Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Thúc đẩy và phát huy vai trò của phụ nữ trong thời đại công nghệ số

Ngày phát hành: 07/03/2023 Lượt xem 1616

Các nhà khoa học nữ đang ngày một khẳng định được vị thế, vai trò của mình, họ đã được Nhà nước, xã hội,

cộng đồng tôn vinh và ghi nhận.

 

Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có mô hình thành công về thúc đẩy bình đẳng giới, phù hợp với các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc. Các mục tiêu đề ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giúp thúc đẩy hơn nữa vai trò của phụ nữ trong các vị trí ra quyết sách, đồng thời tạo thêm nhiều cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái. Đặc biệt trong giai đoạn chuyển đối số hiện nay, việc thay đổi các kỳ vọng về khuôn mẫu giới trong nghề nghiệp, trang bị cho phụ nữ các kỹ năng, hỗ trợ họ chuyển đổi sang các hình thức việc làm liên quan đến kỹ thuật số lại càng phải ưu tiên hơn bao giờ hết.

 Nâng cao vai trò của phụ nữ trong thời đại công nghệ số

 
Phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ luôn có vai trò đặc biệt, có nhiều đóng góp to lớn trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển của đất nước. Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, vị trí công việc gì, phụ nữ Việt Nam cũng luôn luôn tỏa sáng phẩm chất “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” đúng như 8 chữ vàng mà Bác Hồ đã dành tặng cho phụ nữ Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ với nhiều chủ trương, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ phụ nữ trong tạo việc làm, khởi nghiệp…. Với những chính sách đó, Việt Nam đã tạo được môi trường, điều kiện thuận lợi để phụ nữ ngày càng khẳng định vị thế, vai trò, tầm quan trọng và có nhiều cơ hội đóng góp cho gia đình, cộng đồng và xã hội những lúc thuận lợi cũng như khó khăn.
Theo “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 3/6/2020 (Quyết định số 749/QĐ-TTg), đổi mới và công nghệ đã trở thành một trong những ưu tiên của Chính phủ, các bộ, ngành. Chính vì vậy, chuyển đổi số được tạo điều kiện phát triển bao trùm lên tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế-xã hội, góp phần tăng năng suất lao động, chuyển đổi mô hình hoạt động, kinh doanh theo hướng đổi mới sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Theo Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, chuyển đổi số cũng tạo sự thay đổi các kỳ vọng về khuôn mẫu giới trong nghề nghiệp, bao gồm cả việc thúc đẩy các hình mẫu phụ nữ tham gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin; trang bị cho phụ nữ các kỹ năng, hỗ trợ chuyển đổi sang các hình thức việc làm liên quan đến kỹ thuật số, bảo đảm phụ nữ không bị bỏ lại phía sau. Đây được coi là một “động lực thay đổi” quan trọng đối với bình đẳng giới, nhằm trao thêm quyền cho phụ nữ, giải quyết vấn đề bạo lực trên cơ sở giới.
Mặc dù, Điều 15 Luật Bình đẳng giới đã quy định, nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ; các khóa đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế, nhưng trên thực tế, hoạt động trên lĩnh vực khoa học công nghệ của phụ nữ còn gặp nhiều thách thức từ đặc thù và định kiến. Đó là, hiện chưa có chính sách ưu đãi, riêng biệt dành cho cán bộ nữ trong hoạt động khoa học công nghệ. Quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện các chính sách này chưa tính đến đặc thù, những khó khăn, thách thức đối với phụ nữ trong hoạt động khoa học công nghệ liên quan đến độ trễ, đòi hỏi sự say mê, kiên trì…
Cùng với đó là những thách thức từ định kiến, nhận thức của xã hội và những quan niệm truyền thống tác động trực tiếp đến cán bộ khoa học nữ. Bên cạnh đó, quy định phụ nữ nghỉ hưu sớm hơn nam giới 5 năm cũng là một yếu tố tác động tới quá trình nghiên cứu khoa học của phụ nữ, trong khi hoạt động nghiên cứu là công việc có thể gắn bó suốt đời đối với người làm khoa học. Đó là chưa kể tới những thách thức từ cá nhân và gia đình.
Trước thực trạng này, bà Trần Thị Hồng Lan, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, cần tăng cường nhận thức của xã hội, trước hết là về vai trò của phụ nữ nói chung, của đội ngũ cán bộ khoa học nữ nói riêng. Tiếp đó là việc thay đổi nhận thức của cộng đồng về việc nâng cao nhận thức bình đẳng giới đối với quần chúng và thay đổi nhận thức của phụ nữ hoạt động trên lĩnh vực khoa học công nghệ.

 Việt Nam đạt nhiều thành tựu về bình đẳng giới

 
Với những nỗ lực không ngừng trong suốt nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy quyền của phụ nữ, trao quyền cho phụ nữ và bình đẳng giới. Việt Nam được thế giới công nhận là một trong 10 quốc gia thực hiện tốt nhất mục tiêu số 5 về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái trong các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Theo báo cáo "Khoảng cách giới toàn cầu" của Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2022, Việt Nam đạt 0,705 điểm trên thang điểm từ 0 đến 1 về chỉ số chênh lệch giới, xếp thứ 83 trong số 146 quốc gia, tăng 4 bậc so với vị trí từ 87 năm 2021.
Điều này thể hiện rõ nhất ở sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới, đứng thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á về tỷ lệ nữ tham gia cơ quan dân cử; đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN và thứ 47/187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng về bình đẳng giới trong tham chính và trong công tác quản lý.
Hiện nay, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng và Nhà nước được nâng cao về số lượng và nhất là về chất lượng. Quốc hội khóa XV đạt tỷ lệ 30,26% nữ đại biểu, cao nhất từ trước đến nay; Ban Chấp hành Đảng bộ cấp tỉnh có 16% đồng chí nữ, hội đồng nhân dân cấp tỉnh có 29% đại biểu nữ… Tỷ lệ các bộ, cơ quan ngang bộ có lãnh đạo chủ chốt là nữ đạt trên 50%.
  Việt Nam cũng nằm trong nhóm 1/3 các nước đứng đầu về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, với hơn 30,26%. Tỷ lệ này của Việt Nam cao hơn 4.7% so với mức trung bình toàn cầu là 25.5%. Tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đều tăng so với nhiệm kỳ 2010-2015 ở cả 3 cấp tỉnh, huyện và xã. Đây là một thành tựu đáng ghi nhận của Việt Nam trong việc thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ thông qua việc tăng cường sự tham gia chính trị của phụ nữ và trong Quốc hội.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn đạt được bình đẳng trong cơ hội tiếp cận giáo dục của hai giới ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Về y tế, tỷ lệ tử vong mẹ đã giảm đáng kể, từ 233/100.000 ca sinh sống vào năm 1990 xuống còn 58.3/100.000 ca vào năm 2016. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc cải thiện cuộc sống của rất nhiều phụ nữ Việt Nam.
Một điểm sáng khác là sự tham gia của phụ nữ trong lực lượng lao động. Ngày nay, chúng ta có 79% phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động, cao hơn mức trung bình của khu vực và trên thế giới. Tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia vào lực lượng lao động, đặc biệt trong ngành giáo dục và y tế đang tăng lên. Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ đạt 26,5%, xếp thứ 9/58 quốc gia, nền kinh tế được nghiên cứu; nhiều doanh nhân nữ có uy tín và xếp hạng cao trong khu vực và thế giới. Đây là minh chứng cho vai trò của phụ nữ trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam ở mọi cấp độ.
Trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, nhiều phụ nữ đã đoạt giải khu vực và quốc tế. Các nữ đại sứ, nữ cán bộ ngoại giao, nữ công an, nữ quân nhân tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc đã trở thành các "sứ giả" của hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển của nước ta trong hoạt động đối ngoại… Nguồn nhân lực nữ nghiên cứu khoa học tăng lên đáng kể. Nhiều phụ nữ là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học xuất sắc trên các lĩnh vực có nhiều thành công trong nước và quốc tế về nghiên cứu khoa học, mang lại giá trị kinh tế cao và tính nhân văn cao cả, sâu sắc.
Việt Nam đã cử các nữ sĩ quan tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại Nam Sudan và Cộng hòa Trung Phi từ năm 2018. Từ đó đến nay, tỷ lệ nữ trong Lực lượng gìn giữ hòa bình của Việt Nam tăng đều và hiện ở mức cao hơn so với các nước trong khu vực. Con số này hiện chiếm khoảng 16% lực lượng của Việt Nam và sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, cao hơn tỷ lệ khuyến khích của Liên hợp quốc.
Có thể thấy, phụ nữ Việt Nam đã hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước. Những chính sách và chiến lược kịp thời nhằm nâng cao vị thế, phát huy vai trò phụ nữ của Đảng, Nhà nước đã giúp phụ nữ Việt Nam khai phá tiềm năng, tự tin theo đuổi đam mê, phát triển sự nghiệp và nâng cao vị thế, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới trong xã hội./.

 

Theo TTXVN

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết