Thứ Sáu, ngày 13 tháng 06 năm 2025

Tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới (phần 2)

Ngày phát hành: 11/06/2025 Lượt xem 89

       III. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN - ĐƠN VỊ KINH TẾ TỰ CHỦ CƠ BẢN VÀ QUÁ TRÌNH LIÊN KẾT SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG NÔNG NGHIỆP

 

1. Sự tồn tại khách quan lâu dài của kinh tế hộ nông dân

 

Do bị chế định bởi những đặc điểm của nền sản xuất - kinh tế nông nghiệp như nêu trên, mà cả về lý luận và thực tiễn phát triển nền nông nghiệp trên thế giới qua hàng ngàn năm nay (kể cả khi đi vào sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại) cho thấy đơn vị kinh tế tự chủ cơ bản và phổ biến nhất vẫn là kinh tế hộ nông dân với những quy mô và trình độ khác nhau.

 

Ngay Mác và Angghen lúc đầu khi nghiên cứu con đường công nghiệp hóa đặc thù của nước Anh đã có dự báo là nền nông nghiệp cũng sẽ được xã hội hóa và tổ chức lại thành nền đại sản xuất như trong công nghiệp, theo kiểu của công nghiệp. Nhưng sau này, khi nghiên cứu sâu và rộng hơn về sự phát triển của nền nông nghiệp nước Anh và nền nông nghiệp của các nước khác, Mác và Angghen đã thấy rõ những đặc thù của sản xuất nông nghiệp - kinh tế nông nghiệp, và đã rút ra kết luận quan trọng rằng : Nông trại gia đình (về căn bản không dựa trên lao động làm thuê) vẫn tỏ rõ sức sống lâu bền và và hiệu quả của nó, và “Ngay ở nước Anh siêu công nghiệp… với thời gian cho đến nay đã khảng định là hình thức lãi nhất không phải là nông trại công nghiệp hóa (theo phương thức công nghiệp - ND) mà là nông trai gia đình thực tế không dùng lao động làm thuê”. Các ông cho rằng đó là “Nghề nông hợp lý”. Sau này, khi xem xét con đường phát triền nông nghiệp ở nước Nga, và khi thực hiện “Chính sách kinh tế mới” Lênin đã thấy rằng: Không thể phát triển nông nghiệp theo con đường chủ nghĩa tư bản kiểu Phổ vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả, mà phải là kiểu “Một chủ trại tự do trên mảnh đất tự do, nghĩa là mảnh đất đó được dọn sạch khỏi những tàn tích trung cổ. Đó là kiểu Mỹ”. Và ông cũng cho rằng nông nghiệp không phát triển theo cùng kiểu với công nghiệp. Nhiều nhà khoa học - nông học trên thế giới đã luận chứng rõ điều này, và thực tế phát triển nền nông nghiệp của các nước trên thế giới (dù có phải trải qua các “khúc quanh” như ở một số nước) cũng đã khảng định rõ điều này.

 


 

2. Những đặc điểm chủ yếu của đơn vị kinh tế hộ nông dân

 

Trong quá trình phát triển lâu dài, Đơn vị kinh tế hộ nông dân bao chứa trong mình ba tư cách quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau trên tất cả các phương diện kinh tế và phi kinh tế, vất chất và phi vật chất…, đó là: đơn vị sản xuất, đơn vị xã hội - huyết thống đặc thù và đơn vị tiêu dùng. Cùng với những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, xét trong nền kinh tế thị trường Đơn vị kinh tế hộ nông dân có sự phân tầng theo những trình độ phát triển chủ yếu sau:

 

(1). Hộ tự cung tự cấp hoàn toàn

 

Đó là loại hộ (cả với tư cách là đơn vị sản xuất và đơn vị tiêu dùng) hầu như không có sự đối thoại với thị trường, nếu có sự đối thoại với thị trường thì cũng chỉ là do nhu cầu bức thiết phải bán bớt sản phẩm tất yếu để đổi lấy các nhu yếu phẩm khác mà cuộc sống buộc phải có.

 

Khi đó tất cả các hộ nông dân tiểu nông tự cung tự cấp đều có cơ sở kinh tế giống nhau, có cấu trúc kinh tế giống nhau, phương thức sản xuất giống nhau, sản phẩm làm ra gần như nhau. Hàng triệu hộ nông dân như thế hầu như không tạo nên những mối quan hệ - kinh tế với nhau và với xã hội, không tạo nên sự phân công lao động xã hội - Đó là sức trì trệ lớn nhất của nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Đất đai, vốn và các nguồn lực khác về cơ bản không tham gia vào kinh tế thị trường cả với tư cách sản phẩm làm ra từ đất trở thành hàng hoá, hoặc bản thân đất đai là hàng hoá. Các loại hộ này, cho đến nay vẫn còn tồn tại ở một số nơi.

 

(2). Hộ sản xuất hàng hoá nhỏ

 

Đặc trưng kinh tế cơ bản của hộ sản xuất hàng hoá nhỏ trong nông nghiệp là sản phẩm làm ra chủ yếu để tiêu dùng trực tiếp trong gia đình, số lượng sản phẩm đưa ra lưu thông ở thị trường (hoặc từ thị trường vào hộ) nói chung là chiếm tỷ lệ nhỏ, không đáng kể. Hơn nữa điều đáng lưu ý là phần sản phẩm đưa ra lưu thông ở thị trường không phải hoàn toàn theo nguyên tắc lợi nhuận (tức theo quan điểm kinh doanh). Vì tính tự cung tự cấp vẫn chiếm ưu thế trong loại kinh tế hộ nông dân này, cho nên sản xuất lương thực để tồn tại (đảm bảo an ninh lương thực cho hộ gia đình) vẫn là một mục tiêu và nội dung kinh tế cơ bản, hàng đầu của hộ nông dân.

 

Trong điều kiện của loại hộ này, ruộng đất canh tác rất ít có cơ sở kinh tế để trở thành hàng hoá, sự tham gia của nó vào quan hệ thị trường bị hạn chế rất nhiều vì còn bị trói chặt vào "khẩu phần lương thực trực tiếp sống còn” của mỗi hộ. Sản phẩm làm ra không phải theo quan hệ cung - cầu của thị trường, theo hạch toán kinh tế. Ruộng đất vẫn chưa trở thành vốn đầu vào cho sản xuất, mà chủ yếu được sử dụng theo quan điểm hiện vật. Do đó, ruộng đất không được sử dụng đúng với tính năng và tiềm năng sinh học của nó. Đây chính là tính phi hiệu quả của nền sản xuất nhỏ, manh mún, đồng thời nó cũng là nguyên nhân sâu xa kìm hãm quá trình phân công lao động xã hội, kìm hãm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Ở nước ta hiện nay, tại một số địa phương, quy mô bình quân đất nông nghiệp cho một hộ quá nhỏ, không tạo được nền tảng để phát triển nông nghiệp hàng hóa hiệu quả; cũng đang rơi vào tình trạng này. Cần phải có cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển ngành nghề phi nông nghiệp, lưu chuyển và tích tụ ruộng đất cho phát triển ngông nghiệp hàng hóa.

 

(3). Hộ sản xuất hàng hoá là chủ yếu

 

Đây là loại hộ nông dân đã hướng mục tiêu sản xuất ra thị trường đồng thời vẫn giữ phần nhỏ tiêu dùng trực tiếp trong hộ như một chiếc “van an toàn”. Đặc trưng kinh tế cơ bản của loại hộ này là mối quan hệ giữa hộ (đơn vị sản xuất) với thị trường đã khá lớn và chiếm ưu thế trong sản xuất của hộ. Vì sản xuất hướng theo thị trường nên các yếu tố đầu vào và đầu ra của đơn vị sản xuất (kế cả chi phí lao động sống và đất đai) đã được tính toán tới trong quá trình sản xuất. Đi vào sản xuất hàng hoá, kinh tế hộ nông dân đã bắt dầu phá vỡ vỏ bọc khép kín của mình, tạo đồng thời hai cửa vào - ra, mà trước hết là cửa vào và cửa ra cho đơn vị sản xuất đối thoại với thị trường. Quá trình này tất yếu dẫn đến thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá, phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp, cũng như khai thác sử dụng đất đai sao cho có hiệu quả cao hơn. Khi đó đất đai từng bước thoát ra khỏi “chức năng đảm bảo lương thực sinh tồn” của kinh tế hộ nông dân để nhận cho mình một chức năng mới trong cơ chế thị trường: chức năng nguồn lực, "nguồn vốn” phát triển. Đất đai không còn đơn thuần chỉ là tư liệu sản xuất như trong kinh tế hộ nông dân tự cung tự cấp. Đây là một nấc thang phát triển rất quan trọng của quan hệ ruộng đất và kinh tế hộ nông dân.

 

(4). Hộ sản xuất hàng hoá hoàn toàn

 

Đặc trưng kinh tế của loại hộ này là sản xuất hoàn toàn hướng theo nhu cầu của thị trường và thông qua thị trường; quy mô sản xuất thường do thị trường điều tiết. Đối với những loại hộ này, giữa đơn vị sản xuất và đơn vị tiêu dùng của kinh tế hộ nông dân hầu như không còn mối quan hệ trực tiếp, mà cả đơn vị sản xuất và đơn vị tiêu dùng tồn tại độc lập tương đối với nhau và quan hệ trực tiếp với thị trường. Trong mô hình kinh tế hộ nông dân này:  Mục tiêu của sản xuất hoàn toàn hướng theo thị trường, theo lợi nhuận, do đó mọi yếu tố đầu vào - đầu ra của quá trình sàn xuất đều được xem xét trên cơ sở giá trị; cả sức lao động và đất đai đều trở thành yếu tố đầu vào trực tiếp của sản xuất hàng hoá; sản phẩm làm ra của đơn vị sản xuất đều phải được thực hiện trên thị trường, bị chi phối bởi các quy luật của kinh tế thị trường.

 

Trong kinh tế hộ nông dân ở trình độ sản xuất hàng hóa cao này, không còn bị chi phối bởi quan hệ hiện vật, không bị ràng buộc bởi khẩu phần lương thực sinh tồn, “đơn vị sản xuất” kinh tế hộ có thể được vận động trong một không gian kinh tế rộng lớn hơn, khả năng cơ động kinh tế cao, đầu vào của đơn vị sản xuất kinh tế hộ cũng được mở rộng hơn : vốn, TLSX, công nghệ, đất đai, lao động, vật tư … được tiền tệ hóa, còn đầu ra là hàng hóa cho thị trường; đất đai được giải thoát khỏi “quan hệ kinh tế sinh tồn” để bước sang “quan hệ sinh lời” trong kinh tế hộ nông dân.

 

Đi vào sản xuất hàng hóa, do năng lực của các hộ khác nhau (biểu hiện ở hiệu quả sử dụng đất đai của các hộ khác nhau, năng lực làm các ngành nghề phi nông nghiệp khác nhau…) tất yếu diễn ra sự phân hoá giữa các hộ: phân hoá về trình độ, quy mô sản xuất kinh doanh, phân hoá về nghề nghiệp - giỏi về nghề gì làm nghề đó…

 

Trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa, sự co giãn của quy mô sản xuất bị quy định chủ yếu bởi thị trường và năng lực của chủ thể sản xuất kinh doanh. Đây cũng chính là một trong những lý do cơ bản làm cho quan hệ ruộng đất và các yếu tố sản xuất khác ở những vùng sản xuất hàng hoá cao có sự vận động năng động hơn, hướng theo hiệu quả sử dụng cao hơn, đồng thời thích ứng với sự tác động của cơ chế thị trường (thay đổi quy mô sản xuất, thay đổi cơ cấu sản xuất, thay đổi mục đích sử dụng đất…). Khi kinh tế hộ bước vào sản xuất hàng hoá, ở mỗi loại sản phẩm hàng hoá thường đòi hỏi những ngưỡng tối thiểu về đất đai, lao động, vốn …đề từ mức đó trở lên sản xuất hàng hoá mới có hiệu quả.

 

(5). Sự phân tầng - phân hóa - phát triển Kinh tế hộ nông dân

 

Trong kinh tế thị trường, dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, phi nông nghiệp hóa, đô thị hóa và phát triển nông nghiệp hàng hóa diễn ra quá trình phân hóa, đào thải, phân tầng, chuyên môn hóa, đa dạng hóa, tích tụ, tập trung mở rộng quy mô canh tác và quy mô kinh tế của kinh tế hộ nông dân. Đối với các hộ sản xuất hàng hoá, các yếu tố đất đai, tư liệu sản xuất khác, vốn, lao động mới chỉ là những điều kiện - dù là rất quan trọng đối với sản xuất hàng hóa, yếu tố quyết định nhất lại là năng lực sản xuất - kinh doanh hàng hoá của chủ hộ. Chính sự khác biệt về năng lực sản xuất - kinh doanh hàng hoá (không phải các hộ đều có như nhau) là một trong những yếu tố cơ bản nhất có tác động quyết định đến mức độ ruộng đất tham gia vào sản xuất hàng hoá, có những hộ phát triển hơn lên, tích tụ, mở rộng quy mô canh tác, lại có một số hộ không phát triển thậm chí phải giảm quy mô canh tác hoặc chuyển sang lĩnh vực khác.

 

Xu hướng chung là sẽ giảm số đơn vị kinh tế hộ nông dân; tuy nhiên ở tất cả các nước vẫn tồn tại một phổ rộng kinh tế hộ nông dân từ trình độ tự cung tự cấp đến sản xuất hàng hóa lớn, ngay trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triền cao và nền nông nghiệp hiện đại như Mỹ, các nước Châu Âu, đến các nước Nhật Bản, Đài loan ... Chính quá trình phát triển, phân tầng, phân hóa kinh tế hộ nông dân trong kinh tế thị trường là cơ sở cho sự ra đời khách quan, đa dạng, đa trình độ, đa quy mô của các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh trong nền nông nghiệp.

 

3. Tính khách quan của sự phát triển các hình thức hợp tác và liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp

 

Trong khi khảng định vai trò đơn vị kinh tế tự chủ cơ bản trong nông nghiệp là hộ nông đân - nông trại, cả Mác, Angghen, Lênin cũng như nhiều nhà khoa học - nông học nổi tiếng trên thế giới đều không tuyệt đối hóa tính chất bền vững biệt lập của kinh tế hộ nông dân, nhất là khi tham gia vào kinh tế thị trường, mà trong quá trình phát triển nó đòi hỏi phải có các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh phù hợp. Mác và Angghen cho rằng đối với “nghề nông hợp lý” thì hoặc là phải có “bàn tay của người tiểu nông bằng lao động của chính mình” hoặc là phải có “sự kiểm soát của những người sản xuất có liên kết lại với nhau”. Đó là những tư tưởng quan trọng về chế độ hợp tác trong nông nghiệp. Sau này Angghen đã khảng định một cách kiên quyết rằng, khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền thì tuyệt đối không được tước đoạt những người tiểu nông dù bất kỳ dưới hình thức gì như buộc phải làm đối với những chủ đất lớn. Nhà nước vô sản phải bằng những biện pháp hết sức tỷ mỉ, khuyến khích họ “liên hợp kinh tế của họ với hiệp hội…với quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng”. Sau này, Trong tác phẩm nổi tiếng “Bàn về chế độ hợp tác”, Lênin đã đi đến hai kết luận rất quan trọng:  Hợp tác xã là “bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường đơn giản nhất, đễ tiếp thu nhất đối với nông dân”;  “Chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”.

 

Theo Lênin, kiểu tổ chức hợp tác xã như vậy có khả năng kết hợp hữu cơ, hài hòa, hiệu quả giữa “lợi ích tư nhân với lợi ích xã hội”. Trong mối quan hệ hợp tác đó không được xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về vật phẩm tiêu dùng và về tư liệu sản xuất của nông dân, trong đó có ruộng đất. Lênin nhấn mạnh bản chất của các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, tương trợ, tôn trọng lợi ích của các thành viên và của hợp tác xã. Lênin phê phán gay gắt sự áp đặt trong việc phát triển kinh tế hợp tác, ông cho rằng “Ở đây mà dùng bạo lực thì có nghĩa là làm nguy hại đến toàn bộ sự nghiệp…, và không bao giờ được dùng mệnh lệnh”, “Chỉ những Hợp tác xã do chính những người nông dân điều hành theo sáng kiến của họ và lợi ích của các hợp tác xã ấy được kiểm nghiệm trên thực tế mới có giá trị”. Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc hướng dẫn, khuyến khích, hỗ trợ phát triển đa dạng các loại hình kinh tế hợp tác, bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên và các tổ chức kinh tế hợp tác. Theo Traianôp (1889- 1939), nhà bác học Xô - viết nổi tiếng trước đây, hợp tác hóa là một quá trình xã hội hóa từng bước kinh tế hộ nông dân, “Hợp tác xã nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế hộ nông dân, phục vụ cho nó, và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nông dân thì hợp tác xã không có ý nghĩa gì cả”.

 

 Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn quá trình phát triển nền nông nghiệp trên thế giới cho thấy:

 

- Do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp - kinh tế nông nghiệp, mà đơn vị kinh tế hộ gia đình - kinh tế nông trại là hình thức phổ biến nhất, có hiệu quả cao, tồn tại và phát triển lâu dài kể cả trong điều kiện đi vào sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại.

 

- Hợp tác xã là hình thức tổ chức liên kết sản xuất kinh doanh phù hợp và hiệu quả cao cả về kinh tế và xã hội đối với kinh tế hộ nông dân.

 

- Xây dựng và phát triển các hình thức hợp tác xã phải trên cơ sở tự nguyện, trên cơ sở nhu cầu và lợi ích của các hộ nông dân – với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ.

 

- Chế độ kinh tế hợp tác phải đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích giữa hộ nông dân, tập thể và xã hội.

 

Như vậy sự phát triển của nền nông nghiệp về cơ bản là quá trình phát triển và tác động qua lại - hỗ trợ lẫn nhau giữa kinh tế hộ nông dân và các hình thức kinh tế hợp tác, hình thức liên kết khác. Trong quá trình phát triển và hiện đại hóa nền nông nghiệp thì khái niệm, nội dung và hình thức hợp tác cũng cần được hiểu mở rộng hơn: đó là tất cả các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh giữa các đơn vị kinh tế hộ nông dân với nhau và với các đơn vị sản xuất kinh doanh khác trong nông nghiệp, hay liên quan tới nông nghiệp; liên kết ngang hay liên kết dọc. Nền tảng cốt lõi của các liên kết này là liên kết và chia sẻ về mặt lợi ích, là sự liên kết về trách nhiệm, và sự chia sẻ về rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh.

 

Phụ thuộc vào đặc điểm, tính chất và trình độ của nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng, phụ thuộc vào trình độ của kinh tế hộ nông dân, vào sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, vào mức độ tham gia vào kinh tế thị trường, vào đặc điểm và quy mô của đối tượng sản xuất…các đơn vị kinh tế hộ nông dân sẽ tham gia vào các hình thức hợp tác và liên kết kinh doanh khác nhau. Trong nông nghiệp, chu trình một sản phẩm được thực hiện trọn vẹn thường phải trải qua các khâu chủ yếu: sản xuất ở đơn vị kinh tế hộ nông dân (ĐV KTH), quá trình chế biến được thực hiện ở đơn vị chế biến (ĐVCB), sau đó sản phẩm sẽ được chuyển qua sang đơn vị kinh doanh thương mại (ĐVKD), sau đó sẽ được đưa ra thị trường (TT), và cuối cùng là tới tay người tiêu dùng (NTD), nhưng cũng nhiều khi phải qua các chủ thể trung gian (TG). Đơn vị kinh tế hộ nông dân tham gia vào quá trình này như thế nào, thực hiện sự liên kết kinh doanh giữa các đơn vị như thế nào thể hiện trình độ của nền nông nghiệp. Điều này được mô tả khái quát ở lược đồ sau:

 

               Lược đồ về Hợp tác - liên kết sản xuất - kinh doanh

                 Trên cơ sở kinh tế hộ nông dân

 

 Trong lược đồ trên :

 

I -  Là trạng thái cơ bản của các hộ kinh tế nông dân ở trình độ sản xuất tự cung tự cấp là chủ yếu, hầu như không tham gia thị trường và không có sự hợp tác hoặc liên kết sản xuất kinh doanh.

 

II -  Là trạng thái của các hộ kinh tế nông dân tham gia sản xuất hàng hóa một cách độc lập. Sản phẩm đưa ra thị trường có thể phải trải qua nhiều chủ thể độc lập (kể cả các khâu trung gian) quan hệ kinh doanh với nhau theo kiểu “mua đứt bán đoạn” qua mỗi khâu, không có sự chia sẻ với nhau về lợi ích hay rủi ro.

 

III -  Là trạng thái của các hộ kinh tế nông dân chỉ hợp tác – liên kết với nhau ở khâu sản xuất thông qua đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác. Còn các khâu khác thì các hộ nông dân lại tự thực hiện độc lập.

 

IV -  Là trạng thái của các hộ kinh tế nông dân thực hiện sự hợp tác với nhau cả ở khâu sản xuất của của hộ (hợp tác theo chiều ngang) và các khâu khác theo chiều dọc (như chế biến, bao tiêu sản phẩm...) cho tới khi sản phẩm tới tay người tiêu dùng. Sự hợp tác này cũng có thể ở trình độ thấp hơn chỉ ở một số khâu, một số tầng nào đó.

 

V - Là trạng thái của các hộ kinh tế nông dân sản xuất hàng hóa lớn (các nước trên thế giới gọi là trang trại lớn hay cực lớn), bao quát tất cả các khâu sản xuất kinh doanh theo chiều ngang và chiều dọc, cho tới khâu đưa sản phẩm hàng hóa tới người tiêu dùng.

 

Trên thực tế cũng xuất hiện các mô hình liên kết là sự đan chéo giữa các trạng thái nêu trên, như: các hộ nông dân độc lập liên kết với các đơn vị chế biến và kinh doanh để được bao tiêu sản phẩm; hay các HTX của các hộ nông dân liên kết với các đơn vị chế biến và kinh doanh để được bao tiêu sản phẩm và cung ứng các dịch vụ…

 

Song hành với sự phát triển quá trình sản xuất kinh doanh trên là sự ra đời và phát triến của hệ thống các đơn vị cung cấp các dịch vụ như tín dụng, khoa học - công nghệ, khuyến nông, cung cấp giống cây con, bảo vệ thực vật, bảo hiểm nông nghiệp, tư vấn… (cả công và tư, vì lợi nhuận và không không vì lợi nhuận, trong nước và quốc tế).

 

Như vậy, trong thể chế phát triển nông nghiệp, tầng cơ sở là các đơn vị kinh tế hộ nông dân với quy mô và trình độ khác nhau; còn các tầng trên là các đơn vị sản xuất kinh doanh liên quan đến các khâu chế biến, bảo quản, lưu thông thương mại…Mức độ liên kết sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào trình độ của nền nông nghiệp hàng hóa.

 

 

IV.  KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

 

Từ những kinh nghiệm phát triển kinh tế nông nghiệp ở nhiều nước công nghiệp phát triển cũng như các nước đang phát triển, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

 

1. Về thể chế kinh tế hộ nông dân

 

1). Sự tồn tại và phát triển lâu dài của Đơn vị kinh tế hộ nông dân (nông trại) là do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp quy định. Trên thế giới, quá trình phát triển nền nông nghiệp ngày càng hiện đại cho thấy vẫn phổ biến là hình thức kinh tế hộ nông dân (là các nông trại với quy mô và trình độ có thể khác nhau, cho đến rất hiện đại như ở Mỹ, Hà Lan, Đan Mạch, Nhật Bản,...) với lao động của chính mình là chủ yếu, dù ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân hoặc đi thuê ruộng đất để canh tác.

 

2). Các nông trại đi vào sản xuất hàng hóa là lực lượng sản xuất hàng hóa chủ yếu trong nông nghiệp, nó khác hẳn người tiểu nông như C. Mác mô tả: người tiểu nông thường sử dụng trực tiếp phần lớn sản phẩm làm ra và họ chủ trương bán càng ít càng tốt. Còn người chủ nông trại sản xuất hàng hóa thì mục đích sản xuất là hướng ra thị trường.

 

3). Về cơ cấu sản xuất và kinh doanh của các nông trại rất đa dạng: có những nông trại chuyên sản xuất 1, 2 loại sản phẩm, có những nông trại sản xuất kinh doanh tổng hợp, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, hoặc kết hợp sản xuất với chế biến nông sản, hoặc các ngành nghề khác phi nông nghiệp. Ở các nước thuộc khối EEC số nông trại kinh doanh kết hợp với ngành nghề phi nông nghiệp chiếm tới 2/5 tổng số nông trại. Còn ở Mỹ năm 1984 - 60% thu nhập của các nông trại là nhờ vào các hoạt động phi nông nghiệp.

 

Theo tính chất các nguồn thu nhập của kinh tế hộ nông dân cho thấy sự vận động và phân hóa khách quan của nó trong kinh tế thị trường thường chia làm 3 loại sau:

 

a)- Những nông trại rất nhỏ, Chủ trại không hoạt động thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp. Loại nông trại này phần sản xuất nông nghiệp chủ yếu chỉ để tiêu dùng trong gia đình, không bán ra thị trường. Thu nhập của hộ chủ yếu từ các hoạt động khác hoặc nguồn khác ngoài nông trại mang lại.

 

b)- Những nông trại hoạt động 2 mang (cả trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hàng hóa và cả các lĩnh vực khác ngoài nông trại)

 

c)- Những nông trại hoạt động sản xuất nông nghiệp hàng hóa gắn liền với các lĩnh vực công nghiệp chế biến, dịch vụ và thương mại trong nông nghiệp. Chính những nông trại hàng hóa này đóng góp phần lớn khối lượng và giá trị nông sản hàng hóa cũng như tổng thu nhập của các nông trai này.

 

4). Về phân tầng Kinh tế hộ nông dân theo quy mô canh tác: Trên thế giới các nước sử dụng tiêu chí quy mô đất đai canh tác để phân loại Kinh tế hộ nông dân thành: Quy mô nhỏ, quy mô vừa (trung bình) và quy mô lớn. Tuy nhiên do điều kiện đất đai khác nhau giữa các nước, do sự khác biệt về tính chất và trình độ của nền nông nghiệp (lúa nước khác lúa mỳ…) nên tiêu chí này không có sự đồng nhất giữa các nước; Quy mô canh tác trung bình của một hộ và phổ phân bố hộ theo quy mô canh tác giữa các châu lục và các nước có sự khác biệt lớn. Quy mô canh tác trung bình của một hộ ở Mỹ khoảng 150 – 170 ha; ở châu Âu bình quân khoảng 40 - 60 ha/hộ, ở Hà Lan khoảng trên 10 ha; trong khi đó tại các nước ở châu Á với nền nông nghiệp lúa nước quy mô canh tác trung bình của một hộ chỉ khoảng 2 - 3 ha, ở Nhật Bản và Đài Loan trung bình chỉ khoảng 1,5 ha/ hộ, cao như ở Thái Lan cũng chỉ bình quân hơn 5 ha/ hộ. Trên thực tế người ta thấy rằng trong nền nông nghiệp lúa nước quy mô canh tác trung bình 1,5 - 2 ha đã có thể đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế khá.

 

Mỹ còn sử dụng tiêu chí quy mô giá trị hàng hóa được thực hiện trong một    năm để phân nhóm kinh tế hộ, theo đó các nông trại được chia thành 5 loại:

 

          -  Dưới 10 nghìn đôla là loại nông trại rất nhỏ;

 

          -  Từ 10 nghìn đến 40 nghìn đôla là nông trại gia đình loại nhỏ;

 

          -  Từ 40 nghìn đến 250 nghìn đôla là nông trại gia đình trung bình;

 

          -  Từ 250 nghìn đến 500 nghìn đôla là nông trại gia đình lớn;

 

          -  Trên 500 nghìn đôla là nông trại cực lớn

 

Thực trạng ở các nước cho thấy ngay cả trong các nền nông nghiệp phát triển cao, hiện đại, song vẫn tồn tại một tỷ lệ không ít các trang trại nhỏ và các trang trại này hoạt động sản xuất nông nghiệp không gắn với hoạt động thương mại.

Việc tích tụ, tập trung ruộng đất tăng quy mô kinh doanh của nông trại là vấn đề có tính quy luật diễn ra với tốc độ và quy mô khác nhau ở từng nước, nó phụ thuộc trước hết vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ để rút lao động ra khỏi nông nghiệp, làm thay đổi tương quan lao động và đất đai trong sản xuất nông nghiệp. Nhưng sự diễn biến về quy mô và số lượng nông trại diễn ra từ từ trong một thời gian dài. Có thể nêu lên 3 giai đoạn sau: Giai đoạn thừa lao động thiếu đất; Giai đoạn lao động và đất tương xứng với nhau; Giai đoạn thiếu lao động làm nông nghiệp (như đã diễn ra ở khối EEC, Nhật, Đài Loan...) do số hộ lao động nông nghiệp bị giảm đi nhiều, nhiều lao động nông dân bị già đi và người trẻ không muốn làm ruộng nữa, chuyển sang ngành nghề khác dù vẫn sống ở nông thôn.

 

Khi chuyển sang sản xuất hàng hoá, các nước đều mở rộng phương thức xử lý quan hệ ruộng đất: mua bán, cho thuê, thừa kế, chuyển nhượng, thế chấp, ký gửi; Các nước đều hình thành thị trường đất đai, trong đó có ruộng đất, coi đất đai, ruộng đất là thứ hàng hoá đặc biệt. Tất cả các nước đều thực hiện điều tiết vĩ mô đối với đất đai nhằm vạch hành lang pháp lý cho chế độ sở hữu, sử dụng, quản lý và khai thác đất đai.

 

5). Về phương thức sử dụng lao động: Đa số các nông trại đều lấy lao động trong gia đình là chính, nghĩa là không thể tách quản lý sản xuất ra khỏi sản xuất; các chủ trại vừa là người quản lý, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người kinh doanh. Số nông trại có thuê lao động không nhiều, nếu có thuê thường thuê theo thời vụ và số lượng không nhiều. Có nông trại gia đình gồm 1 thế hệ, có nông trại 2 - 3 thế hệ, có nông trại 2 - 3 anh em cùng quản lý.

 

Số trang trại hoạt động có thuê lao động thường xuyên không nhiều và thường thuê ít lao động. Đó là những trang trại có quy mô lớn, thực hiện sản xuất, chế biến và kinh doanh sản phẩm liên hoàn “từ đầu vào đến đầu ra” tới thị trường, và thường ở lĩnh vực chăn nuôi gia súc lớn, hoặc chăn nuôi gia cầm trên quy mô lớn. Ví dụ ở Mỹ, các nông trại cực lớn trung bình có khoảng 1.500 ha đất canh tác nông nghiệp. Nhưng tổng số công nhân và nhân viên làm thuê thường xuyên làm việc trung bình chỉ khoảng 14 người. Vào các thời điểm bận rộn thì bổ sung thêm khoảng 23 người công nhân làm theo thời vụ. Hay một nông trại quy mô 360 ha để trồng ngô, đậu tương, lúa mỳ, nuôi 300 lợn nái, mỗi năm đẻ 4000 lợn con, mà lao động chỉ có 2 vợ chồng chủ nông trại và 1 lao động làm thuê do toàn bộ công việc đã được cơ giới hóa cao độ. Ở tất cả các nước cho thấy, dù nền nông nghiệp hàng hóa đã được phát triển ở trình độ cao và hiện đại, nhưng số nông trại nhỏ và vừa vẫn chiếm đa số (như ở Châu Âu số nông trại có quy mô canh tác trên 10 ha chỉ chiếm dưới 10%). 

 

6). Về ruộng đất: phần lớn nông trại canh tác trên ruộng đất thuộc sở hữu của mình, cha truyền con nối. Nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường, cũng xuất hiện một xu hướng không ít các nông trại đi thuê ruộng đất để canh tác, nhất là các nông trại muốn mở rộng quy mô canh tác và các chủ nông trại trẻ, thuê ruộng đất của nhà nước, của các ngân hàng hay của tư nhân dài hạn.

 

7). Về công cụ sản xuất: Đa số nông trại tự bỏ vốn mua riêng máy móc để sản xuất khi quy mô canh tác vượt qua ngưỡng tối thiểu cho sản xuất hàng hóa có hiệu quả; nhưng đối với các nông trại nhỏ thường góp vốn lập hợp tác xã sử dụng máy móc chung, có nông trại thuê máy móc, hoặc thuê cả thợ máy. Nói chung nông trại gia đình ở nhiều nước đã từng bước hiện đại hóa trong nhiều khâu sản xuất, ở nhiều nước trình độ tự động hóa rất cao. Ở các nước tiên tiến rất nhiều nông trại đã trang bị máy tính điện tử và sử dụng hệ thống thông tin hiện đại vào sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi theo các chương trình của các trung tâm máy tính…  

 

8). Vai trò quyết định của người chủ nông trại: Trong kinh tế thị trường, người chủ nông trại đóng vai trò rất quyết định. Để quản lý và phát triển nông trại hiện đại, người nông dân chủ trại phải có kiến thức rộng: nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế, khoa học kỹ thuật, kinh doanh, pháp luật, phải có năng lực quản lý và năng lực lao động thực sự, biết làm nhiều việc; đó phải là người có tay nghề cao trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Như ở Mỹ, người chủ nông trại thực sự là một chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, thường có trình độ học vấn đại học chuyên sâu về nông nghiệp, được đào tạo bài bản, có hệ thống và thường xuyên được bổ sung những những thành tựu khoa học và ứng dụng thực tiễn tiên tiến (không phải mất tiền). Đặc biệt phải có thái độ người chủ đối với đồng ruộng, đất đai, đối với vật nuôi, cây trồng. Như ông Thomas L. Friedman (người Mỹ, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Thế giới phẳng” và nhiều cuốn sách khác), trong buổi nói chuyện tại Hội đồng lý luận Trung ương ngày 8/5/2014 đã nói rằng: Nền nông nghiệp hiện đại của Mỹ với trụ cột nền tảng là các nông trại, chỉ một ông chủ cùng chiếc máy tính, điện thoại di động và một chú chó, có thể đi khắp thế giới nhưng vẫn điều hành sản xuất kinh doanh của nông trại kịp thời và hiệu quả.

 

9). Kinh tể hộ nông dân càng phát triển, càng tham gia sâu vào kinh tế thị trường, càng có nhu cầu hợp tác - liên kết sản xuất kinh doanh theo cả chiều ngang và chiều dọc. Trong các liên kết này, các HTX và các đơn vị sản xuất kinh doanh liên kết ổn định với các hộ nông dân cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro đóng vai trò hết sức quan trọng. Đồng thời Nhà nước cũng đóng vai trò quyết định trong việc tạo lập cơ sở pháp lý và các chính sách hỗ trợ cho kinh tế hộ nông dân phát triển trong sự gắn bó hữu cơ với sự phát triển đa dạng của các hình thức hợp tác và liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp.

 

2. Về thể chế kinh tế Hợp tác xã

 

Từ việc xem xét một cách khái quát quá trình hình thành và phát triển kinh tế hộ nông dân và hợp tác hóa nông nghiệp ở những nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau và với trình độ phát triển khác nhau, có thể rút ra một số nhận xét chung sau:

 

1). Cơ sở kinh tế để hình thành và phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp và các hình thức liên kết sản xuất kinh doanh là kinh tế hộ nông dân (kinh tế nông trại). Khi đi vào sản xuất hàng hóa, tham gia vào cơ chế thị trường tất yếu đòi hỏi hình thành các mối liên kết ngang và liên kết dọc đối với kinh tế hộ nông dân và các chủ thể khác dưới nhiều hình thức, quy mô và trình độ khác nhau.

 

2). Hợp tác xã trong nông nghiệp đã ra đời, tồn tại, phát triển và ngày càng hoàn thiện trong hàng trăm năm qua xuất phát từ nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế hộ nông dân, của sản xuất hàng hóa, phù hợp với nguyện vọng của nông dân, không thể là một phong trào áp đặt duy ý chí. Hợp tác hóa và liên kết hóa trên cơ sở phát triển kinh tế hộ nông dân cũng là con đường xã hội hóa đặc thù của nền sản xuất nông nghiệp.

 

3). Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp mà hợp tác xã nông nghiệp và các hình thức tổ chức liên kết trong nông nghiệp về cơ bản không phải là các tổ chức sản xuất (làm tập thể) mà chủ yếu làm chức năng dịch vụ phục vụ cho kinh tế hộ nông dân (như tín dụng, vật tư, làm đất, tưới nước, bảo vệ thực vật, thú y, chế biến, tiêu thụ, buôn bán nông sản…), còn trực tiếp sản xuất vẫn chủ yếu là các hộ (nông trại) tự chủ thực hiện, không có sự can thiệp trực tiếp của hợp tác xã và các tổ chức khác.

 

4). Trên thực tế tồn tại rất đa dạng các loại hình hợp tác xã (tổng hợp, ngành nghề, chuyên ngành, đa ngành) và với những quy mô và cấp độ rất khác nhau: có khi chỉ ở một địa phương, khu vực, tỉnh, có khi bao trùng toàn quốc, liên kết dọc một ngành... Tất cả đều tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế hộ nông dân, điều kiện cụ thể của từng nơi, vào trình độ phát triển kinh tế hàng hóa. Mỗi nông trại có thể tham gia vào một hay nhiều hợp tác xã khác nhau. Trên thế giới phát triển mạnh nhất là các loại hình HTX sau: HTX tín dụng - ngân hàng HTX; HTX chế biến, tiêu thụ nông sản; HTX cung ứng giống, phân bón, vật tư; HTX cung cấp các dịch vụ cho sản xuất (hướng dẫn kỹ thuật, đào tạo, thủy lợi, điện, thông tin liên lạc, bảo hiểm sản xuất…). Ở các nước Châu Á, do quy mô của kinh tế hộ nông dân thường nhỏ, do đó các HTX tổng hợp, đa ngành được chú trọng phát triển nhiều hơn và hiệu quả hơn.

 

5). Các hợp tác xã thường liên kết với nhau thành các Hiệp hội (hệ thống) ở từng địa phương và trong cả nước. Và chính ở tầng này, từ góp vốn, từ tích lũy qua kinh doanh đã hình thành cơ sở vật chất - kỹ thuật, quỹ… thuộc sở hữu chung của hợp tác xã. Nhà nước tác động, kiểm tra, kiểm soát các hợp tác xã theo quy định chung của pháp luật hoặc luật hợp tác xã nông nghiệp. Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động kinh doanh của các hợp tác xã, nhưng có các chính sách hỗ trợ phát triển. Các liên hiệp hợp tác xã ở cấp toàn quốc có quyền thay mặt các xã viên hợp tác xã tham gia với nhà nước trong việc nghiên cứu và ban hành các chính sách bảo vệ quyền lợi của các nông trại và các hợp tác xã.

 

6). Các HTX là hình thức liên kết giữa các đơn vị kinh tế hộ nông nông dân với nhau, hỗ trợ lẫn nhau và hỗ trợ - phục vụ cho kinh tế hộ phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường. Có thể ví Kinh tế hộ nông dân và HTX như là hai anh em ruột thịt của nền nông nghiệp hàng hóa. HTX được xây dựng trên cơ sở đơn vị kinh tế hộ nông dân là cơ bản, là đối tượng phục vụ. HTX không lấy hộ nông dân là đối tác kinh doanh thuần túy, do đó hoạt động trong nội bộ HTX và cung cấp các dịch vụ cho các hộ nông dân thành viên là các hoạt động không vì lợi nhuận; còn các hoạt động kinh tế “đối thoại với thị trường” thì về cơ bản phải theo cơ chế thị trường. Do tính chất đặc biệt này mà ở các nước HTX đều được Nhà nước bảo hộ và có các chính sách ưu đãi. 

 

3. Về vai trò của Nhà nước

 

Ở các nước, Nhà nước đóng một vai trò to lớn và rất quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp nói chung, hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trong đó có nội dung hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế hộ nông dân, hợp tác xã, các doanh nghiệp nông nghiệp và các đơn vị sản xuất kinh doanh khác có liên quan, cùng với việc hoàn thiện cơ chế liên kết sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể đó. Vai trò của Nhà nước được thể hiện trên hai chức năng chủ yếu sau :

 

- Chức năng quản lý nhà nước

 

- Chức năng là “đối tác” hỗ trợ phát triển quan trọng đối với các chủ thể khác

 

a). Về chức năng quản lý nhà nước. Các nước trên thế giới tập trung vào hoàn thiện các nội dung sau :

 

- Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách phù hợp với đặc điểm của nền nông nghiệp làm nền tảng pháp lý cho sự hoạt động và phát triển của các chủ thể trong nông nghiệp : Kinh tế hộ nông dân, HTX, các doanh nghiệp nông nghiệp, các đơn vị cung ứng dịch vụ, phát triển khoa học công nghệ và đào tạo nhân lực..., trong đó có nội dung về sở hữu, quyền tài sản, đất đai, quyền sản xuất kinh doanh, bảo hộ sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích thỏa đáng cho các hộ nông dân và các chủ thể khác...Đặc biệt ở các nước rất quan tâm và coi trọng hoàn thiện các đạo luật liên quan đến bảo vệ hoạt động của kinh tế hộ nông dân và HTX (nhiều nước ban hành các luật HTX riêng cho từng ngành; ở Mỹ năm 1922 ban hành Đạo luật Copprwalstad, theo đó các chủ nông trại và hợp tác xã được nằm ngoài phạm vi tác động của các luật chống các tờrớt, tạo ra khả năng xây dựng các hợp tác xã ngành...).

 

- Ban hành khung khổ pháp lý và cơ chế chính sách cho các hình thức và hoạt động hợp tác – liên kết sản xuất kinh doanh phù hợp với đặc điểm của nền nông nghiệp, của từng lĩnh vực ,từng sản phẩm... nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nhằm đảm bảo sản xuất phát triển và bền vững. Ban hành các quy định pháp luật điều tiết các quan hệ cho thuê và thuê trong nông nghiệp (như đất đai, lao động, cơ sở vật chất nông trại...).

 

-  Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển nông nghiệp nói chung và từng lĩnh vực, từng sản phẩm nói riêng để định hướng và điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trên cả nước và trong từng khu vực.

 

-  Ban hành khung khổ pháp lý cho hoạt động đặc thù của thị trường hàng hóa nông sản, cho sự vận động và lưu chuyển của các yếu tố sản xuất trong nông nghiệp (đất đai, lao động, vốn, các tư liệu sản xuất, các dịch vụ...), với sự điều tiết hợp lý và hiệu quả của Nhà nước.

 

- Ban hành khung khổ pháp lý và cơ chế chính sách về bảo hiểm và bảo hộ sản xuất kinh doanh phù hợp với đặc điểm của nông nghiệp nói chung và từng lĩnh vực nói riêng.

 

- Hoàn thiện hệ thống bộ máy quản lý nhà nước phù hợp với đặc điểm của lĩnh vực nông nghiệp (ví dụ ở các nước có Cục HTX rất mạnh để thực hiện quản lý nhà nước và hỗ trợ rất có hiệu quả cho các hộ nông dân và các HTX, thảo ra các chương trình giảng dạy và đào tạo các nhân viên quản lý hợp tác xã; thành lập câu lạc bộ giúp hàng triệu con em các nông trại học cách làm việc tự lập trong nông trại...).

 

b). Về chức năng là “Đối tác” hỗ trợ phát triển. Ở các nước Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:

 

- Đầu tư của Nhà nước cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho nông dân, nông nghiệp, nông thôn.

 

- Thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các chủ thể tham gia sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, trước hết là cho các hộ nông dân và các HTX (về vốn, tín dụng, thuế...); trợ giá cho nông dân, giúp họ có mức thu nhập không dưới mức trung bình và giúp họ cải tạo đất, cũng như khắc phục khó khăn khi gặp thiên tai...

 

- Phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ hoạt động theo cơ chế không vì lợi nhuận phục vụ trong nông nghiệp (dịch vụ về giống, về khoa học - công nghệ - kỹ thuật, về thị trường, xuất nhập khẩu, kiểm toán...)

 

-  Phát triển hệ thống các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học - công nghệ, các trung tâm thực nghiệm phục vụ cho phát triển nông nghiệp - nông thôn ( Ở Mỹ ngay từ 1862 Quốc hội Mỹ đã ban hành luật quy định mỗi bang phải có ít nhất một trường đại học nông nghiệp, năm 1882 đưa ra luật quy định tổ chức các trạm thí nghiệm nông nghiệp trong các trường đại học đó, và các chủ nông trại được đào tạo bài bản tại đây, sau khi ra trường vẫn thường xuyên nhận được những thông tin cần thiết của các trường (thường là không mất tiền); Công tác nghiên cứu khoa học trong ngành nông nghiệp của Mỹ được chính phủ liên bang và chính quyền các bang tổ chức, tiến hành và tài trợ. Hơn nữa những kết quả nghiên cứu khoa học được cung cấp cho các chủ trang trại không phải trả tiền. Những trường chuyên ngành được xây dựng và phải chịu trách nhiệm về sự phát triển tiến bộ kỹ thuật ở các trang trại. Đồng thời hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học và các trung tâm - trạm thực nghiệm của các hãng và công ty tư nhân cũng cung cấp những thông tin cần thiết cho các chủ nông trại. Để phục vụ các chủ nông trại, người ta phát hành một số lượng lớn các sách báo tạp chí chuyên ngành theo tất cả các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tổ chức và quản lý ngành sản xuất này. Tại Mỹ, máy tính cá nhân của mỗi nông trại có thể nối vào mạng lưới thông tin quốc gia để qua đó nhận được các thông tin mới nhất và tin cậy về mọi lĩnh vực liên quan.  Tại các nước khác đã thành lập các cơ sở chuyên đào tạo cán bộ quản lý HTX).

 

Kinh nghiệm của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến và hiệu quả cho thấy rằng ba yếu tố chủ yếu tạo nên một nền nông nghiệp phát triển cao và có hiệu quả là : các nông trại phát triển hiện đại, hợp tác xã tự nguyện và có hiệu quả của các nông trại, và sự trợ giúp về mọi mặt của Nhà nước.

(Còn tiếp)

PGS.TS Trần Quốc Toản

                                            Chuyên gia cao cấp

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết