Thứ Bảy, ngày 14 tháng 06 năm 2025

Tư tưởng gắn kết cộng đồng và nhân cách con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Ngày phát hành: 08/06/2025 Lượt xem 481

                                                         

Ở nước ta, những nghiên cứu về lịch sử dân tộc được ghi chép công phu trong những bộ Quốc sử nổi tiếng, đã để lại cho các thế hệ đi sau những hiểu biết sâu sắc về dân tộc Việt Nam, làm rõ được những đóng góp của tổ tiên và các bậc tiền bối đối với công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, góp phần vào sự tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam

Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, ngoài việc ghi chép về những biến đổi của các triều đại lịch sử, chúng ta vẫn chưa có được những sự quan tâm đúng mức đến khía cạnh lịch sử của văn hóa xã hội Việt nam, lịch sử những hoạt động lao động sáng tạo về văn hóa vật chất, tinh thần và tạo lên những đặc trưng của về cuộc sống, nhân cách con người Việt Nam. Cho đến nay chúng ta vẫn chưa có được một bộ sử nào nghiên cứu, phân tích chuyên sâu về chính lịch sử của nền văn minh Việt Nam.

 

 

1. Tư tưởng đoàn kết cộng đồng là đặc trưng cơ bản của hệ giá trị Việt Nam và “nền văn minh Việt nam” làm hình thành nhân cách con người trong xã hội truyền thống

 

Những hạn chế và những khoảng trống trong nghiên cứu lịch sử văn minh Việt Nam đã khiến chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ hiện đại chưa có điều kiện để hiểu sâu sắc và đầy đủ hơn về những đặc điểm cốt lõi  của nền văn minh Việt Nam trong đó nổi bật là tinh thần gắn kết cộng đồng trong lịch sử dân tộc.

 

Chẳng hạn như: những điều kiện về tự nhiên đất đai, sông núi, khí hậu đã tác động tới nhận thức, tư duy, tình cảm, lối sống của người Việt Nam như thế nào. Những yếu tố cơ bản nào tạo thành nền móng cơ bản cho nền văn minh Việt Nam, đặc biệt là sự tồn tại của nền văn minh cộng đồng, các giá trị về cuộc sống gia đình và sự tôn trọng người phụ nữ, người mẹ, tạo thành sự đoàn kết tương thân tương ái, gắn kết giữa con người với con người Việt nam xuyên suốt các quá trình lịch sử..

 

Sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt Sử Ký Tiền Biên (Ngoại ký quyển 1 tờ 9b) đã từng nói về những đặc trưng cơ bản về nền văn minh Việt nam với những câu viết thực sự giản dị nhưng lại vô cùng sâu sắc như sau: "Nước Nam từ đời Lạc Hồng vua dân cùng cày, cha con cùng tắm, người và giống vật cùng ở nhà sàn, cấy ruộng lạc điền theo nước triều lên xuống. Dân sống ở thời bấy giờ cùng nhau vui vẻ chơi đùa ở trong cõi đất không rét, không nóng... Có thể gọi là đời thì chí đức, nước thì cực lạc. Vua thì yên vui như Phật. Dân thì vẽ mình, làm ăn, không phiền nhiễu gì đến sưu thuế, không việc gì phải canh phòng. Vua dân thân nhau, dẫu vài nghìn năm cũng không thay đổi" [1].

 

Mọi người đều biết, hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt, sự khó khăn trong sản xuất lúa nước, sự đấu tranh liên tục để tồn tại được với những thách thức của nạn ngoại xâm đã không cho phép người Việt Nam sống riêng biệt như những cá nhân và gia đình hoàn toàn đơn lẻ, cũng như sống trong các trang trại biệt lập như ở nhiều quốc gia khác.

 

Lật qua vài trang sử cũ từ các thời Lê, Nguyễn, chúng ta thấy dường như năm nào cũng ghi lại những tai họa to lớn của thiên nhiên đối với con người, không hạn hán, mất mùa thì cũng bão lụt, đê vỡ, sâu bệnh tràn lan. Người Việt Nam sinh ra, lớn lên rồi mất đi trong môi trường cộng đồng, trong một cuộc sống gắn liền với những vui buồn hạnh phúc, đắng cay của cộng đồng. Bởi vậy, việc duy trì mối liên kết cộng đồng cũng chính là sự duy trì cuộc sống của bản thân, gia đình, họ tộc và cũng là của chính cộng đồng

 

Chế độ công điền, công thổ với những kiểu biến dạng khác nhau của nó, kéo dài trong suốt lịch sử lao động sản xuất ở Việt Nam, đã làm giảm bớt phần nào những sự đối kháng xã hội, là cơ sở cho những quan hệ nhân ái giữa con người với con người. Khác với nhiều dân tộc khác, trong nấc thang giá trị xã hội, những chuẩn mực về đức hy sinh vì tổ quốc, quê hương, sự trung thành với toàn thể cộng đồng bao giờ cũng được đặt lên vị trí cao nhất.

 

Kế tiếp lẫn nhau trong bao nhiêu thế hệ người Việt Nam, tinh thần quên thân vì nghĩa cả, hy sinh thân mình vì tập thể cộng đồng, được duy trì và nuôi dưỡng thấm vào máu của mọi người, tạo ra những quy tắc đạo đức và điều chỉnh các hành vi xã hội. Nhờ quan điểm sống, tình yêu quê hương, đất nước, đồng bào sâu sắc ấy, mà dân tộc Việt đã duy trì được một sự hài hòa trong các quan hệ xã hội, làm hạn chế phần nào những sự phát triển của tính vị kỷ, tạo ra được một sức mạnh chung để sinh tồn và chiến thắng ngoại xâm.

 

Đối với người Việt, cuộc sống cộng đồng là hết sức quan trọng, cộng đồng chính là nơi để một cá nhân biểu hiện những phẩm chất của mình. Lối sống cộng đồng, mặc dù trong suốt chiều dài lịch sử có thể tạo ra nhiều hạn chế như tư tưởng bình quân, sự kém năng động trong tư duy kinh tế, tâm lý sản xuất tự cấp tự túc, thái độ coi thường công nghệ... nhưng lại chính là cơ sở quan trọng để duy trì sự thống nhất chung, là linh hồn cho sự đoàn kết toàn dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước.

 

Người Việt từ khi sinh ra cho tới khi nhắm mắt xuôi tay không được phép quên đi những trách nhiệm chung đối với cộng đồng. Những chuẩn mực về một xã hội đoàn kết và tương thân tương ái được đưa lên hàng cao nhất trong hệ giá trị truyền thống, trở thành một “tín ngưỡng”, điều mà tất cả các loại kẻ thù từ bên ngoài đều buộc phải đối đầu trước hết trong tham vọng khuất phục người Việt.

 

Quan điểm chung của các triều đại phong kiến Việt nam nói chung đều đề cao tính đoàn kết dân tộc, tôn trọng các mối quan hệ cộng đồng, làng xã, lấy tinh thần đoàn kết làm chỗ dựa cho sự hưng vong của tổ quốc. Ngay sau khi chuyển kinh đô về Thăng Long, mặc dù còn trăm nghìn mối lo lắng, kho binh nhà nước cạn kiệt, nhưng vua Lý Thái Tổ vẫn ban chiếu tha tô thuế trong ba năm liền, khuyến khích người dân khai hoang, mở ruộng. Nhà nước đã khuyến khích sự liên kết, gắn bó trong các cộng đồng dân cư, tạo nên tinh thần tập thể, đoàn kết, tình yêu với quê hương đất nước.

 

Người Việt có truyền thống làm gì cũng phải có bạn có bè, “buôn bán có hội có thuyền”. Bởi lẽ, người ta phải sống và gắn bó với cộng đồng, với môi trường xã hội xung quanh suốt cả cuộc đời. “Sống ở làng, sang ở nước” đó là nguyên tắc chung. Người trẻ lớn lên trong cộng đồng quê hương, học hành, lao động, kiếm sống, chỉ khi đỗ đạt, có danh vọng địa vị, được nhà nước bổ dụng chức vị thì mới rời khỏi quê hương. Khi già cả, chân chậm, mắt mờ, không còn sức lực đóng góp gì nữa thì lại về làng, về lại cái cộng đồng ban đầu mà mình đã sinh ra và lớn lên

 

Đạo đức cao nhất trong nấc thang giá trị của con người là làm tròn bổn phận của mình trước cộng đồng, hy sinh sức lực, tiền của và thậm chí cả tính mạng vì cuộc sống của cộng đồng. Những công việc chung của làng, của nước bao giờ cũng phải được coi là quan trọng và về nguyên tắc nó phải được đặt lên trên việc nhà, việc cá nhân. Mỗi thành viên trong xã hội đều phải có trách nhiệm chung trong việc bảo vệ  đường xá, cầu cống, đê điều, quản lý an ninh trật tự, tuần tra canh gác, ngăn chặn các tệ nạn xã hội, đóng góp xây dựng đình chùa, trường học, công trình văn hóa...

 

Những nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước về xã hội Việt Nam truyền thống đều chỉ ra rằng cho đến tận thế kỷ XX, ruộng đất cơ bản ở Việt Nam vẫn nằm trong tay nhà nước và các cộng đồng làng xã, ruộng tư cũng tồn tại nhưng không nhiều. Trong tác phẩm nổi tiếng: “Người nông dân Việt Nam ở châu thổ Bắc Kỳ”, học giả người Pháp Piere Gourou đã phân tích khá sâu sắc cơ cấu xã hội Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc và tỏ ra hết sức ngạc nhiên về sức sống của các cộng đồng làng xã. Ông cho rằng mọi đặc trưng được gọi là truyền thống của người Việt, cũng như những sự trì trệ bảo thủ của xã hội Việt Nam cũng đều bắt nguồn từ cái cộng đồng làng xã này.[2]

 

Như vậy, có thể nói, cơ cấu cơ bản của xã hội Việt Nam trước đây là cơ cấu xã hội mà trong đó hoạt động của các cộng đồng làng xã là nền tảng cơ bản. Nó tồn tại trong suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam. Bởi vậy nếu xem xét sự tồn tại xã hội truyền thống, chúng ta có thể thấy cơ cấu xã hội gắn liền với sản xuất nông nghiệp, dựa trên nền tảng của chế độ công điền công thổ, với việc tự quản cao của các cộng đồng làng xã, đã tồn tại một cách khá vững chắc. Nó vượt qua mọi bão giông của những thay đổi các chính thể và triều đại, từ các cuộc chiến tranh và li tán để làm nên những đặc trưng của xã hội Việt Nam, văn hoá Việt Nam, các chuẩn mực và giá trị sống của con người Việt nam.

 

Cũng chính Piere trong khi nhấn mạnh rằng hiếm có một dân tộc nào lại duy trì được một sự đoàn kết cộng đồng chặt chẽ như dân tộc Việt Nam, cũng đã cho rằng con người ở đây đã “biểu hiện bản thân mình, năng lực, phẩm chất đạo đức của mình không phải từ những đặc tính cá nhân mà thông qua các quan hệ xã hội, cộng đồng. Không ở đâu khác mà trong chính những đóng góp của cá nhân vào các mối quan hệ cộng đồng mà cá nhân mới có thể biểu tỏ được phẩm chất của mình”[3]

 

Theo phân tích của ông, chính các hoạt động của cộng đồng mới là nơi quan trọng nhất để đo lường các giá trị của cá nhân. "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp", câu ngạn ngữ quen thuộc đó cũng nói lên phần nào tầm quan trọng của việc khẳng định vị thế của một cá nhân đối với hoạt động cộng đồng. Trong trường hợp nếu có mâu thuẫn quyền lợi của cá nhân với quyền lợi của cộng đồng thì về nguyên tắc, cá nhân phải chịu sự hy sinh vì quyền lợi chung. Nhờ có quan niệm sống như trên mà người Việt đã duy trì được một sự hài hòa trong các quan hệ xã hội, làm hạn chế phần nào sự phát triển của tính vị kỷ, để tạo ra được sức mạnh chung cho sự sinh tồn và Phát triển chung của dân tộc.

 

2. Bảo quốc và hộ dân là nguyên tắc quản trị cao nhất của nhà nước đối với các cộng đồng

 

Trong xã hội Việt Nam truyền thống, việc quan tâm tới toàn bộ người dân trong cộng đồng là một trong những chuẩn mực và hệ giá trị cao nhất đối với người lãnh đạo đất nước. “Bảo quốc” (giữ nước) và “hộ dân” (giúp dân) là hai nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà cầm quyền. Người Việt xưa cho rằng, nếu không làm tròn hai nhiệm vụ này thì sự tồn tại của một triều đại cũng chẳng có ý nghĩa gì.

 

Ở Đền Trần, Nam Định, nơi thờ phụng các vị vua nổi tiếng nhà Trần, ngay tại cổng Ngũ Môn còn ghi khắc đôi câu đối :

 

Bảo quốc hộ dân, ngoại tặc chí kim do bạch phát

 

Nhân hoà đức trị, nội bang tự cổ tạ hoàng ân

 

(Giữ nước, giúp dân, đến nay giặc ngoại xâm đầu còn bạc trắng vì khiếp sợ

Lấy đức trị nước, từ xưa dân trong nước khắp nơi đều tạ ơn vua).

 

 Tư tưởng “lấy dân làm gốc”, chăm lo tới đời sống của người dân luôn là tư tưởng chính thống, chủ đạo, là quy chuẩn quan trọng nhất, là “sách lược ngàn năm” dựng nước và giữ nước của dân tộc, là cẩm nang điều hành đất nước đối với mọi ông vua, mọi triều đại ở Việt Nam. Điều này cũng đã được ghi nhớ và đúc kết lại thành một nguyên tắc cai quản đất nước :

 

Dân vi bang bản thiên niên sách

 

Công tại nhân tâm vạn cổ trường

 

(Lấy dân làm gốc, đó là sách lược ngàn năm

Công lao ở lòng người sẽ  ghi tạc muôn thuở)

                                                             ( câu đối ở Đền Trần- Nam Định)

 

Trần Hưng Đạo đề cao tư tưởng “khoan sức cho dân”, để lấy sức dân làm thế mạnh của nước. Nguyễn Trãi kêu gọi phải lấy dân làm gốc, nêu cao tư tưởng “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, có nghĩa rằng người dân mới là quan trọng nhất đối với một quốc gia.

 

Những triều đại được coi là thịnh trị là triều đại mà mọi người dân đều được sung túc, thóc gạo đầy bồ, dân tình khấn khởi, “của rơi ngoài đường không ai thèm nhặt”.

 

Những triều đại bị coi là suy đồi là những triều đại không chăm lo được cho dân, đất nước nghèo đói, mất mùa, quan lại tham nhũng. Những nhà lãnh đạo không quan tâm được tới dân, tàn ác với dân bị gọi là loại “vua quỷ” ( Lê Uy Mục), ăn chơi trác táng trên mồ hôi xương máu của dân là “vua lợn” (Lê Tương Dực)…

 

Chính sách chung của nhà nước, tuỳ theo mỗi giai đoạn lịch sử, dù là quản lý theo kiểu đức trị, pháp trị, nhân trị hay văn trị… thì cũng đều phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản của “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, tức là phù hợp với sự phát triển của thời đại, phù hợp với hoàn cảnh đất đai thiên nhiên và sau cùng phù hợp với lòng dân.

 

Quan điểm “lấy dân làm gốc”, được ghi nhận rõ ràng nhất là ngay từ triều Lý. Lấy dân làm gốc được ghi nhận trong những văn bản pháp luật chung. Trong Bộ Hình luật hình đầu tiên của nước ta thời đó mà sau này được biết đến nhiều với cái tên là “Ban sách hình thư” công bố năm 1042, vai trò chăm lo đến đời sống của người dân trăm họ đã được khẳng định rõ. Sách “Đại Việt sử kí toàn thư” đã ghi rõ “Trước kia có kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình, thường câu nệ luật văn, cốt làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư sửa định luật lệnh châm chước cho hợp, chia ra môn loại, biên ra điều khoản, làm sách hình luật của một triều đại để cho người xem dễ hiểu, lời văn rõ ràng, không mập mờ, tùy tiện. Sách làm xong xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện”.[4]

 

Cũng đọc trong Đại Việt sử ký toàn thư chúng ta thấy quan điểm chung của nhà nước lúc nào cũng phải nhấn mạnh “chỉnh đốn pháp luật sao cho giảm bớt nỗi khổ của dân, xóa bớt bất công trong thiên hạ”. Vua Nhà Lý nhiều lúc còn tỏ ra thương xót cho cả những kẻ tù tội đôi lúc chỉ vì miếng cơm manh áo, lại chưa được giáo hóa mà đã chót lầm lỡ và yêu cầu thuộc hạ phải gửi áo ấm cho họ trong mùa đông rét mướt.

 

Nhân có hoà thì nước mới thái bình, chính sách có đáp ứng được với tâm tư, nguyện vọng của người dân thì dân mới phấn khởi, lòng dân mới yên, đất nước mới ổn định và phát triển. Bởi vậy, mỗi khi triều đình ban hành các chính sách lớn, thường vẫn cắt cử các quan viên đi tới tận từng thôn xóm, làng mạc để quan sát, nghe ngóng dân tình, hỏi ý kiến các vị bô lão và người dân thu thập ý kiến trước khi ban hành. Trong quá trình thực thi một chính sách cũng như vậy, nếu chính sách nào không hợp lòng dân sẽ lập tức được tu sửa, điều chỉnh thậm chí bãi bỏ.

 

Ở đền “Nam Hải Thần Vương”, tai Đồ Sơn Hải Phòng có khắc ghi một câu đối, giống như là một tuyên ngôn cho người lãnh đạo: Tâm an quốc thịnh, tâm trị quốc, Quốc thịnh tâm an, quốc bình tâm” (lòng dân có yên thì đất nước mới thịnh vượng, vậy nên phải lấy cái tâm mà trị nước, Đất nước có thịnh vượng thì lòng dân mới yên ổn, do vậy phải tạo sự phồn thịnh của nước để mà an dân)

 

Trong những thời điểm đất nước lâm nguy, cần đến những quyết sách lớn, Nhà nước bao giờ cũng phải thăm dò, tìm hiểu ý kiến của người dân. Để tránh thói độc đoán, quan liêu, xa dân, nhiều ông vua còn thường xuyên “vi hành”, mặc giả lái buôn, nho sĩ, văn nhân, thâm nhập vào đời sống xã hội.

 

Vua Trần Nhân Tông có lần vi hành tận một làng xa xôi - làng Mõ, Kiến Thụy Hải Phòng đã để mặc cho dân binh trong làng bắt trói, dẫn ra giữa sân đình. Đến khi mọi người nhận ra, quỳ rạp dưới chân, ông vẫn không giận mà còn khen về tinh thần cảnh giác. Lịch sử cũng còn ghi rõ về nội dung hội nghị Diên Hồng nổi tiếng, lấy ý kiến của các vị bô lão trong việc chống giặc Nguyên Mông. Dựa vào dân, quan tâm đến cuộc sống của người dân là bí quyết để gây dựng mối đoàn kết toàn dân.

 

Trong các sách vở còn lưu lại đến nay, trách nhiệm về mặt pháp lý và đạo đức của người cầm quyền phải chăm lo cho đời sống của người dân luôn luôn được khẳng định. Bên cạnh việc quan tâm chung đến đời sống của mọi cư dân, trong xã hội, luật Hồng Đức thời Lê còn khẳng định có bốn loại người mà chính quyền địa phương và cộng đồng làng xã phải có trách nhiệm đảm bảo cuộc sống cho họ. Đó là người già không nơi nương tựa, phụ nữ cô độc, trẻ mồ côi, người tàn tật. Luật còn khẳng định rằng, một viên tri huyện có thể sẽ bị bãi nhiệm, thậm chí bị phạt tội nặng nếu trong địa hạt mà mình cai trị đã để cho dân tình đói khổ, bị lũ lụt, phải tha phương cầu thực, hoặc để phong hoá suy đồi…Cứu trợ xã hội, thời nào cũng vậy, đều được coi là chính sách nhất quán, là một nhiệm vụ của chính quyền Nhà nước và các cộng đồng làng xã. Nhà nước thành lập các kho thóc nhằm cứu giúp các vùng thiên tai, lũ lụt, hạn hán, mất mùa.

 

Dựa trên nền tảng phổ biến của chế độ công điền công thổ, duy trì các quan hệ cộng đồng làng xã, ở xã hội Việt Nam, sự phân chia đẳng cấp không quyết liệt như ở các xã hội phương Tây thời Trung cổ, Ấn Độ hoặc nhiều nơi khác.

 

Ở xã hội Việt Nam truyền thống, người ta không quá khe khắt trong sự phân biệt địa vị xã hội. Việc đánh giá con người thường thông qua những đóng góp cho cộng đồng, thông qua học vấn và tri thức. Người bình dân không quá khó khăn khi kết hôn với con cái nhà quý tộc, quan lại như ở nhiều nước phong kiến khác.

 

Nếu ở những nước có sự phân biệt đẳng cấp quyết liệt thì không thể có hiện tượng một anh học trò nghèo như Nguyễn Phi Khanh lại kết hôn được với con gái của một người quý tộc như Trần Nguyên Đán, vị đại tư đồ, thông minh nhất mực, quý tộc nhất mực của triều Trần. Mà nếu chẳng có mối lương duyên rất chênh lệch về đẳng cấp này của người Việt truyền thống thì chúng ta cũng chẳng có được sự ra đời của một thiên tài xuất chúng, một danh nhân Thế giới là Nguyễn Trãi…

Trong bầu không khí nhân văn đó, gia đình và phụ nữ cũng được tôn trọng. Theo luật triều Lê và nhiều lệ làng truyền thống, người phụ nữ có cả quyền được lựa chọn người bạn đời, được quyền li dị khi người chồng vô trách nhiệm, được quyền thừa kế tài sản…

 

Xã hội đã tạo cơ hội phấn đấu cho mọi loại người, kể cả nhóm bình dân. Mọi người đều có thể trở thành quý tộc, quan lại, thông qua việc học hành, khoa cử. Hiếm có nơi nào trên thế giới mà một người thuộc tầng lớp bình dân, thậm chí nghèo khổ, nếu học hành phấn đấu rèn luyện thành tài là có thể trưởng thành và đứng vào hàng ngũ những quan lại, thậm chí quan lại cao cấp nhất trong điều hành đất nước.

 

Trong lịch sử của mình, có thể nói, dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc đã có được một đội ngũ đông đảo nhất những trí thức lớn xuất thân từ tầng lớp bình dân. Chúng ta có rất nhiều tể tướng, thượng thư xuất thân chỉ là những anh học trò nghèo, những kẻ chăn trâu, cắt cỏ, học hành dưới những ngọn đèn vốn chỉ là những con đom đóm…

 

3. Sự phân giải và tái tạo cơ cấu xã hội nhằm kế thừa và phát huy những mặt tốt đẹp của văn minh cộng đồng truyền thống phù hợp với những đòi hỏi của sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

 

Không còn nghi ngờ gì nữa, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà chúng ta tiến hành trong nhiều năm qua về thực chất chính là cuộc cách mạng về cơ cấu xã hội, trong đó, những cơ sở xã hội cũ không còn phù hợp sẽ bị thay thế bởi một cơ sở xã hội mới.

 

Có thể nói công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam sẽ không chỉ là sự thay đổi cơ chế quản lý xã hội mà còn là một quá trình phân giải và tái tạo cơ cấu xã hội liên tục, xác đinh những chuẩn mực và giá trị tốt đẹp, hướng tới sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Về điều này,Tổng bí thư Tô Lâm trong bài viết với tựa đề "Động lực mới cho phát triển kinh tế" đã khẳng định rằng: “Trong lộ trình biến đổi xã hội, biến đổi về cơ cấu kinh tế kéo theo biến đổi về cơ cấu xã hội và biến đổi hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội”[5].

 

 

Việc nghiên cứu cơ cấu xã hội của xã hội Việt Nam hiện nay đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại cơ cấu xã hội Việt Nam một cách hệ thống và toàn diện trên hai khía cạnh. Thứ nhất, phân tích, làm rõ một cơ cấu xã hội mang nặng những nét nông nghiệp truyền thống đang giải thể, mà kéo theo nó là một loạt những hệ quả kinh tế chính trị, xã hội, văn hoá, lối sống, nhân cách con người. Thứ hai, phân tích, phát hiện, dự báo, xây dưng một chiến lược về sự tái tạo cơ cấu xã hội mới trên cơ sở những định hướng phát triển của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong trường hợp này, các nghiên cứu cần phải đưa ra được những kịch bản về sự phát triển của cơ cấu xã hội tương ứng với những chiến lược phát triển trong kỷ nguyên mới.

 

Nếu xem xét bề sâu của sự tồn tại xã hội trong xã hội truyền thống, chúng ta thấy cơ cấu xã hội nói trên gắn liền với sản xuất nông nghiệp, dựa trên nền tảng của chế độ công điền công thổ, với tính tự quản cao của các cộng đồng làng xã, đã tồn tại một cách khá vững chắc. Nó vượt qua mọi bão giông của những thay đổi từ các chính thể và triều đại, từ các cuộc chiến tranh và li tán để làm nên những đặc trưng của xã hội Việt Nam, văn hoá Việt Nam, các chuẩn mực và giá trị sống, với tất cả những gì tốt đẹp và cả những hạn chế của con người Việt nam.

 

Bởi vậy, để bước vào xã hội hiện đại, vào kỷ nguyên mới, mang tính đột phá cao, theo chúng tôi có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử, cơ cấu của xã hội Việt Nam truyền thống sẽ phải đối diện với những sự thay đổi mạnh mẽ nhất, trong đó những những giá trị sống tốt đep sẽ được kế thừa và phát huy, những sự trì trệ và bảo thủ gắn liền với xã hội nông nghiệp sẽ bị phá vỡ.

 

Có thể nói, quá trình tái cơ cấu xã hội ở Việt Nam hiện đại cần phải được hiểu như là một quá trình vận hành liên tục, sự chuyển đổi của từng bộ phận cấu thành, từng nhóm dân xã hội, các giai tầng xã hôi vào một bộ khung kết cấu mới phù hợp với những nhu cầu phát triển mới trong kỷ nguyên mới. Có những bộ phận của cơ cấu cũ sẽ bị biến đổi hoàn toàn, thậm chí mất đi, nhưng cũng có những bộ phận cấu thành mới sẽ hình thành và phát triển.

 

Tuy nhiên, ở đây, câu hỏi đặt ra là, trong cuộc cách mạng về cơ cấu xã hội này, thì những giá trị tốt đẹp truyền thống về sự gắn kết cộng đồng (mà trong một cuốn sách chúng tôi đã cho rằng nó chính là một bộ “gen” tốt đẹp của văn hóa, con người Việt Nam) sẽ được xem xét như thế nào?

 

Câu hỏi này cần nhiều đến những sự nghiên cứu, phân tích biện chứng. Chỉ có điều, kết cấu của ngôi nhà Việt Nam tương lai, chắc chắn không phải là được xây dựng trên sự phá bỏ hoàn toàn và nhanh chóng toàn bộ kết cấu của ngôi nhà xưa để xây lại một ngôi nhà khác, cũng không phải chỉ là sự tổng hợp những nguyên vật liệu hoàn toàn mới được nhặt nhạnh từ bên ngoài, mà phải là sự kế thừa và phát triển liên tục.

 

Ngày nay, chúng ta đã có những điều kiện tốt nhất về thiên thời, địa lợi, nhân hòa để thực hiện ước mơ ngày xưa của sử gia Ngô Thì Sĩ, xây dựng xã hội mà: “Đời thì chí đức, nước thì cực lạc. Vua thì yên vui như Phật. Dân thì vẽ mình, làm ăn, không phiền nhiễu gì đến sưu thuế, không việc gì phải canh phòng. Vua dân thân nhau, dẫu vài nghìn năm cũng không thay đổi". Nếu kinh tế thị trường sẽ là cơ sở xã hội tốt và bình đẳng để các cá nhân và nhóm xã hội có điều kiện phát huy được hết năng lực tư duy sáng tạo của mình đóng góp cho xã hội, thì việc hướng tới những định hướng xã hội chủ nghĩa, lại là điểm nhắc nhở nhau về sự kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tương thân, tương ái, gắn kết cộng đồng.

 

Dẫu tuân theo những quy luật khắt khe của kinh tế thị trường, nhưng không giống với nhiều nước, ở nước ta sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, chúng ta đã xác lập được một chính quyền Nhà nước của nhân dân, có đầy đủ sức mạnh quyền lực để duy trì sự hài hòa trong các mối quan hệ xã hội và bảo vê quyền lợi cho những người lao động. Đó là sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với các loại kinh tế thị trường khác.

 

Chính điều đó đã tạo cơ sở để chúng ta gắn phát triển kinh tế nhanh, bền vững, với mô hình tăng trưởng, chất lượng, hiệu quả, gắn sức cạnh tranh khoa học - công nghệ với sự đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và với đổi mới đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Chúng ta cũng sẽ đẩy mạnh triển khai các dự án phát triển chiến lược về hạ tầng năng lượng, hạ tầng giao thông, hạ tầng số, đường sắt tốc độ cao, đường bộ cao tốc Bắc-Nam, nhà máy điện hạt nhân, đi vào các lĩnh vực mới như công nghiệp bán dẫn và trí tuệ nhân tạo, xây dựng những trung tâm tài chính tầm cỡ khu vực và quốc tế.

 

Trong bối cảnh đẩy mạnh tinh gọn, sắp xếp lại bộ máy Nhà nước và địa phương, cùng với phát triển đột phá khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta cũng có điều kiện tốt nhất để giải phóng các nguồn năng lực không chỉ con người cộng đồng mà cả con ngươi cá nhân, xây dựng một thế hệ con người Việt Nam mới kế thừa và phát huy những giá trị cốt lõi căn bản nhất của văn minh Việt Nam, đóng góp tích cực và chủ động hơn nữa vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại.

 

GS-TS Đặng Cảnh Khanh


[1] Trích lại từ Việt sử Tân biên. Nhà sách Khai trí xuất bản, Sài Gòn, 1968, trang 175.

[2] P. Gourou: Iutilisation du sol en Indochine Francaise. Paris 1940, trang 240.

[3] P. Gourou: Iutilisation du sol en Indochine Francaise. Paris 1940, trang 240.

[4] Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 2 trang 219

[5] Tổng Bí thư Tô Lâm "Động lực mới cho phát triển kinh tế". Báo Dân trí điện tử ngày 11.5.2025

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết