Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích to lớn, đưa đến những thay đổi về chất trong thế và lực của đất nước. Theo lời của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực vị thế và uy tín như ngày nay trên trường quốc tế.”[1] Để có được kết quả như vậy, nguyên nhân trước hết là do Đảng ta đã hình thành và phát triển được nhiều tư duy, nhận thức mới, đã chuyển được tư duy và nhận thức mới đó vào chủ trương, chính sách và đã quyết tâm chỉ đạo quá trình triển khai sự nghiệp đổi mới toàn diện. Đặc biệt, trong bối cảnh chung đó, công tác đối ngoại “đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, trở thành một điểm sáng trong toàn bộ những thành tựu chung của đất nước ta.”[2] Điều này cho thấy tầm quan trọng của (i) những nhận thức và tư duy mới về đường lối và chính sách đối ngoại mà Đảng ta đã đạt tới trong tiến trình đổi mới từ năm 1986 đến nay và (ii) những bước đi đúng đắn trong chỉ đạo và triển khai chính sách đối ngoại được xây dựng trên cơ sở tư duy và nhận thức mới.
Những nhận thức đã rõ của Đảng ta về đường lối và chính sách đối ngoại cho đến thời điểm hiện nay gồm các điểm chính sau:
1. Mục tiêu
Từ Đại hội XI đến nay, lợi ích quốc gia - dân tộc đã chính thức trở thành mục tiêu của chính sách đối ngoại. Văn kiện Đại hội ghi rõ trong phần phương hướng và nhiệm vụ đối ngoại là phải “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc.”[3] Qua đó, Đảng ta khẳng định: Thứ nhất, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là đồng nhất; thứ hai, lợi ích quốc gia – dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, không phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi; thứ ba, bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối ngoại, lợi ích quốc gia – dân tộc phải là tối thượng, là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại.
Việc cụ thể hóa mục tiêu của công tác đối ngoại cũng đã được làm sáng tỏ hơn. Theo đó, lợi ích quốc gia dân tộc đã được thể hiện trên 3 khía cạnh chính, gồm an ninh, phát triển và vị thế. Đồng thời, (i) việc chi tiết hóa các lợi ích cụ thể cũng đã được đưa ra và (ii) mối quan hệ giữa các mục tiêu đó cũng đã được xác định. Cụ thể:
- Về mục tiêu an ninh, Đại hội XII đã chính thức nêu 5 khái niệm của việc bảo vệ an ninh Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XII lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.” Điều đó có nghĩa là lần đầu tiên Đảng ta cụ thể hóa nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc có nghĩa là phải bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; Đảng, Nhà nước; nhân dân; và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây đồng thời là nội hàm chính của lợi ích quốc gia – dân tộc, là những lợi ích cốt lõi và sống còn toàn Đảng toàn dân ta quyết tâm bảo vệ đến cùng.
- Về mục tiêu phát triển, nhận thức chung đã thống nhất trên một số khía cạnh chính, gồm “tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước và nâng cao đời sống nhân dân,”[4] hướng vào (i) đẩy mạnh thương mại, (ii) thu hút đầu tư, (iii) tiếp nhận viện trợ phát triển, và (iv) tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là tham gia các định chế, tổ chức kinh tế, tài chính thế giới để dùng các luật chơi chung phát huy và bảo vệ lợi ích kinh tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế và thị trường thế giới. Đồng thời, Đảng cũng đã gắn mục tiêu phát triển với mục tiêu an ninh, thể hiện qua Nghị quyết 06/NQ-TW ngày 5/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.[5]
- Về mục tiêu vị thế, các khía cạnh chính đã có đồng thuận về nhận thức là “nâng cao vị thế, uy tín của đất nươc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.”[6] Từ đó có thể suy ra nội hàm của mục tiêu này gồm (i) xây dựng hình ảnh, (ii) nâng cao vai trò, tiếng nói, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, và (iii) nâng cao giá trị, cải thiện vị trí của Việt Nam trong chính sách của các nước lớn và các nước đối tác chủ chốt của Việt Nam. Đặc biệt, việc theo đuổi mục tiêu nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam đã được gắn chặt hơn với việc theo đuổi các mục tiêu an ninh và phát triển. Xuất phát từ lợi ích quốc gia – dân tộc, phát huy vai trò tức là phải nâng cao được vị thế, vai trò và tận dụng hiệu quả vị thế, vai trò tại các cơ chế đa phương để bảo đảm các lợi ích phát triển và an ninh của đất nước.[7]
2. Phương châm, quan điểm chỉ đạo
- Lợi ích quốc gia dân tộc là tối thượng. Như trên đã nêu, Văn kiện Đại hội XII đã đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất mục tiêu đối ngoại. Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu trong Văn kiện Đại hội XI. Văn kiện Đại hội XII làm rõ hơn và phát triển thành “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi.” Việc theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc đã trở thành quan điểm chỉ đạo và nguyên tắc của hoạt động đối ngoại, thể hiện trên một số khía cạnh đã được làm rõ như sau:
Thứ nhất, bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối ngoại, là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại, là cơ sở để xây dựng đồng thuận xã hội đối với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, và là cơ sở “bất biến” để từ đó định hướng cho “vạn biến.”
Thứ hai, lợi ích quốc gia – dân tộc của Việt Nam không phải là những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi vì dựa vào nguyên tắc cơ bản của luât pháp quốc tế và bình đẳng cùng có lợi, là để tương phản với các chính sách đối ngoại phục vụ mục tiêu vị kỷ và cường quyền.
Thứ ba, đây là những cơ sở rất có sức thuyết phục để chúng ta phát triển quan hệ với nước khác, cũng vì lợi ích của họ, từ đó tạo ra điểm đồng lợi ích để xây dựng quan hệ cùng có lợi với các đối tác và tạo cơ sở đấu tranh khi lợi ích không song trùng.
- Vừa hợp tác vừa đấu tranh. Lần đầu tiên, phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại được nêu rõ hơn. Đại hội XII nêu rõ: “Trên cơ sở vừa hợp tác vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân . . .” Trước đó, phương châm này đã được nêu trong nghị quyết Trung ương VIII (2003) về “đối tượng – đối tác.” Nhưng ở tầm văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng, đây là lần đầu tiên Đảng ta khẳng định phương châm này để nhấn mạnh tính chất hai mặt, đan xen trong quan hệ đối ngoại và theo đó là sự linh hoạt trong quan hệ đối ngoại của chúng ta để phục vụ lợi ích quốc gia – dân tộc.
Một số khía cạnh của nguyên tắc này đã được làm rõ như sau:
Thứ nhất, đây là để nhấn mạnh lần đầu tiên Đảng ta khẳng định phương châm này để nhấn mạnh tính chất hai mặt, đan xen trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam và bản chất của quan hệ quốc tế sau chiến tranh Lạnh.
Thứ hai, đây là để nhấn mạnh tính linh hoạt trong quan hệ đối ngoại của chúng ta: để phục vụ lợi ích quốc gia – dân tộc thì phải cân bằng cả hai yếu tố hợp tác và đấu tranh, và cũng để thể hiện tính nguyên tắc trong quan hệ của ta với các nước khác, vì lợi ích quốc gia – dân tộc nên không thể chỉ một chiều hoặc hợp tác, hoặc một chiều đấu tranh.
Thứ ba, đây là để khái quát hóa phương châm “đối tượng – đối tác” đưa ra trong nghị quyết Trung ương VIII (2003): nếu trong đối tượng có đối tác, trong đối tác có đối tượng thì hợp tác luôn phải đi đôi với đấu tranh. Phương châm này giúp ta tận dụng cơ hội hợp tác, đồng thời nhận thức rõ hơn về sự khác biệt về lợi ích để tìm cách đưa quan hệ đi lên; không bỏ lỡ cơ hội hợp tác nhưng cũng không lơ là mất cảnh giác.
- Kiên quyết kiên trì. Văn kiện Đại hội XII lần đầu tiên nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.” Nguyên tắc này liên quan đến việc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Một số khía cạnh của nguyên tắc này đã được rõ như sau:
Thứ nhất là lần đầu tiên Đảng ta cụ thể hóa nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc có nghĩa là phải bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; Đảng, Nhà nước; nhân dân; và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được coi là “những lợi ích cốt lõi và sống còn toàn Đảng toàn dân ta quyết tâm bảo vệ đến cùng.” Đây là khía cạnh kiên quyết; tức là không loại trừ bất kỳ biện pháp, phương cách nào để quyết bảo vệ đến cùng các lợi ích kể trên. Trong quá trình kiên quyết bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, không được nóng vội, manh động mà phải tận dụng mọi biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, tận dụng mọi kênh, mọi phương thức có thể, không để ảnh hưởng đến nhiệm vụ đối ngoại quan trọng nhất là “giữ vững môi trường hòa bình ổn định.” Đây là khía cạnh kiên trì. Đáng chú ý, điều này thể hiện nhận thức rõ hơn của Đảng ta về thực tiễn QHQT, trong đó không tranh chấp lãnh thổ nào có thể được giải quyết thỏa đáng bằng những biện pháp nhanh chóng.[8]
Thứ hai, đây là thể hiện mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đối ngoại “giữ vững môi trường hòa bình” và “bảo vệ vững chắc Tổ quốc.” Nếu giữ vững được môi trường hòa bình thì các hoạt động đối ngoại đã thực hiện được phương châm thêm bạn bớt thù, tức là đã đóng góp trực tiếp vào việc bảo vệ Tổ quốc từ xa và giữ nước từ khi nước chưa nguy. Điều này giúp khẳng định vị thế và vai trò chủ công, là tuyến đầu của công tác đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung và giải quyết tranh chấp lãnh thổ nói riêng.
Thứ ba là đưa ra tín hiệu về tính trách nhiệm của Việt Nam trong việc giữ môi trường khu vực hòa bình, ổn định. Lý do là xu thế chủ lưu trong QHQT vẫn là hòa bình hợp tác. Nếu Việt Nam chủ trương liên minh với bên ngoài để bảo vệ Tổ quốc, ưu tiên dùng biện pháp quân sự thì sẽ khó nhận được sự ủng hộ của các nước khác. Trong khi đó hành động cải tạo đảo và quân sự hóa của Trung Quốc trên các cấu trúc trên biển Đông bị cộng đồng thế giới không đồng tình và phê phán.
- Chủ động tích cực. Văn kiện Đại hội XII nêu rõ: “Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương,” “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc,” và “Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm trong ASEAN.”[9] Đây là phương châm của Việt Nam tham gia các hoạt động đối ngoại đa phương nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung. Một số khía cạnh của nguyên tắc này đã được làm rõ như sau:
Thứ nhất, phương châm này đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia,” nhất là vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, mà còn phải phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, ưu tiên trong thời gian tới là ASEAN và Liên hợp quốc.
Thứ hai, phương châm này còn thể hiện thế và lực mới của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới, với nguồn lực và kinh nghiệm tham gia đối ngoại nói chung và đối ngoại nói riêng, cũng như thể hiện kỳ vọng của khu vực và quốc tế đối với Việt Nam.
Thứ ba, phương châm này có mối liên hệ với phương châm theo đuổi lợi ích quốc gia – dân tộc. Việc tham gia các cơ chế đa phương một cách tích cực chủ động là để trực tiếp bảo đảm các lợi ích an ninh, phát triển và vị thế của đất nước.
3. Nhiệm vụ đối ngoại
Đảng ta đã nhận thức rõ hơn mối quan hệ gắn bó giữa nhiệm vụ đối ngoại với mục tiêu đối ngoại. Theo đó, nhiệm vụ đối ngoại là để giúp đạt được các mục tiêu đối ngoại. Tương ứng với mục tiêu an ninh, phát triển và vị thế là các nhiệm vụ (i) giữ vững môi trường hòa bình ổn định, (ii) bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền (iii) tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, (iv) nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Đây là sự phát triển, nâng cao và cụ thể hóa nhận thức về hai nhiệm vụ chiến lược bảo vệ và xây dựng Tổ quốc được hình thành trong chiều dài sự nghiệp cách mạng Việt Nam và điều chỉnh nội dung của hai nhiệm vụ này cho thích hợp với đặc điểm của từng giai đoạn cách mạng. Đây cũng trở thành căn cứ để đánh giá công tác đối ngoại.
Việc đề cao nhiệm vụ đối ngoại, nhất là nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình ổn định, cho thấy nhận thức rõ hơn của Đảng ta về vai trò của công tác đối ngoại trong tình hình mới. Lần đầu tiên, nhiệm vụ đối ngoại nằm trong các thành tố của chủ đề Đại hội XII. Chủ đề đại hội và tiêu đề Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng là "Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại." Như vậy, so với Đại hội XI, Đại hội XII đã bổ sung vào chủ đề nội dung “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định” để nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong tổng thể đường lối phát triển đất nước và đồng thời nêu rõ hai nhiệm vụ quan trọng nhất của đối ngoại là bảo vệ Tổ quốc và giữ vững môi trường hòa bình ổn định để chúng ta triển khai các nhiệm vụ xây dựng đất nước trong 5 năm tới và các năm tiếp theo.[10]
Đáng chú ý, Đảng ta đã xác lập rõ hơn thứ tự ưu tiên giữa các nhiệm vụ đối ngoại và mối quan hệ qua lại giữa các nhiệm vụ đó với nhau. Cụ thể, hai nhiệm vụ đối ngoại “giữ vững môi trường hòa bình” và “bảo vệ vững chắc Tổ quốc” có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu giữ vững được môi trường hòa bình, các hoạt động đối ngoại đã thực hiện được phương châm thêm bạn bớt thù, tức là đã đóng góp trực tiếp vào việc bảo vệ Tổ quốc từ xa và giữ nước từ khi nước chưa nguy. Điều này giúp khẳng định vị thế và vai trò chủ công, là tuyến đầu của công tác đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.[11] Ngoài ra, việc thực hiện nhiệm vụ phát huy vị thế và vai trò của Việt Nam vừa hàm ý phải nâng cao được vị thế, vai trò và vừa phải tận dụng hiệu quả vị thế, vai trò tại các cơ chế đa phương và trong các mối quan hệ song phương để bảo đảm các lợi ích phát triển và an ninh của đất nước. Đến lượt mình, việc đạt được các lợi ích an ninh và phát triển đã giúp Việt Nam củng cố vị thế và vai trò trong khu vực và trên trường quốc tế.
4. Định hướng lớn
Đã có nhận thức rõ và đồng thuận cao về ba định hướng lớn trong công tác đối ngoại của Việt Nam. Đó là:
a. Xây dựng các khuôn khổ quan hệ đối ngoại của Việt Nam: Văn kiện Đại hội XII nêu rõ về định hướng “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất.”[12] Đây trước hết là sự kế thừa tư tưởng của Hồ Chủ tịch về “thêm bạn bớt thù” trong công tác đối ngoại. Đây còn là sự phát triển của chủ trương “Việt Nam muốn là bạn với các nước” (Nghị quyết Đại hội VII), “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy” (Nghị quyết Đại hội VIII). Giai đoạn sau Đại hội IX là thời kỳ Việt Nam triển khai mạnh mẽ chủ trương xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác. Cho đến cuối năm 2018, Việt Nam đã có khuôn khổ quan hệ đối tác khác nhau với 28 nước, trong đó có toàn bộ 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, toàn bộ nhóm G-7, 13/14 nước trong nhóm G-20, và 8/9 nước trong ASEAN.
Việc thiết lập các khuôn khổ quan hệ đối tác của Việt Nam với các nước đã đóng góp trực tiếp vào việc thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại quan trọng của đất nước. Các khuôn khổ đối tác này giúp Việt Nam có các kênh trao đổi, cơ chế hợp tác chính thức và thường xuyên, từ đó tạo điều kiện cho việc xây dựng lòng tin, quản lý khủng hoảng, và xử lý bất đồng và nhất là tăng cường hợp tác trên các mặt. Các khuôn khổ đối tác còn giúp tăng cường đan xen lợi ích (cả về kinh tế và chiến lược) và đưa quan hệ của Việt Nam với các nước đó đi vào chiều sâu, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trong chính sách và chiến lược của các nước ta có khuôn khổ quan hệ đối tác.[13] Khuôn khổ quan hệ đối tác song phương còn có tác dụng (i) khuyến khích các nước khác thiết lập quan hệ đối tác với Việt Nam cũng như (ii) nối dài quan hệ hợp tác song phương trên các diễn đàn đa phương mà Việt Nam và các nước đối tác cùng làm thành viên. Đặc biệt, khuôn khổ quan hệ đối tác còn không tạo sức ép đối với Việt Nam phải suy tính thúc đẩy các mối quan hệ theo hướng liên minh quân sự, trong khi vẫn tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển quan hệ trên các mặt với nhiều đối tác, nhất là các nước lớn, và không ảnh hưởng đến chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, đồng thời không dẫn đến tình trạng dàn trải quan hệ đối ngoại, cũng như giúp làm giảm sức ép chọn bên đối với Việt Nam từ các nước lớn. Nói cách khác, chủ trương xây dựng các khuôn khổ quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã phục vụ đắc lực việc triển khai công tác đối ngoại theo các nhiệm vụ chính mà Đảng đã đề ra.
b. Hội nhập quốc tế: Các quan điểm chỉ đạo, định hướng lớn đối với quá trình hội nhập quốc tế toàn diện được nêu rõ hơn trong văn kiện Đại hội XII. Định hướng hội nhập quốc tế được nêu trong Văn kiện Đại hội XI được Văn kiện Đại hội XII cụ thể hóa bằng những quan điểm chỉ đạo cụ thể gồm: Thứ nhất, phải bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị. Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước. Thứ ba, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế. Và thứ tư, hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi.
Văn kiện Đại hội XII cũng nêu rõ những định hướng lớn đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác. Theo đó, trong 5 năm tới, hội nhập kinh tế quốc tế tập trung vào quá trình triển khai các cam kết đã ký kết; hội nhập trong lĩnh vực chính trị tập trung vào việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ đã xác lập đi vào thực chất; hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh nhấn vào việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, diễn tập chung và các hoạt động khác; và hội nhập trong lĩnh vực văn hóa – xã hội tập trung vào việc áp dụng và tham gia xây dựng các bộ tiêu chí phục vụ xây dựng nền kinh tế trí thức, con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
c. Nâng tầm đối ngoại đa phương: Tư duy của Đảng về đối ngoại đa phương đã liên tục phát triển một cách có hệ thống, liên tục được bổ sung, điều chỉnh, và ngày càng được định hình rõ nét hơn. Tại Đại hội XII (1/2016), lần đầu tiên khái niệm “đối ngoại đa phương” được chính thức đề cập trong văn kiện của Đảng và trở thành một định hướng chiến lược, không chỉ là công cụ thực hiện công tác đối ngoại. Văn kiện chỉ rõ định hướng lớn “nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương,” theo đó Việt Nam phải “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên Hợp Quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên Hợp Quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác.” Định hướng mới này đòi hỏi công tác đối ngoại đa phương phải chủ động, tích cực đóng góp xây dựng và định hình các quy tắc, luật lệ mới và các cơ chế đa phương nhằm nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam tại các cơ chế này và phục vụ mục tiêu phát triển và an ninh của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, Đại hội cũng nhấn mạnh nhiệm vụ "thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước."
Đại hội cũng đặt ra yêu cầu mới đối với công tác đối ngoại đa phương là phải chuyển mạnh từ “ký kết, gia nhập, tham gia” sang “chủ động và tích cực đóng góp xây dựng và định hình” các quy tắc, luật lệ mới, và các cơ chế đa phương. Định hướng này cũng chỉ rõ các cơ chế đa phương được ưu tiên trong thời gian tới là ASEAN và Liên Hợp Quốc.[14]
Để làm rõ hơn định hướng đối ngoại đa phương trong giai đoạn này, Hội nghị TW 6 (11/2016) đã thông qua Nghị quyết số 06-NQ/TW (11/2016) về “thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Nghị quyết đã đề ra một số định hướng mới, cụ thể hóa phương châm đối ngoại của Đại hội XII với chủ trương “đẩy mạnh, nâng tầm công tác đối ngoại đa phương; chủ động, tích cực tham gia các định chế đa phương, góp phần vào quá trình định hình các cấu trúc khu vực và toàn cầu; tích cực tham gia vào những vấn đề quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước”. Nói cách khác, đối ngoại đa phương hiện nay đã trở thành công cụ chính để cụ thể hóa định hướng nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế. Về bản chất có thể hiểu Nghị quyết đề ra nhiệm vụ nâng cao hơn nữa năng lực đối ngoại của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, nhấn mạnh hai lĩnh vực thương mại quốc tế và luật pháp quốc tế.
Để đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi mới trong công tác đối ngoại đa phương của đất nước trong giai đoạn mới, ngày 8 tháng 8 năm 2018, Ban Bí Thư, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 25-CT/TW về “đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030.” Chỉ thị đề ra mục tiêu của đối ngoại đa phương là nhằm “tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao hiệu quả quốc tế…” Mục tiêu của đối ngoại đa phương cũng nhằm “khẳng định mạnh mẽ vai trò của Việt Nam là thành viên tích cực, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; nỗ lực vươn lên để đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể.”
Những phát triển mới về nhận thức và tư duy về chính sách và đường lối đối ngoại kể trên có nguồn gốc sâu xa từ những đổi mới trong thế giới quan của Đảng ta. Từ giữa thập kỷ 1980s, tư duy hai hệ thống, hai chế độ đã được bổ sung bằng thế giới quan mới về thời đại và cục diện thế giới, theo đó nhận thức của Đảng đã rõ và thống nhất trên các điểm chính là (i) thế giới vẫn ở vào một giai đoạn quá độ đi lên CNXH với các phát triển không theo đường thẳng mà cách mạng có lúc có thể lâm vào thoái trào,[15] (ii) sự phát triển của kinh tế thị trường không phải là sản phẩm của CNTB mà là của loài người, trong đó các nước TBCN đã thành công hơn trong việc tận dụng thành quả đó để phát triển kinh tế, xã hội,[16] (iii) các xu thế lớn trong đời sống quốc tế gồm xu thế toàn cầu hóa dưới tác động của sự phát triển lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học công nghệ; xu thế hòa bình, hợp tác; xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế, đã trở thành những lực lượng chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế trong giai đoạn hiện nay, mặc dù cạnh tranh nước lớn, chính trị cường quyền có lúc tạo ra những cản trở đối với sự phát triển có tính khách quan của các xu thế này, và (iv) các nước đều có điều kiện – chủ yếu liên quan đến vị trí địa chiến lược, địa kinh tế, và lợi thế so sánh – để giữ độc lập chủ quyền đồng thời theo đuổi và bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc bằng cách tham gia vào quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các nước trong điều kiện cùng tồn tại hòa bình.[17]
Đúng lúc phe XHCN lâm vào thoái trào, thế giới quan mới này đã mở đường cho những nhận thức mới về khả năng nước ta có cơ hội và điều kiện phá thế bao vây cô lập, mở rộng đa phương hóa đa dạng hóa, phát triển quan hệ đối ngoại kể cả với các nước khác chế độ chính trị và kinh tế, và gia nhập các thể chế đa phương, tham gia cộng đồng các nước trong khu vực Đông nam Á từ đó có điều kiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm phục vụ các lợi ích quốc gia - dân tộc trong quá trình Đảng ta kiên định xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới. Tổng kết về quá trình đổi mới tư duy kể trên, Đại hội Đảng XII đã nêu: “Nhận thức đúng về xu thế của thời đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng, Nhà nước đã có định hướng chỉ đạo và các chính sách đúng đắn, kịp thời trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc. Nhiều chủ trương, giải pháp xử lý các vấn đề phức tạp đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân và được dư luận quốc tế ủng hộ.”[18]
PGS.TS Nguyễn Vũ Tùng
[1] Phát biểu trước Quốc hội nhân dịp nhậm chức Chủ tịch nước (23/10/2018).
[2] Phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 (13/8/2018).
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, (2016), trang 153.
[4] Văn kiện Đại hội XII, trang 153.
[5] Ngoài ra còn có chỉ thị 26/TTg ngày 4/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn.
[6] Văn kiện Đại hội XII, trang 153.
[7] Đặng Đình Quý, Những điểm mới trong đường lối đối ngoại của Đại hội XII, Tuần báo Quốc tế, 8/2016.
[8] Đặng Đình Quý, Những điểm mới trong đường lối đối ngoại của Đại hội XII, Tuần báo Quốc tế, 8/2016.
[9] Văn kiện Đại hội XII, trang 155.
[10] Đặng Đình Quý, Những điểm mới trong đường lối đối ngoại của Đại hội XII, Tuần báo Quốc tế, 8/2016.
[11] Điều này góp phần khẳng định tầm quan trọng của việc đổi mới tư duy đối ngoại của Nghị quyết 13 Bộ Chính trị khóa VI (5/1988) về "nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới"với chủ đề "giữ vững hòa bình, phát triển kinh tế" trong đó nhấn mạnh vai trò của một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh và một mối quan hệ quốc tế rộng rãi đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, theo đó mối quan hệ quốc tế rộng rãi là điều kiện tiên quyết cho một nền kinh tế mạnh và một nền quốc phòng vừa đủ mạnh. Nói cách khác, đây chính là nền tảng của nhận thức và chủ trương coi đối ngoại là mặt trận hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hiện nay.
[12] Văn kiện Đại hội XII, trang 155.
[13] Các đối tác chiến 8/10 thị trường xuất khẩu chính, với 60,7% tổng giá trị xuất khẩu, 9/10 thị trường nhập khẩu chính, chiếm 74,4% thị trường nhập khẩu, đóng góp 74% tổng vốn đầu tư FDI tại Việt Nam.
[14] Văn kiện Đại hội XII, trang 155.
[15] GS.TS Vũ Văn Hiền, Nhận thức về Thời đại Ngày nay, Nxb Chính trị Quốc gia, 2010.
[16] Nguyễn Cơ Thạch, “Những chuyển biến trong tình hình thế giới và tư duy của chúng ta,” Trả lời phỏng vấn Tuần báo Quốc tế, 1/1990.
[17] Văn kiện Đại hội XII trang 70 nêu rõ: “hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục đượcđẩy mạnh.”
[18] Văn kiện Đại hội Đảng XII, trang 152.