về 10 mối quan hệ cũng cần tiếp tục được nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để có cơ sở khoa học cho việc bổ sung, hoàn thiện các mối quan hệ lớn.

 

+ Về số lượng các mối quan hệ là khá nhiều (mười), nhưng lại bao quát chưa rõ, chưa trực tiếp đến các nội dung: pháp quyền, đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là con người, bảo đảm quyền con người và phát triển con nguời toàn diện với tư cách là  chủ thể của tất cả các quan hệ lớn.

 

+ Về mặt diễn đạt, không nên chia nhỏ ra nhiều mối quan hệ (mang tầm quy luật), nhất là lại có những yếu tố chồng lấn nhau về nội hàm ở một số quan hệ, sẽ gây khó khăn cho việc nhận thức, ghi nhớ và thực hiện chúng trong thực tế, trong khi còn những nội hàm quan hệ của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước nhất thiết phải được bổ sung, thực hiện phù hợp với vận động của thực tiễn.

 

Chẳng hạn: có một số mối quan hệ “chồng lấn” về hàm nghĩa hay có chung nội hàm, cụ thể là:

 

Một là: (i) giữa đổi mới, ổn định và phát triển và (ii) giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trong đó, mối quan hệ (ii) là hàm nghĩa cốt lõi của nội hàm mối quan hệ (i), nhưng đổi mới, ổn định và phát triển không thể bao trùm  được nội hàm mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển, do vậy nên chăng lồng ghép hai mối quan hệ này thành một mối quan hệ lớn: Giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và bảo đảm ổn định, phát triển?

 

Hai là: (iii) giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; (iv) giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; (v) giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Hàm nghĩa hai mối quan hệ (iv) và (v) chồng lấn nội hàm của mối quan hệ (iii).

 

Bởi vì, quy luật thị trường là vận động có tính bản chất của nền kinh tế thị trường; quy luật thị trường nói riêng và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói chung vận động, biến đổi và được xem xét trong mối quan hệ với định hướng XHCN  (cần phải được xem xét là một chỉnh thể các hàm nghĩa: (i) Định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường; (ii) Định hướng XHCN của cả mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất (chứ không  chỉ mỗi quan hệ sản xuất là có tính chất XHCN như cách tư duy phiến diện hiện nay); (iii) Nhà nước pháp quyền XHCN; (iv) Định hướng XHCN của xã hội công dân (khái niệm “xã hội công dân” được C.Mác và Ph.Ănghen dùng nhiều và không giống với khái niệm “xã hội dân sự” như cách hiểu hiện nay).

 

Định hướng XHCN phải bao gồm, bao quát ít ra là những hàm nghĩa có tính kết nối như trên. Và quy luật kinh tế thị trường là hàm nghĩa bản chất nhưng không thể bao quát được nội hàm của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, gồm: quy luật, thể chế, sự điều tiết và quản lý nền kinh tế thị trường. Vì thế, quan hệ của quy luật kinh tế thị trường  không thể tách riêng, mà phải được xem xét trong nội hàm quan hệ của nền kinh tế thị trường nói chung; cũng như định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân phải được xem xét thống nhất trong nội hàm định hướng XHCN. Thành thử việc tách bạch 3 quan hệ này có lẽ là không cần thiết.

 

Theo đó, yêu cầu đặt ra là phải tích hợp, thống nhất các hàm nghĩa của 3 quan hệ này theo quan hệ (iii) nêu ở trên và diễn đạt lại quan hệ (iii) là: “quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng XHCN”./.

 

  PGS.TS Đỗ Thị Thạch

Học viện CTQG Hồ Chí Minh



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb. CTQG, H.2005, tr.376

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 55, Nxb. CTQG, H.2015, tr.312

[3] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 65, Nxb. CTQG, H.2018, tr.183

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, tr.380

[5] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb. CTQG, H.2007, tr.139-140

[6] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 55, tr.370

[7] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 60, H.2016, tr.239

[8] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 60, tr.244

[9] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, tr.443

[10] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 60, tr.243

[11] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, tr.443

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H.2011, tr.72 - 73

[13] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, H.2016, tr.80

[14] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, H.2021 (tập 1), tr.119

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 119

[16] Do chưa thật sự làm rõ được tính quy luật trong một số mối quan hệ, tính đặc thù và tính phổ biến ở Việt Nam, nên đã ảnh hưởng đến việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cũng như việc ban hành những chính sách cụ thể trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Còn chậm hoặc chưa cụ thể hóa những biện pháp, cách thức giải quyết một số mối quan hệ cũng như quan hệ nội tại của các mối quan hệ này.

[17] Cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước và cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo luật định, đến nay chưa được thiết lập đầy đủ hoặc vận hành còn nhiều hạn chế. Trong không ít trường hợp, có nơi, có lúc tính tối thượng của pháp luật, trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội chưa nghiêm; dân chủ không gắn liền với nguyên tắc pháp quyền; từ đó gây nên những vấn đề phức tạp, bức bối trong xã hội.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết