Kế thừa tinh thần các kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng coi “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”[1]. Trên tinh thần nhiệm vụ trọng tâm này, Đại hội XIII đề ra một số giải pháp xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Đó là các giải pháp định hướng cơ bản sau:
Một là, trên cơ sở tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần tập trung “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”[2]. Đây vừa là nhiệm vụ quan trọng nhất vừa là giải pháp hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi lẽ, nhà nước của chúng ta không thực hiện tam quyền phân lập mà thực hiện nguyên tắc phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây vừa là nhiệm vụ trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài. Bởi lẽ, chỉ trên cơ sở phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước chúng ta mới bảo đảm được trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không xảy ra tình trạng lạm quyền, lộng quyền hay buông lỏng quyền lực. Như vậy thì Nhà nước mới được tổ chức và hoạt động theo tinh thần pháp quyền, quyền lực của nhân dân mới được bảo đảm trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Để thực hiện tốt giải pháp này cần tổ chức thực hiện một số biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất,“Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”[3]. Đồng thời, “Đẩy nhanh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013”[4]. Bởi lẽ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý, điều hành cũng như kiến tạo phát triển phải trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Thiếu các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp thì nhà nước sẽ không có cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng quản lý điều hành cũng như chức năng kiến tạo phát triển.
Thứ hai, “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”[5]. Khi xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước thì sẽ khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp nhưng lại bỏ sót chức năng nào đó của các cơ quan nhà nước. Đồng thời, khi ấy chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng như chức năng quản lý, điều hành, chức năng kiến tạo phát triển sẽ rõ ràng, rành mạch không chồng chéo, không cản trở nhau, ngược lại, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Trên cơ sở đó phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Bởi lẽ, quản lý phát triển xã hội một nghĩa nào đó là phải giải quyết tốt quan hệ Nhà nước (quản trị công) - thị trường (quản trị theo quy luật kinh tế thị trường) - xã hội (quản trị bằng cách lôi kéo người dân, xã hội tham gia). Ba hình thức quản lý này bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Nhưng để giải quyết tốt quan hệ này thì phải dựa trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ cũng như quyền hạn của các cơ quan nhà nước.
Thực hiện được các biện pháp trên sẽ góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển của nhà nướcpháp quyền xã hội chủ nghĩa. Qua đó, góp phần xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.
Hai là, “Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật”[6]. Định hướng giải pháp này xuất phát từ thực tế những hạn chế trong xây dựng nhà nước mà Đại hội XIII đã chỉ ra “Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe”[7]. Để đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu quả, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật có hiệu quả, Đại hội XIII đề ra một số các biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, “tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao”[8].
Thứ hai,trên cơ sở đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới[9]. Rõ ràng là trên cơ sở hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định,v.v.. như vậy thì việc việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật mới đạt kết quả. Trên cơ sở đó thì việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động mới thành công.
Thứ ba, nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường. Tất nhiên, nhà nước cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chủ động điều tiết các tác động tiêu cực của thị trường nhưng không can thiệp làm sai lệch các quy luật thị trường[10]. Nghĩa là, nhà nước phải giải quyết tốt quan hệ nhà nước và thị trường, tránh rơi vào “nhà nước tối thiểu” trong cơ chế thị trường tự do, nhưng cũng không được rơi vào “nhà nước tối đa” trong cơ chế kinh tế tập trung bao cấp. Muốn vậy phải tuân thủ nguyên tắc là nhà nước điều hành, quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường.
Thực hiện tốt ba biện pháp này sẽ đẩy mạnh được việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật của nhà nước. Trên cơ sở đó xây dựng, hoàn thiện được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động.
Ba là, “Nâng cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội”[11]. Chúng ta đều biết, nhìn chung hệ thống pháp luật, thể chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta chưa thật hoàn thiện toàn diện nhưng cũng đủ tạo điều kiện cho nhà nước nâng cao năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, mặc dù còn yếu ở khâu tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách. Do vậy, nâng cao cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội là một định hướng giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để nâng cao cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội XIII xác định cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung đầu tư cơ sở vật chất, các điều kiện cần thiết để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật[12].
Thứ hai, chú trọng quản lý phát triển xã hội, thực hiện ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường[13]. Chúng ta đều rõ, một trong những chức năng quan trọng của Nhà nước ta là quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong từng chính sách phát triển. Thực hiện tốt chức năng này mới có cơ sở thực hiện tốt chức năng kiến tạo phát triển. Đảng và Nhà nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như một công cụ, phương tiện thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do vậy, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm tới an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường. Cũng vì vậy, trong các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn có sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội; gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường trong từng bước và từng chính sách phát triển. Đồng thời thực hiện phân phối công bằng, ngoài phân phối theo quy luật kinh tế thị trường như theo kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh, theo đóng góp vốn và các nguồn lực khác còn thực hiện phân phối theo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Vì vậy, thực hiện tốt giải pháp này góp phần giải quyết tốt quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội. Trên cơ sở đó nâng cao được năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, để góp phần xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.
Thứ ba, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh kinh tế; thực hiện tốt chức năng quản lý, phát triển mạnh nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, thực hiện đúng, tốt chức năng chủ sở hữu đối với doanhh nghiệp nhà nước[14]. Rõ ràng là nếu kinh tế không ổn định thì không thể phát triển được. Hơn nữa, để phát triển đất nước phải có nguồn nhân lực, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Những chức năng này đều thuộc chức năng quản lý, điều hành của nhà nước. Nếu thực hiện chức năng quản lý, điều hành những vấn đề này tốt mới tạo cơ sở, điều kiện tiền đề để xây dựng được nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao[15]. Rõ ràng, Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển không thể là nhà nước có bộ máy cồng kềnh, quản trị lạc hậu, cung cấp dịch vụ công phức tạp, kém chất lượng. Do vậy, đây là biện pháp quan trọng để nâng cao năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời đẩy mạnh chuyển giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công, kiểm soát độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng[16].
Thực hiện tốt bốn biện pháp trên sẽ từng bước nâng cao được năng lực tổ chức có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó tăng cường hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.
Bốn là, “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả”[17]. Giải pháp này bắt nguồn từ thực trạng cải cách hành chính mà Đại hội XIII đã tổng kết chỉ ra rằng cải cách hành chính chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước[18]. Để thực hiện hiệu quả giải pháp này, Đại hội XIII đề ra nhiệm vụ thực hiện bốn biện pháp cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia. Hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền các cấp gắn với tinh giản biên chế, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả[19].
Thứ hai, đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với tăng cường kiểm soát quyền lực[20].
Thứ ba, trên cơ sở phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, bộ, ngành với địa phương; khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Chính phủ tập trung vào quản lý vĩ mô, nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Tăng cường năng lực dự báo và khả năng dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế[21].
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt. Tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhẳm xây dựng và vận hành các mô hình chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả[22].
Thứ năm, mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Phát huy dân chủ để phát huy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của các cấp, các ngành, các địa phương nhưng phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật, tăng cường kiểm tra, giám sát quyền lực trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ sáu,“nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển”[23]. Chúng ta đều rõ quản lý, điều hành là chức năng vốn có của bất kỳ nhà nước nào, còn khi nói đến năng lực kiến tạo phát triển là muốn nói đến năng lực chủ động, tích cực tham gia, dẫn dắt, tạo lập, khuyến khích, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bằng trách nhiệm, uy tín, bằng cơ chế, chính sách, bằng môi trường cạnh tranh lành mạnh mà nhà nước tạo lập ra. Để xây dựng được nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động thì trước hết phải nâng cao được năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển. Hai năng lực quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển không đối lập nhau mà bổ sung cho nhau, đòi hỏi ở nhau, thúc đẩy cùng nhau và đòi hỏi nhà nước pháp quyền phải trong sạch, vững mạnh.
Thực hiện tốt sáu biện pháp này sẽ xây dựng được nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Trên cơ sở đó việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động sẽ hiệu quả.
Năm là, “Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[24]. Chúng ta đều rõ, nền tư pháp xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích chính đảng, hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Do vậy, xây dựng được nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân sẽ góp phần trực tiếp vào xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.
Để thực hiện tốt giải pháp này, Đại hội XIII yêu cầu thực hiện tốt các biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Muốn vậy, cần phát triển các hoạt động dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại, bảo vệ người tiêu dùng[25].
Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hiệu qảu hoạt động và uy tín của toàn án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp[26].
Thực hiện tốt ba biện pháp này sẽ xây dựng được nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trên cơ sở đó sẽ xây dựng, hoàn thiện từng bước nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động.
Sáu là, “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng”[27]. Rõ ràng là, đội ngũ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động. Do vậy, đây là giải pháp rất quan trọng. Để thực hiện được giải pháp này, Đại hội XIII yêu cầu thực hiện tốt các biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, cùng với có quy định rõ ràng về trách nhiệm của người đứng đầu thì cần có cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao; tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đồng thời cũng phải có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, mất uy tín trước nhân dân[28].
Thứ hai, cải cách cơ bản chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức, cũng như chế độ chính sách đãi ngộ, tạo điều kiện, môi trường làm việc để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, phục vụ phát triển[29]. Trong điều kiện đất nước còn khó khăn nhưng chúng ta vẫn phải tạo điều kiện tốt nhất về điều kiện vật chất, tinh thần để cán bộ, công chức, viên chức sáng tạo trong công việc.
Thứ ba, kiên trì, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Bởi vì, đúng như Đại hội XIII đã đánh giá “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”[30]. Do vậy, kiên trì, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả phòng, chống tham nhũng, đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là một trong những biện pháp quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra. Để thực hiện tốt biện pháp này, Đảng, Nhà nước chủ trương không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí[31].
Thực hiện tốt bốn biện pháp này sẽ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng. Trên cơ sở đó, xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động.
Như vậy, Đại hội XIII của Đảng trên tinh thần kế thừa các kỳ đại hội trước đã định hướng sáu giải pháp xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Thực hiện đồng bộ sáu giải pháp này trên thực tế, chúng ta sẽ từng bước thực hiện được mục tiêu đề ra góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh toàn diện.
GS.TS Trần văn Phòng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
[1] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.174.
[2]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.174-175.
[3]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.175.
[4] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.284.
[5] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.283-284.
[6] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.285.
[7] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.89.
[8]ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.175.
[9] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.285.
[10] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.285.
[11] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.285.
[12]Xem:ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.179.
[13] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.285.
[14] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.285-286.
[15] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.286.
[16] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.286.
[17] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.286.
[18] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.89-90.
[19] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.286-287.
[20] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.287.
[21] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.287.
[22] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.178.
[23] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.284.
[24] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.287.
[25] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.287.
[26] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.177-178.
[27] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.288.
[28] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.179, 285.
[29] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.179, 288.
[30] ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.93.
[31] Xem: ĐCSVN: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.288-289..