I. NHẬN THỨC CHUNG
1. Nông nghiệp là một lĩnh vực đặc biệt, gắn liền con người, nhất là người nông dân, hộ gia đình nông dân, các đơn vị trực tiếp sản xuất nông nghiệp, cộng đồng dân cư ở nông thôn với môi trường tự nhiên thành một hệ sinh thái hữu cơ, tạo nên một nền kinh tế dựa trên sự sống và phát triển của các thực thể sinh học (cây, con) và với cuộc sống của chính con người.
Thể chế căn bản của một nền nông nghiệp bao gồm hệ thống các chủ thể trực tiếp tham gia và liên quan đến các hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp, gắn liền với đó là một hệ thống pháp luật tin cậy, chế định và bảo hộ các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của các chủ thể tham gia (trực tiếp và gián tiếp) hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp (như quyền sở hữu, quyền tự chủ - tự do tổ chức sản xuất kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, lợi ích, trách nhiệm xã hội…); cơ chế liên kết liên doanh, cơ chế điều tiết lợi ích và giải quyết các tranh chấp giữa các chủ thể; Nhà nước thực thi vai trò của mình minh bạch, tin cậy, mọi hành vi can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nông nghiệp nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các chủ thể. Xây dựng thể chế phát triển nông nghiệp phù hợp là một trong các tiền đề - điều kiện cho phát triển nền nông nghiệp hiệu quả - bền vững.

2. Bản thân Thể chế kinh tế, trong đó có thể chế phát triển nông nghiệp, không phải là bất biến, mà nó phải được liên tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển cùng với sự phát triển và trình độ xã hội hóa cao hơn của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Các nghiên cứu khoa học và thực tiễn trên thế giới đã chỉ rõ rằng: Chất lượng thể chế liên quan trực tiếp đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế; nâng cao chất lượng thể chế không chỉ là mục đích mà là khâu đột phá trong chính sách phát triển. Muốn thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, hiệu quả nông nghiệp trong giai đoạn mới, cần phải xây dựng, hoàn thiện đồng bộ các quan niệm, nội dung và cấu trúc thể chế phát triển nông nghiệp phù hợp với đặc điểm của nền sản xuất nông nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tăng tốc, hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngày sâu rộng hơn.
3. Xét về phương diện cấu trúc, Thể chế phát triển nông nghiệp cũng có cấu trúc các thành tố cơ bản như của thể chế kinh tế, gồm các thành tố chủ yếu sau:
i). Các chủ thể, các đơn vị sản xuất kinh doanh và cung cấp dịch vụ trong nông nghiệp; các chủ thể có quyền, lợi ích và trách nhiệm liên quan đến nông nghiệp.
ii). Các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và liên kết sản xuất kinh doanh; cung cấp dịch vụ trong nông nghiệp.
iii). Hệ thống pháp luật và cơ chế vận hành nền nông nghiệp; trong điều kiện hội nhập quốc tế thì đó còn là các cơ chế, quy tắc, “luật chơi” của quốc tế (song phương hay đa phương).
iv). Nhà nước và vai trò điều tiết nền kinh tế của nhà nước liên quan đến nông nghiệp.
v). Cơ chế thị trường và vai trò của cơ chế thị trường tác động đến phát triển nông nghiệp.
vi). Vai trò của các Tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư liên quan đến phát triển nông nghiệp.
4. Trong lĩnh vực nông nghiệp, cấu trúc Thể chế phát triển nông nghiệp cũng bao gồm các yếu tố cấu thành cơ bản như trong thể phát triển kinh tế, nhưng do đặc thù của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp (đối tượng sản xuất là những thực thể sinh học - sống, phụ thuộc mạnh vào điều kiện tự nhiên - thiên nhiên, phụ thuộc vào mùa vụ và thời gian sinh trưởng, gắn liền với điều kiện đất đai, nhất là gắn liền với cuộc sống, văn hóa và lao động của người nông dân - hộ nông dân, quá trình phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất trong nông nghiệp “không cùng kiểu” với công nghiệp…) mà trên thế giới Thể chế phát triển nông nghiệp có nhiều đặc điểm khác biệt so với các lĩnh vực khác, cũng có những điểm khác nhau giữa các nước (do điều kiện tự nhiên, dân số - lao động, đất đai khác nhau, do tính chất và trình độ của các nền nông nghiệp khác nhau) và có những điểm khác nhau đối với các loại đối tượng sản xuất khác nhau (chăn nuôi khác với trồng trọt và ngay nuôi các loại con khác nhau thì thể chế cũng có thể khác nhau; đối với trồng lúa mỳ cũng khác với trồng lúa nước, trồng lúa cũng khác với trồng cây công nghiệp, trồng cây ăn quả…). Nhưng nằm sâu trong nền tảng cơ bản của thể chế phát triển nông nghiệp là sự chế định và sự tương tác về các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích của các đơn vị kinh tế hộ nông dân, của các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp; giữa các hộ nông dân với nhau và với các chủ thể khác, mang tính đặc thù của nền nông nghiệp, giữa nông nghiệp với các lĩnh vực khác, trong quá trình sản xuất kinh doanh, với sự tác động của cơ chế thị trường và sự điều tiết của Nhà nước.
5. Trong nghiên cứu này tập trung chủ yếu về: 1). Sự vận động và phát triển của các chủ thể, các đơn vị sản xuất kinh doanh và cung cấp dịch vụ trong nông nghiệp; 2). Quá trình phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ trong nông nghiệp; 3). Vai trò của Nhà nước với các cơ chế chính sách chủ yếu liên quan đến phát triển các chủ thể và các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh trong quả trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CHẾ ĐỊNH TÍNH ĐẶC THÙ CỦA THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
Nền nông nghiệp từ xưa đến nay với đơn vị kinh tế cơ sở là Kinh tế hộ nông dân (trên thế giới thường gọi dưới cái tên phổ biến nhất là nông trại) tồn tại, vận động và phát triển với nhiều hình thức và cấp độ khác nhau: từ tự nhiên - tự cung tự cấp với trình độ còn hết sức thô sơ, đến sản xuất hàng hoá lớn với trang bị kỹ thuật hiện đại. Sự tồn tại khách quan, phổ biến của kinh tế hộ nông dân dưới các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, chứng tỏ nó bị quy định bởi những quy luật nội tại, đặc thù riêng có của sản xuất nông nghiệp. Cần phải nhận thức rõ các đặc điểm đó ảnh hưởng tới việc hình thành thể chế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.
1. Nền sản xuất nông nghiệp ở tất cả các nước không phải là một nền kinh tế thuần túy.
Đây là một nền sản xuất (kinh tế) gắn bó hữu cơ giữa con người với các yếu tố tự nhiên (phụ thuộc rất mạnh vào thiên nhiên, nhất là về đất đai), giữa các yếu tố kinh tế với các yếu tố xã hội, giữa cá nhân con người với những người trong gia đình hình thành nên đơn vị sản xuất đặc thù - đơn vị xã hội huyết thống đặc thù, giữa các hộ gia đình với cộng đồng dân cư…Tất cả những điều đó làm cho nền nông nghiệp không tồn tại đơn thuần chỉ là nền kinh tế, mà nó chứa đựng rất nhiều yếu tố xã hội, yếu tố tự nhiên cả trong quá trình sản xuất, quá trình tiêu dùng và sinh hoạt xã hội cộng đồng. Đã có những học giả gọi nền sản xuất nông nghiệp là nền kinh tế đạo đức. Trong nền nông nghiệp không phải khi nào cũng đặt mục tiêu tối đa lợi nhuận lên đầu, mà nó còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố và giá trị xã hội. Lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp nói chung thường là không cao và không ổn định. Điều này sẽ có ảnh hưởng mạnh đến các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.
Mối quan hệ giữa con người với các thực thể sinh học và giữa con người với con người trong quá trình sản xuất nông nghiệp là điểm khác biệt căn bản của sản xuất nông nghiệp với sản xuất công nghiệp, nó quy định nội dung và các hình thức sở hữu và do đó cả các hình thức tổ chức sản xuất, trong đó có hình thức cơ bản là hộ nông dân và các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh trong sản xuất nông nghiệp.
2. Đặc thù sinh học:
Quá trình sản xuất - tiêu dùng trong nông nghiệp chia làm các giai đoạn chủ yếu: sản xuất, thu hoạch, bảo quản - chế biến, lưu thông, và tiêu dùng. Đặc tính sinh học chi phối toàn bộ các giai đoạn đó, tuy nhiên ở mỗi giai đoạn đặc tính sinh học quy định quá trình sản xuất khác nhau. Đặc tính đó thể hiện cao nhất là ở giai đoạn sản xuất với sản phẩm là các cây - con - những cơ thể sống. Quá trình sinh học này đòi hỏi người sản xuất phải có sự quan tâm thường xuyên với ý thức của người chủ, cao hơn nữa là một tình yêu đối với đồng ruộng và cây con - một yếu tố phi kinh tế, nhưng lại đóng một vai trò có tính quyết định trong sản xuất nông nghiệp, mà việc làm suy yếu tình yêu này, đánh mất tình yêu này sẽ phải trả giá đắt (thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới và cả ở nước ta đã cho thấy rõ điều này).
Trong sản xuất nông nghiệp đan kết hai quá trình: quá trình tái sản xuất tự nhiên (sinh học) của cây con và quá trình tái sản xuất kinh tế. Sẽ không thể có hiệu quả kinh tế nếu quá trình tái sản xuất kinh tế không dựa trên (hay nói đúng hơn là không nuôi dưỡng) quá trình tái sản xuất sinh học. Quá trình tái sản xuất sinh học là một quá trình hoàn chỉnh, liên tục, về cơ bản không thể chia cắt về thời gian và không gian, không thể đảo lộn trật tự các giai đoạn phát triển sinh học. Đặc tính này quy định sự phân công lao động và kiểu tổ chức sản xuất trong nông nghiệp không thể “công đoạn hoá” máy móc tách biệt như trong công nghiệp, nó làm cho sản xuất nông nghiệp khó thoát ly khỏi hình thức kinh doanh hộ gia đình hoặc các chủ thể trực tiếp quản lý sản xuất nông nghiệp vơi tư cách là người chủ thực thụ.
Toàn bộ quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp có đặc tính quan trọng là: càng gần, càng gắn với quá trình sinh học thì sản xuất càng mang tính hộ gia đình (hoặc chủ thể quản lý trực tiếp), càng xa quá trình sinh học sẽ càng có nhu cầu liên kết lại, tập trung hoá và chuyên môn hoá. Đặc tính này ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành hệ thống quan hệ sở hữu (và quan hệ sản xuất nói chung) và hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp theo thứ bậc: Tầng cơ sở về cơ bản là sở hữu hộ nông dân (và các chủ thể trực tiếp quản lý sản xuất), các tầng trên xa hơn quá trình sinh học là các hình thức sở hữu tập thể - hợp tác, doanh nghiệp, Hiệp hội, liên kết sản xuất kinh doanh…
3. Đặc thù của quá trình sản xuất nông nghiệp
Cũng chính đặc thù sinh học đã làm cho quá trình sản xuất nông nghiệp có khác biệt căn bản với sản xuất công nghiệp. Trước hết đó là quá trình lao động không trùng khớp hoàn toàn với quá trình sản xuất (sinh học). Nếu quá trình sản xuất sinh học theo một trình tự liên tục gắn với quá trình sinh học cho đến sản phẩm cuối cùng (thu hoạch, đưa đến người tiêu dùng) thì quá trình lao động lại bị chia cắt về thời gian, mang tính thời vụ. Chính điều này làm cho sản xuất nông nghiệp có thể cần nhiều lao động trong các thời vụ, song lại quá thừa lao động trong lúc nông nhàn. Kết cấu phức tạp của lao động làm cho sản xuất nông nghiệp khó chuyên môn hoá, tiêu chuẩn hoá, công đoạn hoá theo kiểu tổ chức sản xuất công nghiệp, song nó lại thích ứng một cách có hiệu quả với hình thức kinh doanh hộ nông dân (và các đơn vị tự chủ) ở tầng cơ sở và liên kết ở các tầng trên.
Cũng do đặc tính sinh học của sản xuất nông nghiệp nên có mâu thuẫn nội tại giữa chi phí sản xuất và thu nhập, giữa tiêu hao lao động và thù lao lao động. Tiêu hao lao động phụ thuộc vào từng khâu, nhưng thù lao lao động lại gắn với sản phẩm cuối cùng. Chính vì vậy mà trong nông nghiệp năng suất lao động của từng khâu cá biệt không đồng nhất và không quy định trực tiếp đến năng suất cây trồng vật nuôi. Ở đây nó đòi hỏi một kỹ năng lao động tinh tế thông qua tế bào gia đình (hộ nông dân) là chủ yếu (và các đơn vị tự chủ) từ tình yêu đối với ruộng đồng và phải gắn lao động với toàn bộ quá trình sản xuất, với sản phẩm cuối cùng. Chính đặc thù này đòi hỏi phải có hình thức tổ chức sản xuất đảm bảo sự thống nhất giữa đơn vị sản xuất và đơn vị phân phối (đưa ra sản phẩm cuối cùng) làm hạt nhân - đơn vị cơ bản đó phải là hộ gia đình nông dân (hoặc các chủ thể trực tiếp sản xuất nông nghiệp khác).
Đặc điểm này làm cho sản xuất nông nghiệp vừa mang tính hướng nội (tự cung tự cấp) vừa mang tính hướng ngoại (sản xuất để bán). Như thế, trong nông nghiệp, kết cấu lao động - TLSX - Đất đai - đối tượng sản xuất không phải chỉ được xem xét đơn thuần về phương diện kinh tế, một quy trình sản xuất, mà còn chính là quá trình tái sinh liên tục của một phương thức sống, phương thức sản xuất của người chủ hộ nông dân, nếu tách từng yếu tố ấy ra và trở thành “của người khác”, thì phương thức sống ấy sẽ mất nội lực phát triển.
4. Sự phát triển của công cụ sản xuất trong nông nghiệp
Trong nông nghiệp vai trò của công cụ sản xuất cũng mang tính đặc thù. Công cụ sản xuất dù thô sơ hay hiện đại vẫn không làm mất đi tính sinh học của sản xuất nông nghiệp, không làm cho vai trò kinh tế hộ gia đình (và các đơn vị sản xuất tự chủ cơ sở) mất đi địa vị của nó. Các công cụ sản xuất hiện đại chủ yếu trợ giúp các quá trình sinh học, làm tăng năng suất lao động; mặc dù khoa học công nghệ hiện đại có thể làm thay đổi cấu trúc sinh học của các giống cây trồng vật nuôi, thay đổi quá trình sinh trưởng, nhưng không làm thay đổi tính chất của sản xuất nông nghiệp, không làm thay đổi quy luật sinh thành của đối tượng sản xuất (cây con). Như vậy, nếu trong sản xuất công nghiệp vai trò chi phối quyết định là công cụ sản xuất, thì ở trong sản xuất nông nghiệp quá trình sinh học của đối tượng sản xuất đóng vai trò chi phối quyết định. Nếu trong công nghiệp đối tượng lao động có thể cắt khúc (tháo rời), dịch chuyển, chia cắt về không gian và thời gian (và gắn với đặc tính này là sự chuyên môn hoá, công đoạn hoá cao trong sản xuất); thì ngược lại, trong sản xuất nông nghiệp, các đối tượng sản xuất (cây con) lại có một quá trình sống liên tục, không thể chia cắt. Với một đối tượng sản xuất như vậy, việc vô chủ hoá, hoặc “đa chủ hoá” kiểu cha chung, hoặc “công đoạn hoá” máy móc giữa các chủ thể sản xuất đều không thích ứng với tính sinh học của nó.
Do đó trong nông nghiệp về cơ bản đòi hỏi có sự thống nhất giữa lao động quản lý với lao động sản xuất và phân phối tiêu dùng; sự thống nhất giữa chủ thể kinh tế với hoạt động kinh tế. Chính đặc tính này quy định sự tồn tại lâu dài của hình thức kinh tế hộ nông dân (với các trình độ phát triển ngày càng cao hơn) và các hình thức hợp tác - liên kết sản xuất kinh doanh phù hợp.

5. Đặc thù của tư liệu sản xuất đặc biệt - ruộng đất
Trong nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt, cho đến nay về cơ bản vẫn không thể thay thế được. Ở đây ruộng đất vừa chịu sự tác động của lao động con người như một đối tượng lao động, lại vừa là cái kết hợp giữa lao động của con người với các yếu tố tự nhiên và các yếu tố khác để nuôi dưỡng cây trồng, lại vừa là địa bàn diễn ra quá trình sản xuất. Mặt khác, ruộng đất có thể coi cũng là một cơ thể sống, nó có đời sống riêng của nó, nếu nó được nuôi dưỡng chăm bón, bảo tồn thì độ phì của nó ngày một tăng lên và sẽ trả ơn người thích đáng. Còn nếu nó phải chịu một chế độ canh tác theo kiểu tàn phá, bóc lột, một thái độ đối sử vô chủ thì con người sẽ phải trả giá, mà cái giá nhiều khi không thể trả một đời người là xong được. Cũng chính vì vậy sản xuất nông nghiệp đòi hỏi người chủ hộ nông dân phải am hiểu toàn bộ nghề nông, chứ không chỉ một khâu nào trong quy trình sản xuất như trong công nghiệp. Điều đó đặt kinh tế hộ nông dân (và các đơn vị tự chủ trực tiếp sản xuất) trở thành một tế bào sinh động chứa đựng cả những yếu tố tự nhiên, kinh tế và xã hội, với tư cách là người chủ ruộng đất. Chừng nào khi người nông dân mỗi buổi sáng ra đồng còn băn khoăn “nhất cuốc này bổ xuống là vì lợi ích của ai”, thì chừng đó đừng hy vọng có một vụ mùa bội thu. Chính diễn biến của mối quan hệ nông dân với ruộng đất đã quy định tiến trình phát triển của nông nghiệp.
Quan hệ giữa nông dân với ruộng đất không đơn thuần chỉ mang tính kinh tế, mà còn mang tính chính trị - xã hội - tự nhiên. Do đó sự vận động của quan hệ ruộng đất không chỉ là gắn người lao động với đất đai, mà còn hướng tới những người chủ biết sử dụng đất đai một cách có hiệu quả, thích ứng với môi trường. Đây cũng chính là khuynh hướng vận động của quan hệ ruộng đất từ nền nông nghiệp tự nhiên, tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hoá, nền nông nghiệp sinh thái. Ruộng đất trong nền kinh tế tự cung tự cấp là điều kiện sinh tồn, là quan hệ sinh tồn; nhưng khi chuyển sang nền nông nghiệp hàng hoá, ruộng đất là điều kiện sản xuất để thực hiện lợi ích kinh tế qua thị trường, là vốn tham gia vào sản xuất hàng hoá (chưa kể việc bản thân ruộng đất là hàng hoá). Rõ ràng khi chuyển từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hoá, quan hệ nông dân và ruộng đất có sự thay đổi về chất. Khi trao quyền làm chủ ruộng đất cho nông dân, đồng thời mở đường cho ruộng đất tìm đến những người chủ có khả năng sử dụng có hiệu quả nhất (cao hơn), chính là đã tạo một tiền đề quan trọng cho bước chuyển về chất trong quan hệ ruộng đất từ điều kiện sinh tồn thuần tuý, sang điều kiện kinh tế hàng hóa là cơ bản. Đồng thời, khi nền nông nghiệp càng được hiện đại hóa, sử dụng công nghệ cao, lực lượng lao động trong nông nghiệp (thể hiện tập trung ở số hộ và lao động làm nông nghiệp) ngày càng giảm đi thì cần phải có cơ chế để ruộng đất “được giải phóng” từ những hộ không có năng lực sản xuất nông nghiệp giỏi, để tích tụ, tập trung ruộng đất vào những hộ (đơn vị) có năng lực sản xuất nông nghiệp hàng hóa giỏi. Đây là một quá trình khách quan; nhưng cần có chính sách phù hợp trong mỗi giai đoạn, trình độ phát triển và lĩnh vực nông nghiệp cụ thể.
6. Quá trình xã hội hoá nền sản xuất nông nghiệp
Cũng chính do đặc tính sinh học quy định sự tồn tại của tế bào kinh tế hộ gia đình đã làm cho quá trình xã hội hoá nền sản xuất nông nghiệp không giống với công nghiệp. Trong nông nghiệp luôn chứa đựng sự thống nhất - mâu thuẫn khách quan giữa sản xuất hộ gia đình mang tính độc lập tương đối bị quy định bởi đặc tính sinh học, với việc nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp gắn với quá trình chuyên môn hoá, hợp tác và liên kết sản xuất kinh doanh. Sản xuất nông nghiệp hàng hoá lại không thể tách khỏi công nghiệp chế biến, thương nghiệp, dịch vụ … mà từng hộ khó có thể đảm đương được một cách có hiệu quả khi quy mô sản xuất tăng lên. Đồng thời khi chuyển sang sản xuất theo chiều sâu, nhiều vấn đề từng hộ không làm được, đòi hỏi không chỉ hợp tác mà phải có sự đầu tư lớn về khoa học và công nghệ như: cách mạng xanh với giống cây, con cao sản, nhân giống hiện đại trên cơ sở sinh học, hệ thống công cụ hiện đại… Như vậy tất yếu khách quan có sự phân tầng chức năng giữa hộ gia đình - HTX và các doanh nghiệp trong quá trình liên kết sản xuất kinh doanh nông nghiêp. Nhưng sự phân tầng này không cố định, khi sản xuất hàng hoá càng phát triển, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ càng cao, quá trình chế ngự tự nhiên được nâng cao, thì một mặt kinh tế hộ càng lớn mạnh, nhưng vai trò của kinh tế hộ giảm đi một cách tương đối theo nghĩa nhiều chức năng, khâu sản xuất được nâng lên tầng hợp tác, liên kết, liên doanh, tích tụ lại ở tầng cao hơn.
7. Hộ nông dân tồn tại với tư cách là một đơn vị sản xuất - đơn vị xã hội - đơn vị tiêu dùng đặc thù.
Con đường xã hội hoá đặc thù trong sản xuất nông nghiệp như nêu trên, nó không cùng kiểu với công nghiệp; quy định sự tồn tại khách quan của Đơn vị kinh tế hộ nông dân. Chính Mác và Engghen, mặc dù thời gian đầu có dự đoán rằng con đường phát triển sản xuất nông nghiệp sẽ diễn ra “cùng kiểu” với công nghiệp - thành các xí nghiệp TBCN với lao động làm thuê; song sau này khi nghiên cứu viết tập III của bộ Tư bản (và cũng từ sự phát triển của thực tiễn nông nghiệp nhiều nước Âu, Mỹ) đã công nhận nông trại gia đình trên thực tế không sử dụng lao động làm thuê kiểu TBCN đã ngày càng được củng cố vững chắc và phồn thịnh, và Người viết rằng: “Luân lý lịch sử mà ta có thể rút ra trong khi xem xét nghề nông… là ở chỗ hệ thống TBCN mâu thuẫn với nghề nông hợp lý, hay nghề nông hợp lý không phù hợp (trái ngược) với hệ thống TBCN (mặc dầu hệ thống này có hỗ trợ cho sự phát triển kỹ thuật nông nghiệp) và đòi hỏi phải có hoặc là bàn tay của người tiểu nông bằng lao động của chính mình, hoặc là sự kiểm soát của những người sản xuất có liên kết với nhau[1].
Nhưng bản thân kinh tế hộ gia đình không phải và không thể là một tế bào biệt lập. Trong bước chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, khi kinh tế hộ gia đình càng tham gia sâu hơn vào các quan hệ thị trường thì các yếu tố sản xuất sẽ vận động theo hướng thoát khỏi trạng thái khép kín, đi vào liên kết, hợp tác, tích tụ… để sử dụng có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, gắn với ruộng đất và với quá trình sản xuất sinh học vẫn phải là người nông dân được thực sự làm chủ.

8. Tính đặc thù của sự hình thành thị trường trong nông nghiệp
Khác với trong sản xuất công nghiệp, trong sản xuất nông nghiệp thị trường nông sản phần lớn thường là thị trường giao sau: Có nghĩa là khi bắt đầu sản xuất các sản phẩm nông sản phần lớn chưa có các hợp đồng tiêu thụ (thường được hình thành sau đó, có thể là gần thu hoạch hoặc sau thu hoạch), trong khi thời gian sản xuất nhiều loại sản phẩm nông nghiệp thường là dài. Sự tách biệt giữa thời điểm bắt đầu sản xuất với thời điểm hình thành thị trường tiêu thụ làm cho sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn lớn trong việc xây dựng quy hoạch và kế hoạch sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ ổn định. Đối với một nền sản xuất nông nghiệp ở trình độ sản xuất hàng hóa nhỏ thì việc các hộ nông dân đưa sản phẩm nông sản ra thị trường tự do hoàn toàn mang tính chất may rủi. Nhưng khi đã đi vào sản xuất hàng hóa lớn (hay hàng hóa chuyên), từng hộ nông dân không thể đủ sức để “đối phó” có hiệu quả với đặc điểm của thị trường giao sau này, nhất là khi sản phẩm nông sản đó chủ yếu hướng ra xuất khẩu. Đặc điểm của sự hình thành thị trường giao sau trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải hình thành các hình thức liên ngang và liên kết dọc phù hợp trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp, giữa các đơn vị sản xuất hộ nông dân với các đơn vị bao tiêu, chế biến và kinh doanh (đưa ra thị trường).
9. Tính chất rủi ro trong sản xuất nông nghiệp thường là cao
Trong sản xuất nông nghiệp, do tính đặc thù của nó, tính chất và mức độ rủi ro thường là cao. Có hai loại rủi ro chủ yếu: Rủi ro từ tự nhiên và rủi ro từ thị trường. Rủi ro từ tự nhiên là rủi ro thất bát mùa màng do thay đổi khí hậu không thuận, do bão tố, lụt lội, do sâu và dịch bệnh…Những rủi ro này trong nhiều trường hợp không thể dự báo trước được. Rủi ro từ thị trường là rủi ro từ sự thay đổi quan hệ cung - cầu trên thị trường khác với kế hoạch sản xuất đã thực hiện và với kết quả sản xuất cụ thể. Đó còn là sự thay đổi giá cả nông sản trong tương quan với giá cả các yếu tố “đầu vào” để sản xuất ra sản phẩm. Đặc biệt, đối với các sản phẩm nông sản nằm trong thị trường giao sau, thì rủi ro từ thị trường là rất lớn.
Đồng thời, về mặt cơ chế, trên thực tế cũng có thể xuất hiện các rủi ro từ các chính sách bất cập (hoặc thay đổi chính sách) của Nhà nước, như chính sách quy hoạch sản xuất, chính sách giá cả, chính sách thu mua, chính sách xuất nhập khẩu…của cả trong nước và từ phía nước ngoài, dẫn đến những thiệt hại cho người sản xuất. Trên thực tế còn loại rủi ro từ đặc điểm các sản phẩm nông sản đa số là dễ vỡ, dễ hỏng, dễ bị biến đổi chất lượng, khó bảo quản lâu dài và vận chuyển đi xa.
Chính vì những đặc điểm của nền sản xuất nông nghiệp, mà Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành các cơ chế, chính sách và hỗ trợ cho việc ra đời và hoạt động có hiệu quả của các hình thức sản xuất kinh doanh và các chuỗi liên kết sản xuất kinh doanh phù hợp với nền nông nghiệp nói chung và phù hợp với từng loại sản phẩm trong nông nghiệp. Đồng thời cần hình thành hệ thống bảo hiểm sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, nhất là đối với sản xuất hàng hóa lớn.
10. Nền nông nghiệp nhiệt đới trồng lúa nước
Cùng với những đặc điểm trên, nền nông nghiệp Việt Nam còn là một nền nông nghiệp nhiệt đới, lương thực chủ yếu là trồng lúa nước, phụ thuộc rất mạnh vào tự nhiên; đồng thời phương thức canh tác lúa nước cũng có nhiều đặc điểm khác với canh tác các loại cây lương thực khác; lại với dân số đông chủ yếu còn sống ở nông thôn, diện tích đất canh tác bình quân đầu người thuộc loại rất thấp trên thế giới và khu vực. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến quy mô và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp từ xa xưa và cả ngày nay khi chuyển sang phát triển nền nông nghiệp hàng hóa và hội nhập quốc tế.
Tất cả những đặc điểm nêu trên đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành các hình thức tổ chức sản xuất và liên kết kinh doanh trong nông nghiệp, cần phải được nhận thức rõ và vận dụng phù hợp đối với từng lĩnh vực và trình độ sản xuất cụ thể ở mỗi vùng.
11. Sự phát triển của nền nông nghiệp dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và biến đổi khí hậu toàn cầu
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã, đang và sẽ tác động sâu sắc đến sự phát triển nền nông nghiệp trên toàn cầu ở những nội dung chủ yếu sau:
- Tác động đến quá trình tạo ra các giống cây trồng và vật nuôi mới với những đặc tính chất lượng cao hơn cho con người, thậm chí có những đặc tính, phẩm chất mà trong tự nhiên không có; cao hơn nữa, còn tạo ra các loại thực phầm nhân tạo (như thịt bò, thịt lợn nhân tạo…).
- Với các công nghệ cao, có thể thay đổi quá trình phát triển sinh học của các loại cây trồng vật nuôi (kéo dài hay rút ngắn quá trình sinh trưởng, phát triển; có khả năng chống chịu tác động của biến đổi khí hậu, của sâu bệnh tốt hơn…).
- Tạo ra các môi trường nhân tạo (khí hậu, dinh dưỡng, nước, ánh sáng…) thích hợp cho phát triển các cây trồng, vật nuôi với tốc độ phát triển nhanh, tốc độ cao, chất lượng cao, sạch…
- Với các công nghệ cao, có thể tạo ra các phương thức sản xuất mới, như sử dụng tiết kiệm đất, canh tác đứng (thậm chí không cần sử dụng đất, thủy canh…), sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên và đầu vào khác.
- Phát triển lực lượng sản xuất mới, hiện đại trong nông nghiệp (hình thành đội ngũ chủ hộ nông dân, chủ đơn vị sản xuất kinh doanh mới với trình độ ứng dụng khoa học công nghệ ngày càng cao vào trong sản xuất kinh doanh…); gắn liền với đó là hình thành các quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp và với các lĩnh vực liên quan (như sản xuất kinh doanh theo chuỗi, ứng dụng kinh tế tuần hoàn, ứng dụng thương mại điện tử kết nối trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dung bỏ qua các khâu trung gian…).
- Thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp xanh (cả trong chăn nuôi, trồng trọt, chế biến và tiêu thụ), giảm thiểu (thậm chí không) phát thải. Điều này ảnh hưởng đến cả quá trình tạo ra các giống cây con mới, đến các phương thức sản xuất nông nghiệp ít phát thải, thậm chí không phát thải. Đồng thời vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, nhất là sinh thái rừng trở thành một nhiệm vụ, mục tiêu trọng yếu.
- Biến đổi khí hậu trên toàn cầu ngày càng phức tạp, tác động sâu sắc tới sự thay đổi của hệ sinh thái, nhất là nền sản xuất nông nghiệp. Việt Nam là một trong số ít nước bị tác động rất lớn của biến đổi khí hậu, trong đó có tình trạng nước biển dâng. Điều này sẽ tác động rất lớn đến môi trường sống, đến điều kiện và môi trường sản xuất nông nghiệp; đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp, hiệu quả để thích ứng với quá trình biến đổi khí hậu ở những vùng bị tác động mạnh (như vùng đồng bằng Sông Cửu long, các tỉnh ven biển…).
- Hội nhập và hợp tác quốc tế về kinh tế ngày càng sâu rộng, cũng còn có nghĩa là cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng tăng lên; thể hiện tập trung ở chất lượng và giá cả nông sản trong thương mại quốc tế. Nhưng do yêu cầu và mục tiêu phát triển bền vững trên toàn cầu, các nước phát triển, các tổ chức quốc tế và nhiều nước đang đặt ra yêu cầu rất cao đổi với nền sản xuất nông nghiệp, các sản phẩm nông nghiệp, như: tiêu chuẩn chất lượng cao, xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, chỉ số phát thải, chống khai thác tàn phá thiên nhiên (như phá rừng, đánh bắt cá trái phép IUU…), mẫu mã sản phẩm, hàng rào kỹ thuật bảo vệ sản phẩm nội địa và ngăn chặn hàng hóa nhập ngoại không đáp ứng yêu cầu…
Những vấn đề trên đang đặt ra yêu cầu mới về xây dựng và hoàn thiện thể phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới.
(Còn tiếp)
PGS.TS Trần Quốc Toản
Chuyên gia cao cấp
[1] C.Mác, F.Eghen, Tập 25, phần 1, trang 135.