Thứ Bảy, ngày 12 tháng 07 năm 2025

Tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới (phần 3)

Ngày phát hành: 11/06/2025 Lượt xem 837

V. ĐỊNH HƯỚNG CHỦ YẾU VỀ ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

1. Những vấn đề đặt ra

 

Xét về phương diện Thể chế phát triển nông nghiệp (trước hết về các hình thức tổ chức và liên kết sản xuất kinh doanh) đang nổi lên những vấn đề chủ yếu sau đây:

 

1) Trình độ và năng lực của kinh tế hộ nông dân đi vào sản xuất hàng hóa nhìn chung còn rất thấp; tư duy kinh tế và phương pháp canh tác của tuyệt đại đa số hộ nông dân còn đang ở trình độ kinh nghiệm truyền thống, chưa tiếp cận được nhiều với phương thức canh tác tiên tiến.

 

2) Trên bình diện cả nước, quy mô canh tác hộ nông dân rất nhỏ (69% số hộ sử dụng đất sản xuất nông nghiệp có quy mô dưới 0,5 ha; 85% hộ sử dụng đất trồng lúa có diện tích dưới 0,5 ha, 50% hộ sử dụng đất trồng lúa có diện tích dưới 0,2 ha).

 

 

3) Hợp tác xã trong nông nghiệp số lượng vẫn còn rất ít, phát triển chậm, nhiều nơi vẫn còn mang những “dấu ấn” của HTX cũ, chưa đóng vai trò đáng kể đối với sự phát triển của kinh tế hộ nông dân và nông nghiệp hàng hóa.

 

4)  Sự phát triển các loại hình doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn còn chậm và rất hạn chế; Đặc biệt là còn ít doanh nghiệp chế biến, nhất là chế biến sâu - chất lượng cao, lại càng ít doanh nghiệp cung cấp dịch vụ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp.

 

5) Các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp chậm phát triển, hiệu quả chưa cao, trình độ và chất lượng liên kết còn thấp; việc chưa phát triển được mạnh các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh với các hộ nông dân, nhất là có sự chia sẻ về trách nhiệm, lợi ích và rủi ro, đang là một trong những khâu yếu nhất và hệ trọng nhất.

6) Thể chế thị trường trong nông nghiệp chưa được hoàn thiện, còn nhiều bất cập, yếu kém, chứa đựng nhiều yếu tố tự phát; vấn đề quy hoạch sản xuất gắn với nhu cầu của thị trường trở thành một nhiệm vụ quan trọng.

7) Công tác nghiên cứu cơ sở lý luận về thể chế phát triển nông nghiệp (nhất là nền nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao, hội nhập quốc tế sâu rộng) gắn với tổng kết thực tiễn và chỉ đạo nhân rộng các mô hình tốt - hiệu quả đang là một yêu cầu bức thiết.

 

2. Quan điểm đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển ngông nghiệp

 

Về phương diện thể chế phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới xin nêu một số quan điểm sau:

 

 1). Đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp phải gắn với đổi mới thể chế phát triển nông thôn, đặt trong tổng thể thể chế kinh tế thị trường, tương quan hữu cơ với quá trình CNH, HĐH, phi nông nghiệp hóa, đô thị hóa trong cả nước cũng như điều kiện cụ thể của mỗi vùng.

 

 2). Đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp theo hướng chuyển mạnh nông nghiệp sang phát triển theo chiều sâu trên nền tảng ứng dụng khoa học công nghệ kết hợp hợp lý với phát triển theo chiều rộng, phù hợp với điều kiện - trình độ cụ thể của từng vùng, loại hình nông sản; gắn kết hữu cơ giữa các yếu tố kinh tế với các yếu tố xã hội và môi trường sinh thái; đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ về lợi ích, trách nhiệm và chia sẻ rủi ro giữa các chủ thể, lấy lợi ích của Hộ nông dân làm cơ sở, đảm bảo sự phát triển bền vững.

 

3). Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp phải lấy đơn vị kinh tế hộ nông dân làm đơn vị cơ sở; đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ nông dân gắn liền với phát triền đa dạng các chủ thể liên quan khác (nhất là các doanh nghiệp chế biến, đơn vị kinh doanh, đơn vị cung cấp dịch vụ…), tạo thành các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh đa dạng đa tầng (liên kết ngang - liên kết dọc), gắn kết các chủ thể trong các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị, hiệu quả, ổn định, bền vững; trong đó các doanh nghiệp đóng vai trò là hạt nhân liên kết. 

 

 4). Trong điều kiện đa dạng, đa tầng của trình độ kinh tế hộ nông dân và điều kiện đặc thù của mỗi vùng, ngành, lĩnh vực, sản phẩm, phải hình thành được các hình thức tổ chức sản xuất và liên kết sản xuất kinh doanh phù hợp, hiệu quả.

 

5). Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng đối với đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp (cả vai trò quản lý nhà nước và vai trò là “đối tác” hỗ trợ phát triển đối với các chủ thể khác); kết hợp hài hòa - hiệu quả vai trò của Nhà nước với vai trò của cơ chế thị trường, vai trò của các chủ thể sản xuất kinh doanh, vai trò của các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư…phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu thế hội nhập quốc tế, nhằm đảm bảo cho nền nông nghiệp phát triển hiệu quả, bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường.

 

3. Những định hướng và giải pháp chủ yếu đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp

 

1). Định hướng phát triển

 

 Định hướng chung : Xây dựng và hoàn thiện thể chế để chuyển mạnh nền nông nghiệp từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu trên nền tảng ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, từng sản phẩm; phát triển và nâng cao trình độ - năng lực sản xuất hàng hóa của các hộ nông dân, các HTX, các loại hình doanh nghiệp, đơn vị cung ứng dịch vụ…gắn với việc hình thành các liên kết - các chuỗi sản xuất kinh doanh có hiệu quả và bền vững giữa các chủ thể theo hướng có sự liên kết về trách nhiệm, lợi ích và chia sẻ rủi ro; phát triển và hoàn thiện đồng bộ các thể chế liên quan như đất đai, thị trường, tài chính, khoa học - công nghệ, hội nhập quốc tề… nhằm tạo cơ sở và động lực cho sự phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, chất lượng và bền vững trong giai đoạn mới.

 

Các định hướng cụ thể:

 

i) - Đổi mới tư duy về phát triển nông nghiệp: Chuyển từ tư duy và thực tiễn phát triển nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất và xuất khẩu thô, chất lượng thấp, giá trị gia tăng không cao, thiên về “khối lượng”, sang nền nông nghiệp sản xuất lớn, hiện đại, chất lượng cao, trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, phát triển các sản phẩm chất lượng cao, nhất là các sản phẩm chủ lực, mũi nhọn, hướng vào nâng cao giá trị gia tăng.

 

ii) - Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường phù hợp yêu cầu và đặc điểm của nền nông nghiệp hội nhập quốc tế, nhằm phát huy cao các lợi thế so sánh, chuyển hóa thành lợi thế cạnh tranh, tạo cơ sở và động lực cho sự phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, chất lượng cao và bền vững; đảm bảo vững chắc thị trường nội địa và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế…

 

iii) - Đẩy mạnh phát triển và nâng cao trình độ - năng lực sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hóa của các hộ nông dân, các HTX, các loại hình doanh nghiệp, đơn vị cung ứng dịch vụ… gắn với việc hình thành các liên kết - các chuỗi sản xuất kinh doanh có hiệu quả và bền vững giữa các chủ thể; trên cơ sở ứng dụng có hiệu quả các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần tứ tư.

 

iv) - Đẩy mạnh tái cấu trúc nền nông nghiệp theo yêu cầu phát triển theo chiều sâu; chuyển nền nông nghiệp đang tập trung cao cho phát triển nông nghiệp thuần, lấy sản xuất lương thực (lúa gạo) là chủ yếu, sang phát triển nền nông nghiệp đa dạng phù hợp với điều kiện và lợi thế của Việt Nam (như thủy sản, chăn nuôi, rau, củ, quả, hoa…) để tăng nhanh hiệu quả và giá trị gia tăng của nền nông nghiệp. Từng bước giảm vai trò “chủ lực” của lúa gạo trong xuất khẩu, nhất là về số lượng, chuyển mạnh sang nâng cao chất lượng và tăng giá trị gia tăng.

 

+ Việt Nam phải định hướng xây dựng nền nông nghiệp sạch, bền vững phù hợp với điều kiện chung của cả nước và điều kiện cụ thể của từng vùng. Gắn với phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, xây dựng nông thôn mới, đảm bảo môi trường sinh thái nông thôn trong sạch và bền vững; thích ứng có hiệu quả với biến đổi của môi trường, như khô hạn, bão lũ, xâm mặn…

 

+ Đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất vật tư nông nghiệp và thiết bị máy móc nông nghiệp để giảm sự phụ thuộc (bất hợp lý) vào thị trường bên ngoài, nhằm nâng cao tính chủ động và hiệu quả của nền nông nghiệp Việt nam.

 

2). Đẩy mạnh phát triển và hiện đại hóa Kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực    

  

Các hộ nông dân là chủ thể cơ sở và lực lượng đông đảo nhất, có vai trò quan trọng hàng đầu trong phát triển nền nông nghiệp hiện đại. Hiện nay, cả nước có gần 10 triệu hộ nông dân, lực lượng lao động ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 33 triệu người (chiếm khoảng 63% lực lượng lao động của cả nước; riêng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 30%). Sự cất cánh mạnh mẽ của nền nông nghiệp theo hướng hiện đại chỉ có thể đạt được khi gắn với đẩy mạnh nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (bao gồm cả công nghiệp hóa, dịch vụ hóa nông thôn), thúc đẩy sự phân công lao động, phân tầng, phân hóa, chuyên môn hóa, chuyên canh hóa, đi vào sản xuất hàng hóa ở quy mô ngày càng lớn hơn của các hộ nông dân, nhằm rút bớt lao động và giảm số hộ trong lĩnh vực nông nghiệp. Đó cũng là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - kinh tế nông thôn, phát triển nền nông nghiệp hàng hóa.

Hiện nay trình độ phát triển của gần 10 triệu kinh tế hộ nông dân rất khác nhau, có thể chia làm 3 nhóm chủ yếu sau: nhóm thứ nhất là hàng triệu hộ đang còn ở trình độ sản xuất tự nhiên, tự cung tự cấp là chủ yếu (ở những vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số). Nhóm thứ hai là các hộ đang ở trình độ sản xuất tự cung tự cấp gắn với sản xuất hàng hóa nhỏ; nhóm này chiếm tỷ trọng lớn nhất (chủ yếu ở những vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Trung bộ…). Nhóm thứ ba là các hộ nông dân đã đi vào sản xuất hàng hóa ở những quy mô khác nhau (ở nước ta quy mô lớn thường được gọi là trang trại); nhóm này đang ngày càng tăng lên, nhưng hiện còn chiếm tỷ trọng nhỏ, theo ước tính chỉ khoảng 10 - 15 % tổng số hộ nông dân cả nước, tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, Đông nam Bộ và một số địa phương sản xuất nông nghiệp hàng hóa đã phát triển tương đối cao. Cần nhận thức rõ sự tồn tại khách quan một “phổ” rộng các loại trình độ kinh tế hộ khác nhau và quá trình phân hóa, phân công, phát triển đa dạng của kinh tế hộ nông dân trong nền kinh tế thị trường.

 

Do đó cần phải nâng cao trạng thái và trình độ sản xuất kinh doanh của hộ nông dân phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, gắn với nâng cao mức sống và thúc đẩy quá trình phát triển - phân công - phân hóa kinh tế hộ nông dân trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, phát triển nền nông nghiệp hàng hóa và hội nhập quốc tế. Định hướng phát triển và giải pháp nâng cao trình độ kinh tế hộ nông dân cho những nhóm hộ khác nhau như sau:

 

- Đối với nhóm hộ còn ở trình độ sản xuất tự nhiên, tự cung tự cấp là chính, trọng tâm là thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực nội sinh - năng lực sản xuất kinh doanh của hộ nông dân gắn với hỗ trợ phát triển điều kiện sản xuất, phát triển các hình thức hỗ trợ cộng đồng. Có thể đi vào sản xuất hàng hóa ở những nơi có điều kiện thuận lợi với sự hỗ trợ trực tiếp của nhà nước, hoặc các đơn vị kinh doanh khác trực tiếp đầu tư gắn với hộ nông dân.

 

- Đối với nhóm hộ đang ở trình độ sản xuất hàng hóa nhỏ là chủ yếu (như ở vùng Trung du Bắc Bộ, vùng đồng bằng Sông Hồng, miền Trung…), mục tiêu là nâng cao trình độ và trạng thái kinh tế hộ, tạo điều kiện để hộ nông dân đi vào sản xuất hàng hóa ở trình độ cao hơn thông qua quá trình chuyển một số hộ (lao động) sang phát triển ngành nghề phi nông nghiệp, rút bớt số hộ làm nông nghiệp, tăng quy mô canh tác của hộ. Đối với những vùng này, cùng với việc đẩy mạnh phát triển ngành nghề phi nông nghiệp, cần thực hiện các giải pháp phù hợp để tích tụ - tập trung ruộng đất tới quy mô cần thiết cho phát triển nông nghiệp hàng hóa hiệu quả.

 

- Đối với nhóm hộ đã ở trình độ sản xuất hàng hóa là chủ yếu (như ở đồng bằng sông Cửu Long, Vùng Đông Nam Bộ, Vùng cây công nghiệp ở Tây Nguyên…), mục tiêu đặt ra tiếp tục nâng cao trình độ sản xuất hàng hóa, nâng cao hiệu quả và chất lượng sản xuất kinh doanh, liên kết hình thành các vùng chuyên sản xuất nông sản hàng hóa lớn, chất lượng cao; thực hiện các giải pháp trang bị kiến thức, kỹ năng và quy trình sản xuất kinh doanh tiên tiến, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đẩy mạnh hình thành các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh “ngang - dọc” giữa các đơn vị chế biến, đơn cung cấp dịch vụ khoa học công nghệ, tín dụng và các dịch vụ khác, các doanh nghiệp thương mại… gắn với các hộ nông dân, nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh hiệu quả, ổn định và bền vững. Đặc biệt quan tâm đến ứng dụng thương mại điện tử, chuyển đổi số đối với các loại hộ này.

 

- Một yêu cầu và nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách đặt ra là Nhà nước phải có có cơ chế, chính sách, chương trình để đào tạo và nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh hiện đại của các hộ nông dân, nhất là của các chủ hộ (cả về trình độ ứng dụng khoa học công nghệ, trình độ sản xuất kinh doanh, trình độ tham gia vào thị trường, trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh trong liên kết và hội nhập quốc tế, trình độ phát triển nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn…). Theo Tổng cục Thống kê, năm 2023, lực lượng lao động của cả nước đã qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ chỉ chiếm khoảng 27%. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, chất lượng lao động còn thấp hơn; ngay ở các vùng có nền nông nghiệp hàng hóa phát triển cao so với cả nước, tỉ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp nghề trở cũng còn rất thấp, như vùng Đông Nam Bộ chỉ chiếm 7,4% vùng ĐBSCL chiếm 2,21%. Việc đào tạo và nâng cao trình độ của các chủ hộ nông dân đóng vai trò trọng yếu đề đưa nền nông nghiệp thoát khỏi phương thức canh tác của nghề nông truyền thống, bước lên nền kinh tế nông nghiệp hiện đại, hiệu quả cao, bền vững.

 

3). Đẩy mạnh đổi mới và phát triển đa dạng các hình thức HTX theo “cả chiều ngang và chiều dọc”, có thể theo khu vực, có thể theo ngành hàng, có thể theo chuỗi sản xuất kinh doanh.

 

Nhà nước cần tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách và chỉ đạo phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, HTX phù hợp và hiệu quả trong nông nghiệp. Các hình thức tổ chức HTX phải được xây dựng theo nguyên tắc cao nhất là mang lại lợi ích thiết thực cho hộ nông dân, được nông dân cấp nhận. Đối với nhóm hộ thứ nhất, do trình độ kinh tế hộ nông dân còn thấp, cần hình thành các hình thức hợp tác giản đơn, tương trợ lẫn nhau giữa các hộ, phát triển các hình thức hỗ trợ cộng đồng với sự giúp đỡ của nhà nước. Đối với nhóm hộ thứ hai, hình thức hợp tác thích ứng hơn cả là HTX dịch vụ tổng hợp của các hộ nông dân; các hộ nông dân có thể góp vốn ruộng đất với nhau để hình thành HTX cổ phần sản xuất nông sản hàng hóa. Đối với nhóm hộ thứ ba, các hình thức HTX chủ yếu là liên kết và cung cấp các dịch vụ “đầu vào và đầu ra” phục vụ cho quá trình sản xuất hàng hóa của hộ hiệu quả và bền vững hơn; ở trình độ cao hơn cần phát triển các HTX liên kết theo ngành dọc (từ sản xuất đến chế biến và ra đến thị trường…).

 

Phải đổi mới một cách căn bản các mô hình HTX không phù hợp - kém hiệu quả hiện đang còn tồn tại ở một số nơi, trên cơ sở đảm bảo đúng bản chất của HTX, theo nguyên tắc “tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, cùng có lợi”. Phải xuất phát từ các nội dung sản xuất kinh doanh mà các hộ cần hợp tác, liên kết với nhau; mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho các hộ xã viên. Đối với “bên ngoài”, HTX hoạt động theo cơ chế thị trường; Đối với “bên trong” - tức đối với các hộ xã viên (hay trong hệ thống liên các HTX), HTX không hoạt động theo cơ chế bao cấp, nhưng cũng không lấy các hộ xã viên làm đối tượng kinh doanh theo cơ chế hoàn toàn vì lợi nhuận, mà cung cấp các dịch vụ cho các hộ xã viên có thể có những ưu đãi cao hơn. Đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện có chế quản lý - quản trị phù hợp với bản chất kinh tế - xã hội của HTX trong từng lĩnh vực; đối với những HTX có quy mô lớn có thể và cần thiết tách biệt rõ chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị HTX và Ban giám đốc HTX.

 

4). Đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp hộ gia đình ở nông thôn.

 

 Đối với nước ta, đang trong bước chuyển từ nền nông nghiệp còn mang nặng đặc trưng của của xuất hàng hóa nhỏ sang sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng cao, thì việc phát triển các doanh nghiệp hộ gia đình (DNHGĐ) với các quy mô khách nhau (cả chính thức - tức được cấp giấy phép, và phi chính thức - tức chưa được cấp giấy phép), sử dụng lao động của gia đình là chính (hoặc có thể thuê thêm một số ít lao động), có thể là kinh doanh tổng hợp (cả nông nghiêp, công nghiệp, dịch vụ) hoặc chuyên ngành phi nông nghiệp có một ý nghĩa rất quan trọng, nhất là đối với những vùng đất chật người đông, dư thừa nhiều lao động nông nghiệp. Vì điều này không chỉ có tác dụng đa dạng hóa nguồn thu và nâng cao thu nhập của hộ nông dân, hạn chế rủi ro; mà còn có tác dụng quan trọng thúc đẩy từng bước phân công lại lao động nông thôn ngay từ trong mỗi hộ gia đình, góp phần tạo tiền đề cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng có lợi cho cả phát triển nông nghiệp hàng hóa và phát triền ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, quyền sử dụng đất…để phát triển ngành nghề ở nông thôn, đào tạo nghề phi nông nghiệp thúc đẩy mạnh quá trình này. Đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp hộ gia đình cũng là một tiền đề quan trọng thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp hàng hóa.

 

5). Đổi mới và phát triển mạnh hệ thống doanh nghiệp trong nông nghiệp, nhất là doanh nghiệp chế biến và dịch vụ trong nông nghiệp - nông thôn, ứng dụng công nghệ cao.

 

Các doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm kết nối trong phát triển nông nghiệp hàng hóa. Trong thời gian tới cần phát triển đồng bộ các loại hình doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh theo chuỗi của từng loại sản phẩm, nhất là khi đi vào sản xuất hàng hóa nông sản chất lượng cao. Giải pháp quan trọng hàng đầu là hoàn thiện các cơ chế chính sách ưu đãi thỏa đáng để huy động các nguồn lực đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp trong nông nghiệp (cung ứng các dịch vụ vật tư, kỹ thuật, khuyến nông, khuyến công, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ…, nhất là các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản). Đối với những ngành hàng lớn, xuất khẩu (như lúa gạo, thủy sản, cà phê…) cần có chính sách định hướng xây dựng hệ thống các doanh nghiệp liên kết với nhau và liên kết với các hộ nông dân theo chuỗi. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách ưu tiên và hỗ trợ phát triển mạnh các doanh nghiệp có liên kết - đầu tư - chế biến - tiêu thụ sản phẩm với các hộ nông dân, gắn với xây dựng các vùng nguyên liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh, cùng chia sẻ trách nhiệm, lợi ích và rủi ro, tạo thành các chuỗi sản xuất kinh doanh bền vững.

 

Cần có các chính sách ưu đãi cao (về vồn, tín dụng, thuế…) để khuyến khích phát triển các doanh nghiệp khoa học - công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp gắn với hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao, trước hết là đối với những ngành hàng lớn, xuất khẩu. Có cơ chế khuyến khích các đơn vị khoa học - công nghệ tự thành lập hoặc liên kết thành lập các doanh nghiệp khoa học trong nông nghiệp, kể cả liên kết với các đối tác nước ngoài. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp khoa học - công nghệ công lập theo hướng gắn với các chuỗi sản xuất kinh doanh, thương mại hóa các kết quả khoa học - công nghệ, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro, đảm báo thỏa đáng lợi ích cho các doanh nghiệp khoa học - công nghệ và các nhà khoa học công nghệ gắn với kết quả và hiệu quả hoạt động thực tế.

 

Ban hành các chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp trong nước sản xuất các sản phẩm “đầu vào” thiết yếu phục vụ cho sản xuất trong nước như giống chất lượng cao, phân bón, thức ăn chăn nuôi…; khuyến khích các đối tác nước ngoài tham gia đầu tư phát triển lĩnh vực này nhất là liên kết với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên cần có cơ chế điều tiết để không dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ lệ thị phần chi phối áp đảo sẽ có thể dẫn đến các tác động tiêu cực cho sản xuất và lợi ích của người nông dân (như trong lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp, hiện nay các doanh nghiệp FDI đang chiếm khoảng 60 - 70%; dẫn đến tình trạng như một số chuyên gia nói rằng nhiều hộ gia đình và các trang trại đang “chăn nuôi thuê” cho các doanh nghiệp nước ngoài).

 

Điều quan trọng là phải ban hành các cơ chế và giải pháp khắc phục có hiệu quả tình trạng độc quyền, cửa quyền, ép giá, ép phương thức liên kết, mua bán của các danh nghiệp đối với nông dân, tạo được sự bình đẳng và cùng có lợi. Để đạt được điều này, trước hết cần phải trên cơ sở xác định đúng và hợp lý vai trò, chức năng và nhiệm vụ của các doanh nghiệp nhà nước để đẩy mạnh tái cơ cấu và sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp cả về số lượng, quy mô và cơ chế hoạt động, trước hết là các doanh nghiệp thương mại, theo hướng phải gắn với hộ nông dân, có sự hỗ trợ đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm và chia sẻ rủi ro. Cần rà soát và tổ chức lại hợp lý về mặt cơ cấu và cơ chế hoạt động của hệ thống các công ty thương mại, các công ty dịch vụ nông nghiệp của Nhà nước (loại nào theo cơ chế kinh doanh vì lợi nhuận, loại nào theo cơ chế cung ứng dịch vụ hỗ trợ cho các hộ nông dân…) để có cơ chế xử lý phù hợp, như tiếp tục giữ 100% vốn của nhà nước, hay cổ phần hóa, bán… Đồng thời đẩy mạnh phát triển hệ thống dịch vụ của các hiệp hội tự nguyện của các hộ nông dân, dịch vụ của các doanh nghiệp và dịch vụ của các tư nhân, các hộ nông dân. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp dịch vụ của chính các hộ nông dân hoạt động theo cơ chế HTX, các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế “không vì lợi nhuận”. Nhà nước phải ban hành các cơ chế chính sách và giải pháp điều tiết và định hướng trong việc đảm bảo dịch vụ cho các hộ nông dân.

 

6). Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp

 

Sự phát triển các công ty nông, lâm nghiệp (trước đây là các nông, lâm trường - NLT) đã qua những giai đoạn lịch sử khác nhau, qua nhiều lần sắp xếp và đổi mới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn đang bộc lộ rất nhiều yếu kém, bất cập và cả những tiêu cực[1]. Việc tiếp tục sắp xếp và đổi mới các công ty NLN cần phải trên cơ sở đánh giá rất sâu thực trạng và trên cơ sở những nhận thức phù hợp với yêu cầu phát triển hiệu quả, ổn định trong giai đoạn mới. Xin nêu một số định hướng sau: i) - Cần xác định rõ, đúng vị trí và vai trò của các công ty NLN trong phát triển nền nông nghiệp nước ta (cả về mặt kinh tế, xã hội, môi trường, bảo vệ tài nguyên ); ii) - Cần làm rõ bản chất kinh tế, bản chất mối quan hệ sở hữu - sử dụng đất đai, mối quan hệ giữa Nhà nước, Ban quản lý  công ty NLN, các hộ nông trường viên, người lao động, các hộ nông dân được giao khoán đất (rừng) trong các công ty NLN để xây dựng mô hình và cơ chế hoạt động phù hợp, hiệu quả; iii) - Xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, quy mô cụ thể của từng loại công ty NLN; mối quan hệ về phát triển kinh tế - xã hội, về đất đai, về bảo vệ tài nguyên đất, rừng, môi trường sinh thái đối với địa phương (nhất là các hộ dân sở tại). Mục tiêu cơ bản là nâng cao hiệu quả hoạt động, gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp và nền kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Xác định cụ thể người sử dụng đất, chủ rừng, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, bảo vệ và phát triển rừng, tài nguyên rừng. Tạo sự chuyển biến căn bản về phương thức tổ chức quản lý và quản trị doanh nghiệp; gắn với công nghiệp chế biến và thị trường theo chuỗi giá trị hàng hóa.

 

Trên cơ sở định hướng nêu trên để có phương án xắp xếp, đổi mới đối với từng loại công ty NLN (giải thể, cơ cấu lại, giảm quy mô, đổi mới mô hình quản lý…). Đối với các công ty nông nghiệp xem xét giải quyết theo một số phương án sau:

 

+ Các công ty thực hiện nhiệm vụ kinh tế gắn với nhiệm vụ an ninh - quốc phòng cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế phù hợp để phát triển hiệu quả hơn, gắn với nhiệm vụ an ninh - quốc phòng.

 

+ Các công ty có cơ sở chế biến nên chuyển sang làm nhiệm vụ cung ứng dịch vụ đầu vào và chế biến, bao tiêu sản phẩm; các công ty không có cơ sở chế biến nhưng làm tốt được bao tiêu sản phẩm thì chuyển sang làm dịch vụ đầu vào và đầu ra cho các hộ nhận giao khoán đất sản xuất ổn định, lâu dài (với tư cách là một đơn vị tự chủ). Quy mô đất được giao phải phù hợp với năng lực của nông trường.

 

+ Đối với những công ty không có cơ sở chế biến và cũng không đảm nhiệm được việc bao tiêu sản phẩm thì nên chuyển giao toàn bộ đất đai cho địa phương, nông trường tổ chức lại thành công ty cung ứng dịch vụ cho địa phương (nếu có thể).

 

+ Các công ty thua lỗ kéo dài, không có phương án khắc phục, hoặc không nhất thiết phải giữ lại thì nên giải thể.

 

Đối với các công ty lâm nghiệp cần nghiên cứu xử lý theo các hướng sau:

 

+ Đối với rừng phòng hộ, chuyến sang thành lập Ban quản lý rừng hoạt động theo cơ chế sự nghiệp (có thể có thu), gắn với việc giao khoán bảo vệ rừng cho cộng đồng dân cư địa phương.

 

+ Đối với rừng sản xuất (là rừng tự nhiên; hay rừng trồng…) cần phải xác định thật rõ nhiệm vụ và đối tượng kinh tế; chỉ giao quy mô đất - rừng phù hợp nhiệm vụ và năng lực thực tế; đổi mới cơ chế quản lý trong nội bộ công ty. Bàn giao lại cho địa phương diện tích đất và rừng vượt quá năng lực của công ty.

 

+ Đối với các công ty thua lỗ kéo dài không có khả năng khắc phụ, hoặc không cần giữ lại thì cho giải thể.

Đối với các công ty NLN cần nghiên cứu kỹ các phương án cổ phần hóa khi thực hiện (ở đây cần tính tới các đặc thù về quan hệ sở hữu - sử dụng tài sản đất, rừng giữa các chủ thể, địa vị kinh tế - xã hội và lợi ích của người lao động, của các hộ viên … ổn định và phát triển lâu dài). Đồng thời phải xóa bỏ triệt để hình thức “khoán, cho thuê” mà thực chất là “phát canh thu tô”. 

 

7). Xây dựng, hoàn thiện và phát triển các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.

 

Đẩy mạnh phát triển đa dạng, đa tầng các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh (ngang - dọc) trong nông nghiệp, hình thành các chuỗi sản xuất kinh doanh hiệu quả, bền vững. Khuyến khích phát triển các hình thức liên kết với các hộ nông dân (hay các HTX) để tiêu thụ nông sản có sự tham gia đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu và hỗ trợ các dịch vụ kỹ thuật, khoa học - công nghệ; có sự liên kết về lợi ích và chia sẻ rủi ro.

 

Quy hoạch, xây dựng và phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn - chất lượng cao gắn liền với hình thành các mô hình liên kết liên hoàn quá trình sản xuất kinh doanh ổn định, bền vững giữa các chủ thể “từ đồng ruộng tới thị trường”, trong đó có sự liên kết về quy trình sản xuất, kỹ thuật - công nghệ, về phát triển sản phẩm và thương hiệu, về trách nhiệm và lợi ích, và về chia sẻ rủi ro.

 

Tất cả các hình thức liên kết phải được pháp luật hóa để đảm bảo cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện. Trong tất các các mối liên kết, người nông dân thường ở vị trí yếu thế nhất và được hưởng lợi thấp nhất. Vì vậy cần có sự hỗ trợ, chia sẻ và đảm bảo lợi ích thỏa đáng - ổn định cho các hộ nông dân.

 

8). Hoàn thiện và phát triển một số yếu tố chủ yếu trong thể chế nông nghiệp (trước hết là đối với kinh tế hộ nông dân, các đơn vị sản xuất kinh doanh và các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh)

 

8.1. Về thể chế và chính sách ruộng đất :

Trước hết phải tiếp tục cụ thể hóa luật đất đai năm 2024, thực hiện nghiêm túc việc giao ruộng đất ổn định lâu dài cho các hộ nông dân (với thời hạn 50 - 70 năm và sau đó tiếp tục được sử dụng nếu có nhu cầu và sử dụng đúng quy định của luật pháp), tôn trọng và đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích của hộ nông dân; chế định rõ cơ sở pháp lý cho sự vận động của các quyền đó trong cơ chế thị trường; quy định rõ các điều kiện quy hoạch, thu hồi đất và sự đền bù thỏa đáng của Nhà nước. Đó chính là sự khẳng định trên thực tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, tạo cơ sở cho họ thực sự yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, tạo cơ sở cho việc vận động công khai, minh bạch, hiệu quả của quan hệ ruộng đất trong kinh tế thị trường, đồng thời tạo cơ sở cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hộ, cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn.

 

Cần thực hiện chính sách mở rộng “hạn điền” hợp lý trong mỗi giai đoạn phát triển để phát triển nông nghiệp hàng hóa, phù hợp với điều kiện đất đai của từng vùng và nhịp độ phát triển công nghiệp, dịch vụ và quá trình phi nông nghiệp hóa. Đồng thời ngăn chặn tình trạng tích tụ ruộng đất theo kiểu đầu cơ và sử dụng theo kiểu “phát canh thu tô”. Có các giải pháp phù hợp để khuyến khích đẩy mạnh quá trình “dồn điền đổi thửa”, sang nhượng ruộng đất, ủy thác canh tác, hình thành các “cánh đồng lớn” tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp hàng hóa, đồng thời là một tiền đề - điều kiện quan trọng để các hộ nông dân thực hiện “liên kết ngang” thành các HTX, “liên kết dọc” với các doanh nghiệp tạo thành các chuỗi sản xuất kinh doanh liên hoàn, hiệu quả, bền vững; tọa điều kiện rút bớt lao động ra khỏi nông nghiệp.

 

Xây dụng chiến lược “an ninh lương thực” quốc gia hợp lý, hiệu quả để quy hoạch và bảo vệ quỹ đất lúa phù hợp trong từng giai đoạn theo quan điểm phát huy lợi thế của tùng vùng, đồng thời tạo cơ chế để ruộng đất vận động theo hướng sử dụng cho giá trị và hiệu quả cao nhất.

 

 8.2. Đổi mới và hoàn thiện thể chế hoạt động nghiên cứu và ứng dụng - chuyển giao hoa học công nghệ trong nông nghiệp

 

 Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu để đẩy mạnh chuyển nền nông nghiệp sang phát triển theo chiều sâu, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao, chuyển đổi số trong nông nghiệp, phát triển các phương thức và mô hình hiện đại như kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế sinh thái... Điều quan trọng là phải chế định rõ cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp, cơ chế liên kết có hiệu quả giữa đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết trong các ngành hàng và sản phẩm xuất khẩu chủ lực, mũi nhọn. Cơ chế này có thể được thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu của Nhà nước, cơ chế liên kết tự nguyện giữa các đơn vị tham gia. Điều quan trọng là phải xây dựng được cơ chế liên kết về trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ, lợi ích, và chia sẻ rủi ro giữa các bên tham gia; đảm bảo lợi ích xứng đáng cho các nhà khoa học, các cơ sở đi đầu trong phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp.  

 

8.3.Thúc đẩy phát triển và hoàn thiện thể chế thị trường nông nghiệp - nông thôn gắn với thị trường trong cả nước và hội nhập quốc tế

 

Việt Nam hiện là một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về nhiều loại sản phẩm nông sản; đồng thời có thị trường nội địa với hơn 100 triệu dân. Do đó, Phát triển thị trường nông thôn, gắn với thị trường cả nước và kết nối với thị trường quốc tế là một đòi hỏi bức thiết. Thị trường nông thôn là rất quan trọng, nhất là đối với đa số các hộ đang còn ở trình độ tự cấp tự túc, sản xuất hàng hóa nhỏ. Phát triển thị trường sẽ kích thích các hộ từng bước đi vào sản xuất hàng hóa. Đối với các loại nông sản đã có quy mô sản xuất hàng hóa tập trung tương đối lớn cần tổ chức hệ thống thị trường liên hoàn trong nước và quốc tế, gắn sản xuất của hộ nông dân liên kết với chế biến và tiêu thụ. Phát triển thị trường hàng hóa nông sản chất lượng cao sẽ thúc đẩy kinh tế hộ nông dân và nền nông nghiệp chuyển sang phát triển theo chiều sâu; phải lấy nhu cầu của thị trường làm định hướng quy hoạch phát triển sản xuất kinh doanh, tái cơ cấu nền nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả. Hợp tác và hội nhập quốc tế hiện nay cho thấy yêu cầu về chất lượng, mẫu mã sản phầm, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc, sử dụng lao động, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, chỉ số phát thải…đã và đang trở thành yêu cầu và giá trị chung của nhân loại. Điều này đặt ra nhà nước phải khẩn trương xây dựng và hoàn thiện đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách về phát triển nông nghiệp; nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính cạnh tranh và sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp trong giai đoạn mới.

 

Điều rất quan trọng là phải hình thành đồng bộ thị trường vốn, lao động, TLSX, ruộng đất, nông sản, dịch vụ khoa học - công nghệ… có sự quản lý, điều tiết và định hướng của Nhà nước, làm cơ sở cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa bền vững. Trong quá trình hội nhập quốc tế, một mặt phải tuân thủ các quy định quốc tế, mặt khác Nhà nước phải thực hiện các chính sách và giải pháp phù hợp với thông lệ quốc tế để bảo vệ nền sản xuất nông nghiệp nước ta. 

 

8.4  Phát triển hệ thống tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn

 

Phải phát triển đa dạng các hình thức và tổ chức tín dụng ở nông thôn để tăng quy mô vốn huy động cũng như cho vay; đồng thời tránh tình trạng độc quyền, ngăn chặn tình trạng cho vay nặng lãi. Cần có những chính sách tín dụng, thuế ưu đãi để hỗ trợ thúc đẩy phát triển các loại doanh nghiệp phục vụ cho phát triển nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Cần xây dựng cơ chế tài chính - tín dụng đóng vai trò liên kết liên kết giữa các chủ thể (nhất là giữa các doanh nghiệp với nhau và các doanh nghiệp với các hộ nông dân) để hình thành các chuỗi liên kết sản xuất kinh doanh hiệu quả và bền vững; trong đó gắn kết giữa các chủ thể cả về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro.

 

Cần tổng kết, rút kinh nghiệm để thúc đẩy phát triển có hiệu quả các hình thức bảo hiểm sản xuất nông nghiệp, trước hết là đối với các sản phẩm xuất khẩu, có quy mô lớn. 

 

8.5. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao trình độ tư duy kinh tế hàng hóa và năng lực làm chủ sản xuất kinh doanh của các hộ nông dân, cán bộ quản lý HTX và đội ngũ doanh nhân.

 

 Đây là nội dung rất quan trọng, vì các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp đóng vai trò quyết định trực tiếp đổi với phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững, hội nhập quốc tế. Cần xây dựng các cơ chế chính sách và giải pháp đào tạo phù hợp, làm cho nghề nông từng bước thoát khỏi tình trạng “kinh nghiệm thuần túy” “không cần đào tạo”. Đã đến lúc phải hình thành các trường, các chương trình đào tạo (qua một hệ thống trường lớp thích hợp của nhà nước và của các hội, hiệp hội ngành nghề…) chuyên về những kiến thức, kỹ năng cần thiết để hình thành đội ngũ các chủ hộ nông dân, các cán bộ quản lý HTX, chủ các doanh nghiệp nông nghiệp được đào tạo có văn hóa, có trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm thương trường, có vị trí xã hội không kém gì các ngành nghề khác.

 

8.6. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phi nông nghiệp hóa ở nông thôn

 

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, thúc đẩy quá trình phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, dịch vụ ở nông thôn (giao thông vận tải, chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, lưu thông hàng hóa…).

Bằng nhiều giải pháp, nhiều nguồn (đầu tư của Nhà nước, của các địa phương, của các thành phần kinh tế, của dân) đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn, trước hết là giao thông, điện, thông tin liên lạc… phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn. Chính quá trình này lại tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa hiện đại.

 

8.7. Về nâng cao và tăng cường vai trò của Nhà nước

 

Kinh nghiệm của các nước có nền nông nghiệp phát triển cao trên thế giới đã chỉ rõ, vai trò của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp có những đặc điểm khác với vai trò của nhà nước trong phát triển công nghiệp và dịch vụ. Điều này được thể hiện ở cả vai trò quản lý và vai trò “đối tác phát triển” của nhà nước trong phát triển nông nghiệp. Nhà nước đóng vai trò then chốt và có tính quyết định trong việc đổi mới, hoàn thiện và thực thi thể chế phát triển nông nghiệp, tác động trực tiếp đến sự phát triển của các chủ thể khác. Trong nghiên cứu này sẽ không đề cập toàn diện các nội dung liên quan đến đổi mới và hoàn thiện vai trò của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp; ở đây chủ yếu đề cập đến việc tăng cường vai trò của Nhà nước theo giác độ đối với sự phát triển của kinh tế hộ nông dân và các đơn vị sản xuất kinh doanh khác cùng với quá trình phát triển các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh. Ở các phần định hướng phát triển nêu trên cũng đã đề cập đến vai trò của nhà nước trong việc hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan đến từng chủ thể và các nội dung liên quan. Ở đây xin nêu khái quát một số nội dung chung như sau :

 

-  Nhà nước cần xây dựng đề án và chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả quá trình chuyển đổi thể chế phát triển nông nghiệp theo chiều rộng là chủ yếu sang thể chế phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, tái cơ cấu nền nông nghiệp theo hướng này, để thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp chất lượng cao, hiệu quả cao, bền vững, dựa vào ứng dụng KH - CN tiên tiến. Đây sẽ là định hướng cơ bản để phát triển kinh tế hộ nông dân và các doanh nghiệp nông nghiệp trong giai đoạn mới.

 

 -  Theo yêu cầu của phát triển nền nông nghiệp theo chiều sâu, Nhà nước cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách phù hợp (về sở hữu trí tuệ, quyền tài sản, đất đai, về đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, về quyền sản xuất kinh doanh, bảo hộ sản xuất kinh doanh, phát triển và ứng dụng KH - CN, xúc tiến thương mại, cơ chế chính sách liên kết sản xuất kinh doanh, xây dựng và triển khai thực thi các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chất lượng sản phẩm, phát triển thương hiệu sản phẩm nông nghiệp, bảo vệ tài nguyên và môi trường …) làm nền tảng pháp lý cho sự hoạt động và phát triển của các chủ thể: Kinh tế hộ nông dân, HTX, các doanh nghiệp nông nghiệp, các đơn vị cung ứng dịch vụ, phát triển KH - CN và đào tạo nhân lực…cho phát triển nông nghiệp theo chiều sâu.

 

 - Trên cơ sở nhu cầu của thị trường xây dựng chiến lược và quy hoạch các vùng phát triển sản xuất nông nghiệp hành hóa mang tính dài hạn, phù hợp với điều kiện của từng vùng;  Nhà nước tăng đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho nông dân, nông nghiệp, nông thôn, nhất là đối với các vùng sản xuất hàng hóa lớn, để hỗ trợ thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp hàng hoá;  Đổi mới, phát triển, nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống khuyến nông theo hướng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, nhất là đối với các hộ nông dân và các doanh nghiệp đi vào sản xuất hàng hóa nông sản chất lượng cao.

 

-  Hợp lý hóa lại hệ thống các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học - công nghệ về nông nghiệp, các trung tâm thực nghiệm phục vụ cho phát triển nông nghiệp - nông thôn theo hướng gắn hữu cơ hơn nữa với các doanh nghiệp, với các hộ nông dân, nhất là theo các chuỗi sản xuất, theo từng sản phẩm chủ lực. Xây dựng và ban hành cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển giao tri thức và công nghệ mới cho các doanh nghiệp và các hộ nông dân.

 

 - Nâng cao năng lực điều hành và quản lý thực thi chính sách của cơ quan nhà nước ở các cấp; phân định rõ quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp và doanh nghiệp, khắc phục những bất cập, yếu kém hiện nay. Tổ chức các cơ quan giám sát (có sự tham gia của người dân, các chủ thể liên quan và các tổ chức xã hội nghề nghiệp) về tính minh bạch, rõ ràng và đúng luật pháp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trong kinh vực sản xuất nông, lâm, thuỷ sản; xử lý kịp thời các hành vi trái luật, cạnh tranh không lành mạnh, những liên kết phi pháp và kinh doanh một cách bất bình đẳng. Đảm bảo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp.

 

Để góp phần hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới, xin nêu một số đề xuất, kiến nghị cụ thể sau:

 

i). Cần xác định rõ hơn địa vị pháp lý về kinh tế - xã hội của gần 10 triệu hộ nông dân với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ - cơ bản ở nông thôn; trên cơ sở điều tra làm rõ sự phân tầng về trình độ kinh tế hộ nông dân của từng vùng để có các chính sách phát triển phù hợp.

 

 ii). Nhà nước cần có Chương trình phát triển HTX và chỉ đạo triển khai phù hợp với trình độ kinh tế hộ nông dân và đặc điểm của từng vùng, từng lĩnh vực.

 

 iii). Nhà nước cần có Đề án tổng thể về chuyển đổi mô hình tăng trưởng nền nông nghiệp sang phát triển theo chiều sâu với các bước đi tích cực và thích hợp.

 

iv). Nhà nước cần hoàn thiện thể chế hoạt động khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Có Đề án về phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao đối với các lĩnh vực xuất khẩu, quy mô hàng hóa lớn. 

 

v). Nhà nước cần ban hành hệ thống đồng bộ cơ chế chính sách khuyến khích phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp trong nông nghiệp và nông thôn, nhất là các doanh nghiệp chế biến - tiêu thụ nông sản và cung ứng dịch vụ “đầu vào - đầu ra” đối với các lĩnh vực, vùng sản xuất hàng hóa lớn. Xây dựng đồng bộ các chính sách khuyến khích, thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp khoa học công nghệ trong nông nghiệp gắn với hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao.

 

vi). Nhà nước cần có Đề án với các cơ chế chính sách kèm theo để chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ hình thành và phát triển các mô hình, các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh (nhất là các hình thức có sự liên kết về trách nhiệm, lợi ích và chia sẻ về rủi ro) giữa các hộ nông dân sản xuất hàng hóa với các chủ thể khác, theo các chuỗi sản xuất hay chuỗi giá trị, nhất là đối với các nông sản xuất khẩu.

 

vii). Nhà nước cần có Đề án và các cơ chế chính sách kèm theo về thúc đẩy lưu chuyển ruộng đất có hiệu quả ngày càng cao hơn cả về kinh tế và xã hội theo hướng phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, gắn với quá trình phát triển - phân hóa - phân tầng kinh tế hộ nông dân phù hợp với điều kiện của từng vùng (trước hết là đối với vùng Đồng bằng Sông Hồng và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long) trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và phi nông nghiệp hóa.

 

viii). Cải tổ - đổi mới hệ thống đào tạo nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp. Cùng với đổi mới và hiện đại hóa nội dung chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn của từng lĩnh vực, cần có cơ chế chính sách để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, với thương mại hóa kết quả kết quả hoạt động khoa học công nghệ trong các chuỗi sản xuất kinh doanh. Đồng thời Nhà nước cần có chủ trương và hỗ trợ phát triển các cơ sở đào tạo các chủ nông hộ, các cán bộ quản lý HTX, thông qua hệ thống các cơ sở đào tạo của nhà nước, hoặc hình thành trong các tổ chức Hiệp hội nghề nghiệp.

 

 ix). Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường hàng hóa nông sản (cả thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu) theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế, trước hết là đối với các hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa có khối lượng lớn. Dự báo về quy mô thị trường sẽ là cơ sở quan trọng để thực hiện tái cơ cấu nền nông nghiệp, tái cơ cấu đầu tư và điều tiết quá trình sản xuất kinh doanh hiệu quả - bền vững trong nông nghiệp.

(Hết)

PGS.TS Trần Quốc Toản

                                            Chuyên gia cao cấp

 



 [1] Hiện nay, cả nước còn gần 260 công ty nông, lâm nghiệp, quản lý gần 1,86 triệu ha, chiếm 10% đất nông nghiệp cả nước. Tiến độ sắp xếp, đổi mới còn chậm, còn nhiều vướng mắc, đến nay vẫn còn 95 công ty chưa hoàn thành sắp xếp, đổi mới (chiếm 37%) tại 24 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 02 Tổng công ty. Còn một số công ty nông, lâm nghiệp sau sắp xếp, đổi mới, hoạt động chưa hiệu quả, chưa đạt mục tiêu ban đầu, phải tiếp tục sắp xếp lại; còn nhiều điểm nghẽn tác động tiêu cực tới kết quả sắp xếp, đổi mới và phát triển các công ty nông, lâm nghiệp chưa được xử lý triệt để, đặc biệt là vấn đề liên quan xử lý đất đai…

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết