II. Những kết quả chủ yếu và những vấn đề đặt ra về phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ đối với Việt Nam
1. Những kết quả chủ yếu
Trong gần 40 năm đổi mới, với đường lối của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập - tự chủ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhìn tổng thể, năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế ngày càng được nâng cao, thể hiện trên một số phương diện chủ yếu sau:
i). Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 224 đối tác và quan hệ hợp tác với hơn 500 tổ chức quốc tế, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, đàm phán, ký kết và thực thi 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có một số FTA thế hệ mới với những chuẩn mực cao. Đặc biệt, Việt Nam đã trở thành một trong những nước đi đầu của khu vực trong hợp tác kinh tế đa phương.
ii). Tăng trưởng kinh tế được duy trì liên tục, đạt trung bình hơn 7%/năm trong giai đoạn 2000-2010; 5,91% giai đoạn 2011-2015; 6,57% giai đoạn 2016-2018. Việt Nam đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). Sau gần 3 năm bị tác động mạnh của đại dịch Covid - 19 (2019-2021), năm 2022 nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi tăng trường, dự báo có thể đạt hơn 7%.
iii). Quy mô và tiếm lực kinh tế ngày càng được nâng lên; GDP năm 2019 đạt trên 267 tỷ USD, tăng gần 2 lần so vói năm 2011; quy mô GDP Việt Nam năm 2021 đạt 368 tỷ USD (theo cách tính mới có điều chỉnh của Tổng cục Thống kê).
iv). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hưởng tích cực, năng lực sản xuất không ngừng tăng lên. Giai đoạn 2011-2020, tỷ trọng kinh tế Nhà nước giảm dần, tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước không ngừng tăng lên (đến năm 2020, tỷ trọng kinh tế do DNNN đóng góp khoảng 29 - 30% GDP và 28% tổng ngân sách nhà nước; DNTN đóng góp khoảng dưới 10% GDP; Doanh nghiệp FDI đóng góp khoảng 20% GDP; kinh tế tư nhân, cá thể, tập thể đóng góp khoảng 30% GDP).
v). Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, năng lực chống chịu được nâng cao hơn - thể hiện rõ tính độc lập - tự chủ ngày càng nâng lên trong quá trình hội nhập quốc tế; được thể hiện rõ qua việc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội dưới tác động nghiêm trọng, sâu rộng của đại dịch Covid - 19 và chiến tranh thương mại giữa các nước lớn. Chỉ số giá tiêu dùng duy trì ở mức dưới 4% trong giai đoạn 2016-2019; năm 2022 ở mức khoảng dưới 3%. Mặt bằng lãi suất giữ tương đối ổn định trong bối cảnh khu vực và quốc tế có nhiều biến động. Thị trường ngoại tệ tương đối ổn định, thanh khoản ngoại tệ hệ thống tốt. Quy mô dự trữ ngoại hối tăng cao, năm 2020 đạt khoảng hơn 80 tỷ USD, gấp gần 6 lần so với năm 2011.
Quy mô thu ngân sách nhà nước ngày càng tăng, năm 2018 tăng gấp gần 2 lần so với năm 2011. Cân đối thu, chi ngân sách nhà nước dần được cải thiện, bội chi ngân sách nhà nước so với GDP đã giảm từ 6,61% năm 2013 xùống còn 3,46% năm 2018. Quy mô tổng vốn đầu tư toàn xã hội ngày càng được nâng lên; giai đoạn 2016-2018, tỷ lệ tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt mức 33-34%. Hiệu quả đầu tư có bước cải thiện.
vi). Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện; vị trí của Việt Nam trong Bảng xếp hạng Môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới được cải thiện đáng kể (trong 190 nền kinh tế được đánh giá năm 2020, Việt Nam đạt 69,8 điểm trên 100). Môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện tốt hơn, đảm bảo tính ổn định chính trị - xã hội, là điều kiện để mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển.
vii). Năng xuất lao động không ngừng được nâng lên. Trong giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội và tỷ trọng đóng góp của TFP trong tăng trưởng có xu hướng tăng nhanh; từ năm 2016 trở lại đây tăng năng suất lao động xã hội dao động quanh mức 6% và tỷ trọng đóng góp của TFP trong tăng trưởng cũng dao động quanh mức gần 40%.
viii). Lực lượng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển. Hiện nay cả nước có khoảng hơn 700 nghìn doanh nghiệp hoạt động, gấp 2,15 lần so với năm 2011. Doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI) phát triển mạnh. Đã hình thành và phát triển một số tập đoàn kinh tế tư nhân có thương hiệu và năng lực cạnh tranh trong nước, khu vực và quốc tế. Đầu tư FDI vào Việt Nam ngày càng tăng; tính lũy kế đến ngày 20/12/2020, cả nước có 33.070 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 384 tỷ USD; vốn thực hiện ước đạt 231,86 tỷ USD. Quy mô KTNN tiếp tục tăng lên; DNNN được đẩy mạnh đổi mới, cơ cấu lại, cổ phần hóa, chất lượng, hiệu quả được nâng lên hơn; đóng vai trò “chủ lực” trong một số ngành, lĩnh vực trọng yếu (Điện, dầu khí, khai khoáng, thông tin - viễn thông, giao thông - vận tải, ngân hàng…).
ix). Quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế có bước phát triển mạnh. Quy mô xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng nhanh, cơ cấu mặt hàng xuất, nhập khẩu có chuyền biến tích cực. Quy mô xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng nhanh, đến năm 2019, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt trên 517 tỷ USD, gấp 2,54 lần năm 2011. Dự kiến trong năm 2022 kinh ngạch xuất nhập khẩu có thể đạt mốc 800 tỷ USD. Đến năm 2019 đã có 32 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD). Thương mại nội địa tiếp tục phát triển, quy mô tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 2019 đạt 4940,4 nghìn tỷ đồng, gấp 2,38 làn năm 2011, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2019 đạt 12,75%.
Thực hiện đường lối "độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hỏa quan hệ đối ngoại", Việt Nam đã không ngừng "mở rộng" và phát triển quan hệ với hầu hết các quốc gia, tổ chức trên toàn thế giới; từng bước đưa quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả, nhất là với 8 đối tác chủ chốt gồm: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ẳn Độ, Nga, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên minh Châu Âu (EU). Trong số 08 đối tác nêu trên, có 3/5 nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, 7/20 nước thuộc nhóm G20, 2/7 nước thuộc nhóm G7. Các đối tác này chiếm hơn 78% GDP toàn cầu; 6/8 đối tác nêu trên đồng thời là 06 thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, chiếm trên 78% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, gần 70% vốn FDI và cũng là những đối tác viện trợ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nhiều nhất cho Việt Nam. Trong số các đổi tác nêu trên, có 05 đối tác chiến lược, gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga; 01 đối tác đối tác toàn diện là Mỹ; 02 tổ chức khu vực là ASEAN và EU. Nhìn chung, quan hệ hợp tác của Việt Nam với các đối tác chủ chốt nêu trên trong nhiều nội dung đã được triển khai hiệu quả, thực chất, góp phần giữ vững môi trường hòa bình ổn định, huy động các nguồn lực cho phát triển và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
2. Những vấn đề đặt ra về phương diện năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế
i) - Những nhận thức, quan điển quan trọng của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập - tự chủ, về vai trò, vị trí của KTNN, DNNN trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế chưa được quán triệt sâu sắc, đầy đủ; nhiều nội dung chậm được cụ thể hóa, thể chế hóa thành hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt và có hiệu quả cao. Nội hàm của khái niệm “độc lập - tự chủ của nền kinh tế” cũng chưa được làm rõ đầy đủ trên tổng thể nền kinh tế cũng như trong từng ngành, từng lĩnh vực. Trong thực tiễn vẫn còn nhiều ảnh hưởng của tư duy cũ mang dấu ấn của thể chế tập trung quan liêu bao cấp; nhìn nhận về vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế chưa thực sự khách quan, phù hợp với thực tiễn, với mục tiêu phát triển, có những mặt mâu thuẫn (như xác định DNNN đóng vai trò “chủ đạo, chủ lực, then chốt” trong xây dựng nền kinh tế độc lập - tự chủ, nhưng trong quá trình đổi mới và tái cơ cấu, số lượng DNNN đã giảm đi đáng kể, đồng thời tỷ trọng đóng góp vào GDP cũng giảm dần, nay còn khoảng 30%, cho rằng đó là phù hợp xu thế phát triển).
ii). Tiềm lực của nền kinh tế được nâng lên, nhưng quy mô còn nhỏ bé so với dân số gần 100 triệu người, nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế nước ta vẫn còn hiện hữu, thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau:
- Về tăng trưởng kinh tế: Từ năm 2008 Việt Nam chính thức trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp với GDP bình quân đầu người đạt 1.145 USD; năm 2021 đạt 3.7432 USD/người. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam vẫn tiếp tục thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, chỉ ngang bằng mức GDP bình quân đầu người của Ma-lai-xi-a năm 1990; Thái Lan năm 2003; In-đô-nê-xi-a năm 2009; Phi-li-pin năm 2011 và Hàn Quốc thập niên 80 của thế kỷ trước[1]. Nếu so với Trung Quốc, với xuất phát điển năm 1978 GDP bình quân của Việt Nam và Trung Quốc đều ở mức 156 USD/người; đến năm 2021, GDP bình quân của Việt Nam đạt 3.743 USD/ người, nhưng của Trung Quốc đã tăng lên tới 12.551 USD/ người, tiệm cận với mức “quốc gia có thu nhập cao” (> 12.695 USD/người). Cách đây 30 năm, GDP bình quân đầu người của thế giới hơn Việt Nam 3.900 USD, đến nay khoảng cách đã là hơn 8.000 USD (năm 2017 là khoảng 8.300 USD, năm 2018 là 8.400 USD), hơn gấp đôi, và khoảng cách này vẫn tăng qua các năm.
- Về chất lượng tăng trưởng và hiệu quả kinh tế còn thấp và thiếu bền vững, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Theo Tổng cục Thống kê, chi phí đầu vào cho sản xuất của Việt Nam có xu hướng tăng dần qua các năm. Tỷ lệ chi phí trung gian[2] so với giá trị sản xuất của toàn bộ nền kinh tế năm 2017 ước tính là 68%. Trong nhiều năm qua, nền kinh tế vận hành theo mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào yếu tố vốn, tài nguyên và lao động giá rẻ, trình độ thấp. Việc sử dụng vốn hiện nay còn lãng phí, thất thoát, nên hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hệ số ICOR hiện nay vẫn còn hơn
6,0[3], cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
- Về năng suất lao động: NSLĐ của Việt Nam thời gian qua có sự cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực: Tính theo PPP 2011, NSLĐ của Việt Nam năm 2017 đạt 10.232 USD, chỉ bằng 7,2% mức năng suất lao động của Xingapo; 18,4% của Ma-lai-xi-a; 36,2% của Thái Lan; 43% của In-đô-nê-xi-a và bằng 55% của Phi-li-pin. Đáng chú ý là chênh lệch về mức NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng[4]. Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước.
- Về cơ cấu kinh tế: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm qua diễn ra đúng hướng; nhưng so với các nước trong khu vực, quá trình chuyển dịch còn chậm và khoảng cách khá xa so với yêu cầu của một nước công nghiệp (năm 2021 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%). Với tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế như hiện nay, phải mất khoảng gần 10 năm nữa thì Việt Nam mới giảm được tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản bằng với Thái Lan giai đoạn hiện nay (khoảng 8%). Đặc biệt, sau mấy chục năm tiến hành công nghiệp hóa, chúng ta chưa xây dựng được nền công nghiệp dân tộc hiện đại, đủ mạnh để làm nền tảng cho phát triển nhanh - bền vững đất nước.
- Về năng lực đổi mới, sáng tạo: Năm 2018, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới công bố xếp hạng về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII (đánh giá về trình độ công nghệ của 126 quốc gia và vùng lãnh thổ), Việt Nam xếp thứ 45 thế giới, sau Xingapo (xếp thứ 5 trong nhóm dẫn đầu), Ma-lai-xi-a (35) và Thái Lan (44). Tính sẵn có về công nghệ mới của Việt Nam đã tăng từ vị trí 133/142 trong năm 2011-2012 lên vị trí 112/144 năm 2017-2018, nhưng thấp hơn rất nhiều so với Ma-lai-xi-a (vị trí 35), Thái Lan (56), In-đô-nê-xi-a (67), Phi-li-pin (73) và thấp hơn cả Campuchia (93). Xếp hạng về khả năng tiếp nhận công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục tụt dốc, từ xếp hạng 88 năm 2011-2012 xuống vị trí 93 trong năm 2017-2018, là quốc gia được xếp hạng có vị trí thấp nhất trong khu vực ASEAN, trong đó Ma-lai-xi-a xếp thứ 17, Phi-li-pin 51, In-đô-nê-xi-a 39, Thái Lan 42 và Campuchia 90.
Về hiệu quả và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI, năm 2017 -2018 Việt Nam xếp thứ 89, giảm 27 bậc so với năm 2011-2012, trong khi Xingapo xếp thứ 2, Ma-lai-xi-a 13, Thái Lan 40, In-đô-nê-xi-a 44, Campuchia 54, Hàn Quốc 55, Phi-li-pin 63. Về hiệu quả đổi mới, năm 2017-2018 Việt Nam xếp thứ 79 (tụt 21 bậc so với hạng 58 của năm 2011-2012), thấp hơn Ma-lai-xi-a (xếp thứ 14), Xingapo (20), In-đô-nê-xi-a (31), Phi-li-pin (45), Thái Lan (69), chỉ cao hơn Campuchia (107).
Nhìn tổng thể, nền kinh tế Việt Nam (nội địa) còn đang ở trình độ công nghệ thấp và trung bình là chủ yếu; chưa sở hữu và làm chủ được nhiều các nền tảng công nghệ cao trong sản xuất kinh doanh và hội nhập quốc tế.
iii). Về phát triển các thành phần kinh tế và vai trò của KTNN, DNNN: Trong 10 năm qua, các thành phần kinh tế đều có sự phát triển đáng kể, song vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhìn nhận tổng quát, cấu trúc các thành phần kinh tế còn những mặt bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; các thành phần kinh tế chưa phát huy thật sự hiệu quả vai trò khách quan của mình trong kinh tế thị trường; sự liên kết giữa các thành phần kinh tế (nhất là giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước) còn hạn chế, hiệu quả không cao.
Nhìn tổng thể, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế tuy có được nâng lên, nhưng còn chậm; hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước thấp hơn khá nhiều so với các doanh nghiệp FDI, nhất là về các chỉ số: quay vòng vốn, hiệu xuất sinh lợi (xem bảng sau).
Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của DN năm 2018
| H.suất sử dụng lao động (lần) | Chỉ số nợ (lần) | C.số quay vòng vốn (lần) | H.suất sinh lợi trên tài sản ROA (%) | H.suất sinh lợi / vốn chủ sở hữu ROE (%) | H.suất sinh lợi / doanh thu thuần- ROS (%) |
| | | | | |
Toàn bộ doanh nghiệp | 15,3 | 20,1 | 0,6 | 2,4 | 7,6 | 3,8 |
Phân theo loại hình DN | | | | | | |
+ Khu vực DNNN | 20,0 | 0,4 | 0,4 | 2,0 | 8,9 | 5,6 |
Trong đó: DN 100% vốn NN | 21,3 | 0,3 | 0,5 | 2,2 | 7,3 | 5,0 |
+ Khu vực DN ngoài NN | 16,1 | 0,9 | 0,7 | 1,6 | 4,5 | 2,4 |
+ Khu vực DNFDI | 12,6 | 0,7 | 1,0 | 5,8 | 15,4 | 5,6 |
Nguồn TCTK
Xét về vai trò của các khu vực kinh tế đối với sự phát triển về ba phương diện chủ yếu đóng góp vào GDP, sử dụng vốn đầu tư phát triển và giải quyết việc làm (theo bảng sau), trong giai đoạn năm 2000 - 2020 cho thấy: đóng góp vào GDP và giải quyết việc làm của DNNN giảm dần; còn của khu vực ngoài nhà nước về hai chỉ số này có đóng góp lớn nhất. Nếu coi vai trò chủ đạo là phải có tỷ trọng lớn nhất đóng góp trong GDP, thì KTNN, DNNN đã không thực hiện có hiệu quả vai trò này.
Trong khu vực KTNN, Nhà nước đang nắm giữ một khối lượng và giá trị rất lớn tài sản công (gồm đất đai, tài nguyên khoảng sản, bất động sản, ngân sách…), nhưng việc quản lý, sử dụng đang còn nhiều bất cập, yếu kém, lãng phí, hiệu quả không cao; thậm chí có nhiều tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, kéo dài[5]. Sự phát triển của khu vực KTNN, DNNN đang cho thấy những “sắc thái” trái chiều: Một mặt, mặc dù chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ về số lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế (khoảng 0,08% số doanh nghiệp hoạt động của cả nước), nhưng DNNN đóng góp 28% tổng số thuế và các khoản phải nộp NSNN, đóng góp khoảng 29% GDP. Các DNNN đang chiếm thị phần rất lớn trong một số lĩnh vực như năng lượng, viễn thông, ngân hàng…Mặt khác, DNNN lại được đang nắm giữ nguồn lực lớn của nền kinh tế (khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ doanh nghiệp trên thị trường, chiếm khoảng 25,78% tổng vốn sản xuất, kinh doanh và 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp đang hoạt động). Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ: KTNN, DNNN tuy đã đạt được một số kết quả quan trọng, song hoạt động và đóng góp của khối DNNN trong thời gian qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, nhất là nguồn lực đang nắm giữ và thị trường đang chi phối. Các tập đoàn, tổng công ty về cơ bản chưa thực hiện được vai trò dẫn dắt, tạo động lực đối với nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của các DNNN vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu là lực lượng nòng cốt của kinh tế Nhà nước. Đáng chú ý, nhiều DNNN còn thiếu tầm nhìn chiến lược phát triển dài hạn, nhất là hạn chế tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
Chính phủ cũng đã thẳng thắn chỉ ra những yếu kém của DNNN[6]: Vai trò dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác chưa được phát huy rõ nét. Năng lực đổi mới sáng tạo còn hạn chế, đặc biệt trong các ngành có khả năng dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế như các công nghệ lõi, công nghệ số trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; các ngành năng lượng mới, năng lượng sạch; các ngành chứa đựng giá trị khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo cao...Hiệu quả hoạt động của khu vực DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, nguồn lực đầu tư giảm dần. Các DNNN chưa liên kết chặt chẽ với nhau, chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp tư nhân, trong đó có các doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị. Công tác cổ phần hóa, thoái vốn còn chậm so với tiến độ đề ra, việc cơ cấu lại DNNN vẫn chưa mang tính toàn diện và đi vào thực chất. Công tác đổi mới quản trị doanh nghiệp còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu biến động của thị trường. Công tác quản lý đầu tư, quản lý tài chính, quản lý rủi ro, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, thất thoát còn lỏng lẻo; chi phí sản xuất kinh doanh còn lớn, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao…”.
Trong Báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội (10/2022) về đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp năm 2021, đã nêu rõ: hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước chưa xứng với nguồn lực nắm giữ, vẫn còn nhiều doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn, tổng công ty làm ăn thua lỗ, hầu hết doanh nghiệp nhà nước tăng nợ phải thu, nợ phải trả, khó đòi...Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là do “Tư duy, nhận thức về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước chưa thống nhất, dẫn tới lúng túng khi hoàn thiện thể chế, thực hiện”. Ngoài ra, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp chưa cao, chưa quyết liệt trong đổi mới, chống lợi ích nhóm khi cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước...”. Những hạn chế, yếu kém, bất cập trên, đã làm cho KTNN, DNNN chưa thực sự làm tốt vai trò “chủ đạo”, “then chốt” trong việc nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là quản lý nhà nước bị buông lỏng trong một thời gian dài; pháp luật, chính sách, cơ chế quản lý tài sản công chậm được đổi mới đồng bộ, đầy đủ; thể chế kiểm soát quyền lực và phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý và sử dụng tài sản công chưa được hoàn thiện đồng bộ; thể chế thực thi chưa hoàn thiện và chưa được thực hiện nghiêm túc, công khai, minh bạch.
iv). Về phát triển lực lượng doanh nghiệp: Lực lượng doanh nghiệp đóng vai trò chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế, hiện thực hóa tính độc lập - tự chủ của nền kinh tế, trong những năm qua đã có bước phát triển đáng kể về số lượng; cho đến nay cả nước có khoảng gần 800 nghìn doanh nghiệp hoạt động (tuy nhiên cho đến nay số lượng doanh nghiệp đang hoạt động bình quân cả nước mới có 8,3 doanh nghiệp trên 1.000 dân[7], thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực). Trong đó lĩnh vực dịch vụ chiếm 67,1%. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng - 31,6%, lĩnh vực nông nghiệp - 1,3%. Việc số doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ chiếm gần 70% không có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam đã chuyển mạnh lên nền kinh tế dịch vụ trình độ cao; mà cho thấy đa số các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại, không đầu tư cho phát triển sản xuất dài hạn - trụ cột chủ yếu để phát triển bền vững của nền kinh tế.
Hơn nữa, trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, số doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ và nhỏ có số lượng lớn nhất và chiếm tỷ lệ cao nhất (khoảng 63% và 31%). Trong tổng số doanh nghiệp toàn quốc, số đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 68,7%; trong đó: số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 42,7%; số doanh nghiệp kinh doanh hòa vốn - 7,5%; số doanh nghiệp kinh doanh lỗ - 49,7%.
Nhìn tổng thể, lực lượng doanh nghiệp trong nước chưa mạnh, tiềm lực mọi mặt (quy mô, vốn, công nghệ, nhân lực, trình độ quản lý, năng lực hội nhập quốc tế…) còn nhiều hạn chế; hơn nữa chỉ có khoảng 2000 trên gần 800.000 doanh nghiệp của cả nước - tức khoảng hơn 0,2% tham gia sản xuất công nghiệp hỗ trợ, trong đó chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng đa quốc gia[8], điều này ảnh hưởng đáng kể đến việc đảm bảo và nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế.
v). Tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài về vốn, công nghệ, thị trường, do đó tiềm ẩn nhiều rủi ro vì chịu tác động bởi các yếu tố kinh tế, chính trị bên ngoài. Khu vực doanh nghiệp FDI có đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam; tuy nhiên, đang cho thấy nền kinh tế nước ta phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư nước ngoài. FDI vào Việt Nam chủ yếu khai thác lao động chi phí thấp và các ưu đãi thuế, đất đai; nhiều dự án FDI có hàm lượng công nghệ thấp, sử dụng công nghệ lạc hậu, trung bình; chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa phát triển năng lực sản xuất trong nước; trong khi ta chưa tận dụng được nhiều và có hiệu quả về chuyển giao công nghệ gắn với đào tạo nhân lực từ các doanh nghiệp FDI; các mối liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước còn thấp.
Các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 20,35% GDP, khoảng 21% giá trị vốn đầu tư toàn xã hội, trên dưới 50% sản lượng công nghiệp, 72% giá trị xuất khẩu, trong đó phần lớn là sản phẩm chế biến chế tạo (kể cả công nghệ cao) và 64% giá trị nhập khẩu của nước ta; góp phần quyết định trong xuất siêu. Nhưng về công nghệ, công nghệ Trung Quốc chiếm tới 45%, công nghệ tiên tiến của Mỹ và Tây Âu chỉ chiếm 6%. Trong khi đó, các doanh nghiệp nội địa chủ yếu chiếm lĩnh ở các phân khúc gia công, lắp ráp, chế biến thô, giá trị gia tăng thấp. Độ mở của nền kinh tế rất lớn, lên tới 200% GDP (đứng thứ 2 trong Đông - Đông Nam Á và thứ 5 toàn cầu), vì vậy nền kinh tế Việt Nam đang trở nên dễ bị tổn thương và rất nhạy cảm với các biến động từ bên ngoài, nhất là khi thay đổi cấu trúc kinh tế thế giới, trước những đột biến. Điều này được thể hiện ở chất lượng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) còn thấp: mặc dù thứ hạng về độ mở của nền kinh tế rất cao (tỷ lệ giá trị xuất khẩu tham gia vào GVC tới 62,1%, gần bằng Singapore); nhưng trong đó xuất khẩu từ các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70%; sự tham gia vào GVC của Việt Nam đến từ việc tiêu thụ sản phẩm từ bên ngoài (FVA) chiếm tới 51,1%, còn đến từ việc cung cấp sản phẩm ra bên ngoài (DVX) chỉ chiếm 11%. Các chỉ số chất lượng này kém hơn mức trung bình của ASEAN, kém hơn cả Thái Lan, Philippines, Lào, Campuchia
Xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài đến nay vẫn tập trung vào một số đối tác chính, điều này tiềm ẩn rủi ro bị phụ thuộc các đối tác này về kinh tế và chịu sức ép về những điều kiện không thuận khác. Việt Nam vẫn chịu thâm hụt thương mại lớn với một sổ đỗi tác như Trung Quốc, Hàn Quốc,... Các điều kiện liên quan đến sử dụng nhà thầu và/hoặc đầu vào nhập khẩu khi vay vốn từ nước ngoài và việc các thị trường nước ngoài hạn chế nhập khẩu từ Việt Nam thông qua các hàng rào kỹ thuật trong bối cảnh gia tăng căng thẳng thương mại và chủ nghĩa bảo hộ có thể đặt ra thêm thách thức đối với việc quản lý nhập siêu của Việt Nam với một số thị trường chủ chốt, đặc biệt là Trung Quốc.
vi). Về năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ: Nhiều sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam (do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất) còn nhiều hạn chế về chất lượng, mẫu mã, thương hiệu, xuất xứ…, với hàm lượng giá trị gia tăng không cao, năng lực cạnh tranh thấp; mức độ tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) còn hạn chế (chuỗi giá trị toàn cầu hiện chiếm tới 66% giao dịch thương mại. Nhưng, mức độ nội địa hóa của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, chỉ đạt 28% trong tổng kim ngạch thương mại, thấp hơn gần 2 lần so với Trung Quốc. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2018, Việt Nam chỉ tạo ra được 20,4 tỷ USD thông qua việc tham gia vào các GVC, xếp thứ 53 trên tổng số 174 quốc gia. Con số này chưa bằng 1/4 của Philippines với 84,8 tỷ USD (xếp thứ 34). Đồng thời, mức độ tham gia vào các công đoạn sản xuất tinh vi, phức tạp, công nghệ cao của Việt Nam vẫn còn thấp.
Việc nền công nghiệp nội địa tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu chủ yếu trong các khâu gia công - lẳp ráp; trong trong khi năng lực làm chủ công nghệ, khả năng tự chủ và tính bền vững trong sản xuất và xuất khẩu thấp, điều này cỏ thể dẫn đến tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hiện nay, công nghiệp phụ trợ, sản xuất nguyên liệu trong nước còn kém phát triển, phần lớn máy móc, thiết bị, nguyên liệu, phụ tùng đều phải nhập khẩu[9].
Từ những nội dung nêu trên, cho thấy năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế nước ta không ngừng được nâng lên, nhưng vần còn ở mức thấp; vai trò của KTNN, DNNN và cả của doanh nghiệp tư nhân đang còn nhiều yếu kém và bất cập cần được khắc phục.
III. Định hướng, giải pháp nâng cao năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế gắn với tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế
Để nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế, cần phải thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp.
1. Nâng cao nhận thức về đảm bảo năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế
Cần đẩy mạnh đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Các cấp lãnh đạo - quản lý, các chủ thể sản xuất kinh doanh cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, về nội dung cơ bản của nền kinh tế độc lập - tự chủ (như nêu ở các phần trên). Cần nhận thức đúng, đẩy đủ và sâu sắc rằng năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế phải được thể hiện ở tiềm lực kinh tế tổng thể của đất nước; trong đó có sự đóng góp chung của các thành phần kinh tế, các chủ thể sản xuất kinh doanh đều là thành tố hữu cơ của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, phát huy được cao nhất vai trò, vị trí khách quan của mình trong các điều kiện và trình độ cụ thể; hoạt động theo hiến pháp và pháp luật, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao (của nền kinh tế, của các doanh nghiệp, của các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ) được nâng lên ngang tầm thế giới và khu vực; tham gia ngày càng sâu rộng và hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Dưới sự chủ đạo của Nhà nước, phải phát triển mạnh nội lực của nền kinh tế dân tộc trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước (cả KTNN và kinh tế ngoài nhà nước, cả trong quan hệ kinh tế quốc tế và quan hệ kinh tế trong nước), trong đó KTNN và DNNN là lực lượng “vật chất” đóng vai trò “chủ lực”, với quy mô và hình thức phù hợp, trong những lĩnh vực then chốt, thiết yếu liên quan trực tiếp đến lợi ích và an ninh quốc gia, cùng với hệ thống cơ chế, chính sách, để nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo của mình; gắn hữu cơ với phát triển kinh tế đối ngoại theo phương châm “nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng”, không thể quá “dựa vào”, “phụ thuộc vào” đầu tư của nước ngoài. Trong việc xây dựng nội lực của nền kinh tế dân tộc, cần thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Hồ Chí Minh về độ lập dân tộc, khi Người nói “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”[10].
Bảo đảm xử lý tốt mối quan hệ tương hỗ về lợi ích giữa nước ta với các đối tác trên thế giới, bảo vệ tốt lợi ích quốc gia - dân tộc; xử lý hiệu quả mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích bộ, ngành, địa phương, giữa lợi ích của các chủ thể sản xuất kinh doanh và lợi ích của nhà nước, của toàn xã hội; giữa lợi ích chiến lược, lâu dài và lợi ích trước mắt; khắc phục tư duy lợi ích cục bộ, ngắn hạn.
2. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa: Công nghiệp hóa theo hướng hiện đại là động lực cốt lõi, chủ yếu để phát triển nhanh - bền vững, đưa đất nước trở thành nước phát triển, có thu nhập cao và bảo đảm năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế nước ta. Đó cũng chính là hiện đại hoá nền kinh tế dựa trên nền tảng đổi mới - sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ xanh, công nghệ thân thiện với môi trường, tận dụng có hiệu quả cơ hội do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra. Tập trung nguồn lực và cơ chế, chính sách để xây dựng nền công nghiệp quốc gia hiện đại, vững mạnh, tạo sự bứt phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế... Doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) phải vươn lên trở thành động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng, đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xây dựng và thực thi có hiệu quả thể chế mang tính vượt trội - hội nhập quốc tế
để kịp thời đón nhận và phát triển các phương thức, mô hình, hình thức kinh tế, sản xuất kinh doanh mới (đang hình thành và phát triển rất nhanh như nền kinh tế số, nền kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, ứng dụng Blockchain...), sự chuyển dịch các chuỗi cung ứng; thúc đẩy đổi mới - sáng tạo, phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào trong sản xuất kinh doanh, nhất là đối với các ngành, lĩnh vực nền tảng, chủ lực, mũi nhọn, và vào các lĩnh vực của đời sống xã hội (để không rơi vào tình trạng mãi chạy theo sau công nghệ, bị công nghệ hiện đại loại ra khỏi sân chơi). Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu, thúc đẩy chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang sáng tạo, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam; coi chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Gắn hữu cơ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường; coi bảo vệ môi trường là một giá trị trong phát triển kinh tế.
3. Đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, trọng tâm là đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng chuyển mạnh sang nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, tăng nhanh quy mô và nội lực của nền kinh tế quốc gia.
Xây dựng và thực thi có hiệu quả cơ chế, chính sách thúc đẩy mạnh chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu dựa trên đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ cao, thúc đẩy mạnh khởi nghiệp sáng tạo. Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả đổi mới cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu và nâng cao chất lượng hệ thống doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước; tái cơ cấu và nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư (nhất là hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công, sử dụng tài sản công). Xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, như một bộ phận hợp thành hữu cơ của thể chế phát triển theo chiều sâu của đất nước.
Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, gắn với phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phù hợp và hiệu quả trong từng lĩnh vực; đồng thời gắn liền với đó là nghiên cứu xây dựng và đổi mới hệ thống quan hệ sản xuất (bao gồm quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối…) phù hợp, hiệu quả, thích ứng với yêu cầu của bước phát triển cao hơn và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể, theo hướng có sự chia sẻ về trách nhiệm, quyền lợi, rủi ro... để tạo lập các chuỗi sản xuất kinh doanh, chuỗi giá trị bền vững.
4. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để thúc đẩy xây dựng nền kinh tế dân tộc mạnh trên cơ sở phát huy có hiệu quả cao vai trò khách quan, ưu thế, sức mạnh và hiệu quả của tất cả các khu vực, chủ thể và lực lượng kinh tế.
Năng lực độc lập - tự chủ của một nền kinh tế trong hội nhập quốc tế phụ thuộc một cách quyết định vào tiềm lực và sức canh tranh của cả nền kinh tế dân tộc, trong đó nội lực nền kinh tế phải đóng vai trò chủ lực. Do đó, phải đề cao, coi trọng và đẩy mạnh phát triển hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân. Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân cả về quy mô và chất lượng, phát triển theo chiều sâu, trở thành một động lực trọng yếu phát triển nền kinh tế đất nước; hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp lớn đủ sức tham gia có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để nâng cao chất lượng và hiệu quả KTNN, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản công, nguồn lực công, nhất là các tài sản có tính thương mại; kiên quyết chống thất thoát, tham nhũng, lãng phí. Cần tiến hành tổng kết, đánh giá đồng bộ kết quả công tác đổi mới, xắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn DNNN. Trên cơ sở đó tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu và hoàn thiện thể chế quản lý - quản trị DNNN, theo hướng xác định rõ vai trò, chức năng, mục tiêu của DNNN trong từng lĩnh vực và trong từng giai đoạn; trên cơ sở đó xác định rõ mục tiêu, cơ chế, chính sách để đẩy mạnh cổ phấn hóa, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động đối với từng loại DNNN. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trong đó lực lượng kinh tế nhà nước đóng vai trò quan trọng để nhà nước thực hiện tốt vai trò định hướng điều tiết của mình. Đẩy mạnh hiện đại hóa và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của DNNN, để DNNN thực hiện tốt vai trò nòng cốt, tiên phong trong những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, quan trọng về quốc phòng, an ninh, trong những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư, hoặc ít đầu tư.
Hoàn thiện thể chế để kết nối các khu vực kinh tế, các chủ thể kinh tế trở thành một thực thể hữu cơ, gắn kết với nhau, thúc đẩy phát triển mạnh nội lực nền kinh tế dân tộc, trong đó coi trọng phát triển hợp tác - đối tác công tư nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao tính độc lập - tự chủ của nền kinh tế, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào đầu tư FDI và thị trường nước ngoài.
Hoàn thiện thể chế để khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy phát triển đội ngũ doanh nhân dân tộc (trong đó có thế hệ khởi nghiệp sáng tạo) biết gắn sự phát triển và lợi ích của mình với sự phát triển và lợi ích của dân tộc, là lực lượng chủ lực góp phần quan trọng vào hội nhập và “định vị” nền kinh tế Việt Nam trên thế giới.
5. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN, DNNN
Đại hội XIII của Đảng đưa ra quan điểm chỉ đạo: Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. “Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường”. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế”; “Đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại để nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước”([11]). Để hiện thực hóa quan điểm trên, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, Cần nhận thức và xác định rõ hơn vị trí, vai trò của KTNN, DNNN nói chung và KTNN, DNNN trong từng lĩnh vực đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, theo định hướng phát huy cao nhất vị trí, vai trò và động lực khách quan của tất cả các thành phần, loại hình doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế trong phát triển nền kinh tế dân tộc. Xác định rõ vai trò khách quan của mỗi loại doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực (vai trò kinh tế, vai trò xã hội, vai trò an ninh - quốc phòng…), để trên cơ sở đó xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ hoạt động của KTNN và các loại DNNN; lấy sự phát triển, hiệu quả hoạt động và đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước trên các phương diện làm tiêu trí đánh giá.
Hai là, hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý, quản trị, sử dụng, phát triển kinh tế nhà nước theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả, góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, liên kết thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Hoàn thiện đồng bộ thể chế để nâng cao chất lượng và bảo đảm “ổn định động” kinh tế vĩ mô, đáp ứng với yêu cầu phát triển nhanh - bền vững đất nước và hội nhập quốc tế trong bối cảnh có nhiều thách thức, thay đổi nhanh, đột biến khó lường, cạnh tranh gay gắt, cách mạng công nghiệp 4.0 đang tăng tốc. Cần hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách và giải pháp để cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư công; nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực công, tài sản công, nhất là nguồn lực đất đai, nguồn lực tài chính; hoàn thiện cơ chế, chinh sách để đấy mạnh phát triển triển hình thức hợp tác, đối tác “công - tư” phù hợp trong từng lĩnh vực.
Ba là, trên cơ sở xác định rõ vị trí, vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ của các loại DNNN trong từng lĩnh vực, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Trước hết, cần xác định rõ nguyên tắc, định hướng, mục tiêu, tiêu chí cơ cấu lại đối với từng loại DNNN, gắn với hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy quá trình cơ cấu lại DNNN. Tùy vào vị rí, vai trò của từng loại DNNN, xây dựng đồng bộ cơ chế cổ phần hóa hoặc chuyển đổi cơ cấu chủ thể sở hữu phù hợp (về mục tiêu cổ phần hóa, cơ chế cổ phần hóa, đối tượng cổ phần hóa, đối tượng chuyển đổi chủ sở hữu, cơ chế thoái vốn…); xây dựng cơ chế và hệ thống tiêu chí giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động đổi với từng loại DNNN. Đối với một số lĩnh vực trọng yếu, liên quan trực tiếp đến đảm bảo năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế dân tộc, cần nghiên cứu thí điểm chuyển đổi một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ sang hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp cổ phần với các cổ đông là các tổ chức kinh tế nhà nước, DNNN có chức năng đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, hoặc với các doanh nghiệp tư nhân trong nước với hình thức và quy mô phù hợp. Nghiên cứu thực hiện hình thức hợp tác - đối tác “công - tư” với các nhà đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực phù hợp.
Hoàn thiện cơ chế để đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa DNNN công khai, minh bạch; xử lý dứt điểm các doanh nghiệp, dự án thua lỗ, kém hiệu quả. Việc xử lý bằng các hình thức giải thể, phá sản phải bảo đảm lợi ích cao nhất của Nhà nước, quyền lợi chính đáng của người lao động và nhà đầu tư.
Bốn là, hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý - quản trị để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của DNNN; đặc biệt là hoàn thiện thể chế về quyền sở hữu (cơ chế đại diên chủ sở hữu), cơ chế quản lý DNNN để nâng cao chế độ trách nhiệm và hiệu lực, hiệu quả quản lý DNNN trong nền kinh tế thị trường hiện đại; hoàn thiện cơ chế quản lý, sử dụng các nguồn lực đất đai và các nguồn lực khác của nhà nước trong DNNN và các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa. Cần phải xác định rõ, phù hợp nội dung, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình của Nhà nước (cơ quan quản lý nhà nước) và người đại diện chủ sở hữu nhà nước trong các loại DNNN, nhất là những quyền liên quan đến quyết định kinh doanh, giám sát nhà nước, quản lý nhà nước, tổ chức, nhân sự...Chế định rõ quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình của người đứng đầu DNNN và các chủ thể liên quan.
Xây dựng mô hình và thể chế quản lý - quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện đại theo những chuẩn mực chung của thế giới, nhất là đẩy mạnh chuyển đổi số trong DNNN; gắn với nâng cao quyền và chế độ trách nhiệm tự chủ tài chính, trách nhiệm quản lý - quản trị cho DNNN để bảo đảm nâng cao năng lực cạnh tranh, vị thế bình đẳng của DNNN tham gia vào thị trường (trừ những trường hợp có vai trò độc quyền tự nhiên, hoặc trách nhiệm xã hội đặc biệt nào đó do nhà nước quy định).
Trên cơ sở phân loại rõ các loại hình DNNN theo hướng: doanh nghiệp có chức năng thuần là kinh doanh trong cơ chế thị trường; doanh nghiệp có chức năng thuần (hay chủ yếu) là cung cấp dịch vụ công; doanh nghiệp có chức năng kết hợp giữa kinh doanh với việc cung cấp dịch vụ công; doanh nghiệp có chức năng đặc biệt (như trực tiếp phục vụ an ninh, quố phòng). Trên cơ sở đó xây dựng thể chế, cơ chế quản lý - quản trị phù hợp, hiệu quả đối với mỗi loại hình DNNN. Về nguyên tắc, không nên lẫn lộn cơ chế kinh doanh với cơ chế cung cấp dịch vụ công (nhiệm vụ xã hội); mà cần từ kết quả hoạt động kinh doanh (minh bạch) để thực hiện các mục tiêu xã hội (cung cấp dịch vụ công theo nhiệm vụ và cơ chế nhà nước giao). Việc thực hiện hai nhiệm vụ này đều phải có cơ chế minh bạch.
Năm là, xây dựng đội ngũ doanh nhân DNNN có đủ phẩm chất, năng lực quản lý - quản trị DNNN phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập. Cần nhận thức rõ đây không phải là những cán bộ chính trị thuần túy, cũng không phải là những bán bộ làm quản lý kinh tế nhà nước, mà phải thực sự là những doanh nhân giỏi. Song do đặc điểm và vai trò của DNNN, của cấu trúc quan hệ sở hữu và cơ chế quan lý - quản trị DNNN, đội ngũ doanh nhân DNNN, nhất là những doanh nghiệp lớn, phải là vừa là những doanh nhân giỏi, đồng thời phải là đại diện chân chính cho lợi ích của DNNN, của nhà nước, của nhân dân; biết đặt lợi ích chung của đất nước, của xã hội lên trên hết. Do đó, nhà nước cần có chương trình đặc biệt về đào tạo, bồi dưỡng, sàng lọc, sử dụng đội ngũ doanh nhân DNNN, khắc phục tình trạng bổ nhiệm, sử dụng “tay ngang”. Gắn liền với hoàn thiện thể chế quản lý - quản trị DNNN, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách về chế độ trách nhiệm, chế độ sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh xứng đáng đội ngũ doanh nhân DNNN.
6. Hoàn thiện thể chế về thu hút và phát triển doanh nghiệp FDI trong giai đoan mới
Để doanh nghiệp FDI tiếp tục phát triển hiệu quả, đóng góp lớn hơn nữa cho xây dựng nền kinh tế hiện đại, độc lập - tự chủ của Việt Nam trong giai đoạn mới, cần điều chỉnh định hướng chiến lược, cơ chế, chính sách, mục tiêu và tiêu chí thu hút FDI, đón nhận quá trình chuyển dịch các chuỗi cung ứng trong giai đoạn mới, phù hợp và hiệu quả trong từng lĩnh vực, theo hướng ứng dụng công nghệ cao để nâng cao chất lượng và hiệu quả tổng hợp đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước; liên kết có hiệu quả với các doanh nghiệp trong nước, đa dạng hóa nguồn cung, cầu; giảm dần tỷ trọng gia công lắp ráp với trình độ công nghệ thấp và trung bình. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để khắc phục tình trạng chuyển giá, "lỗ giả lãi thật". Hoàn thiện cơ chế, chính sách để thúc đẩy kết nối có hiệu quả các doanh nghiệp Việt với các doanh nghiệp FDI trong việc phát triển công nghiệp phụ trợ, cung ứng đầu vào và tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao.
7. Đẩy mạnh đổi mới, hoàn thiện đồng bộ và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường theo hướng hiện đại, hiệu quả, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam và hội nhập quốc tế trong mỗi bước phát triển, tập trung vào những nội dung quan trọng sau:
Hoàn thiện thể chế và có các phương án thích ứng trong các tình huống biến động khó lường để giữ vững ổn định và nâng cao chất lượng kinh tế vĩ mô. Thống nhất nhận thức, xác định rõ hơn các đặc trưng và tiêu chí của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các nguyên tắc chung của nền kinh tế thị trường hiện đại, đồng thời chứa đựng những giá trị đặc trưng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, hội nhập có hiệu quả với thế giới.
Hoàn thiện thể chế để thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc “nhà nước mạnh - thị trường hiệu quả - doanh nghiệp, người dân và xã hội năng động, sáng tạo” (cụ thể hơn là: Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển - thị trường hiện đại, phù hợp, hiệu quả - các chủ thể sản xuất kinh doanh mà trung tâm là các doanh nghiệp năng động, sáng tạo).
Hoàn thiện đồng bộ hệ thống phát luật, cơ chế, chính sách; khắc phục những “điểm nghẽn”, “nút thắt”, mâu thuẫn, bất cập, không phù hợp thực tiễn trong thể chế, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng công khai, minh bạch; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện và thủ tục sản xuất kinh doanh, gắn với đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp sáng tạo, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng. Phấn đấu sớm đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia hàng đầu về năng lực cạnh tranh toàn cầu.
Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế đa sở hữu, nhất là thể chế sở hữu đất đai (chế định rõ quyền sử dụng đất đai là quyền tài sản được luật pháp bảo hộ); thể chế quản lý tài sản công trong hệ thống chính trị; chế định đúng, công khai, minh bạch quyền, quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của từng chủ thể, nhất là nhà nước với vai trò vừa là đại diện chủ sở hữu toàn dân, đồng thời thực hiện chức năng quản lý nhà nước, lại là một chủ thể sử dụng; chế định rõ, đầy đủ các chế tài để buộc các cơ quan quản lý nhà nước phải thực hiện đúng, bảo vệ quyền tài sản, quyền sản xuất kinh doanh và lợi ích chính đáng của các chủ thể, khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, sử dụng kém hiệu quả, để thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lành mạnh, hiệu quả.
8. Hoàn thiện thể chế hội nhập kinh tế quốc tế gắn với bảo vệ nền kinh tế dân tộc
Trong tình hình hiện nay và những năm sắp tới, nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế dân tộc lớn mạnh, độc lập - tự chủ, đủ sức chống chịu và thích ứng có hiệu quả được với những biến động phức tạp, khó lường trên thế giới tác động tới nước ta là một yêu cầu và nhiệm vụ hết sức hệ trọng. Do đó, cần phải hoàn thiện đồng bộ Chiến lược, thể chế, cơ chế, chinh sách hội nhập quốc tế; xây dựng những kịch bản hích ứng với những biến động; kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, giải pháp, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế theo những quy tắc và chuẩn mực cao, đáp ứng các yêu cầu của các FTA thế hệ mới, nhằm thúc đẩy phát triển và phát huy tối đa nội lực, tận dụng các cơ hội và kết hợp có hiệu quả với các xu thế phát triển của thế giới, tham gia ngày càng sâu rộng và hiệu quả hơn vào các chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu; thích ứng có hiệu quả cao với hàng rào kỹ thuật mà các nước đặt ra; bảo vệ sở hữu trí tuệ, thương hiệu sản phẩm hàng hóa của đất nước; phòng chống có hiệu quả gian lận thương mại, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế. Điều cốt lõi vẫn là phải nâng cao chất lượng, sức canh tranh của hàng hóa, dịch vụ, của doanh nghiệp Việt, của cả nền kinh tế, trên thị trường thế giới và trong nước. Đồng thời xây dựng và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế để bảo vệ nền kinh tế dân tộc trong quá trình hội nhập. Nâng cao năng lực dự báo và năng lực phản ứng chính sách trước những tác động của biến đổi thế giới và khu vực, nhất là tác động của các cuộc chiến tranh “nóng”, chiến tranh - cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn, và sự suy giảm tăng trưởng toàn cầu, quá trình tái cấu trúc kinh tế toàn cầu đối, đối với sự phát triển của Việt Nam trong những năm tới, trên cơ sở đó có những kịch bản chủ động hội nhập và ứng phó hiệu quả.
Xây dựng và hoàn thiện mô hình và thể chế phát triển thích ứng có hiệu quả với các xu thế phát triển mới, nhất là dưới tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, với trạng thái biến động đột biến, khó lường trên thế giới hiện nay. Để phát triển bền vững, Việt Nam phải đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng đa dạng hóa các thị trường quốc tế, không để phụ thuộc quá lớn vào một số đối tác; đẩy mạnh phát triển tiềm lực kinh tế dân tộc, nhất là lực lượng doanh nghiệp Việt, tham gia nhiều hơn và có hiệu quả vào các phân khúc có giá trị gia tăng cao trong các chuỗi cung ứng toàn cầu; đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa (không thể để kéo dài tình trạng sự phát triển nền kinh tế của đất nước phụ thuộc quá lớn cả đầu vào, đầu ra vào thị trường bên ngoài), coi đây là một nền tảng - động lực để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
(Hết)
PGS.TS Trần Quốc Toản
(Sản phẩm của Đề tài cấp nhà nước: Chủ nghĩa tư bản hiện đại - vai trò, tác động đến tiến trình phát triển của thế giới và định hướng chình sách của Việt Nam; mã số KX.04.08/21-25)
[1] Tính đến năm 2017, GDP bình quân đầu người của Thái Lan gấp 2,8 lần Việt Nam; Ma-lai-xi-a gấp 4,2 lần; In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin cũng là những quốc gia thuộc nhóm thu nhập thấp nhưng gấp Việt Nam lần lượt là 1,6 lần và 1,3 lần. Như vậy, xét trên góc độ GDP bình quân đầu người Việt Nam hiện đang đi sau đi sau Thái Lan 14 năm[1], Ma-lai-xi-a 27 năm; đi sau Hàn Quốc khoảng 40 năm, sau In-đô-nê-xi-a 8 năm và Phi-li-pin 6 năm. So sánh với Qata ở Trung Đông, mới gianh độc lập năm 1971, dân số 2,7 triệu người (2018), nhưng GDP/người là 89.949 USD (2020), thuộc loại cao nhất thế giới; Singapore, tuyên bố độc lập vào năm 1965, dân số gần 6 triệu người (2021), đi lên từ một làng chài, nhưng đến nay GDP/người là 98.612 (2020), còn cao hơn Qata.
[2] Chi phí trung gian là một thuật ngữ trong thống kê Tài khoản quốc gia, phản ánh giá trị hàng hóa và dịch vụ sử dụng hết trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm mới trong một thời kỳ nhất định. Chi phí trung gian tính theo ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế. Chi phí trung gian không đồng nhất với chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Tỷ lệ chi phí trung gian tính toán từ bảng IO và SUT của Việt Nam và các nước.
[3] Hệ số ICOR là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư để tăng thêm 1 đồng tổng sản phẩm trong nước (GDP). Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ICOR thường tính cho giai đoạn vì: (1) Hiệu quả đầu tư thường có độ trễ; (2) Nếu tính hệ số ICOR cho 1 năm riêng lẻ, đồng thời tăng trưởng của năm đó âm (-) thì kết quả không có ý nghĩa (Ví dụ trong trường hợp của Ma-lai-xi-a năm 2009 có tăng trưởng GDP là -1,51%, dẫn đến ICOR của năm này là -11,78%).
Theo Tổng cục Thống kê, hệ số ICOR của Việt Nam đã tăng từ 4,04 những năm 2001-2005 lên 6,08 những năm 2006-2010 và 6,25 những năm 2011-2015; hiện nay có giảm xuống, những vẫn còn hơn 6,0. So với các nước trong khu vực, đây là hệ số ICOR cao (Trong giai đoạn 2011-2015, hệ số ICOR của Phi-li-pin là 3,98; Ma-lai-xi-a là -5,05).
[4] Chênh lệch mức NSLĐ (tính theo PPP 2011) của Xin-ga-po tăng từ 119.117 USD năm 2008 lên 131.192 USD năm 2017; tương tự, của Ma-lai-xi-a từ 43.731 USD lên 45.295 USD; Thái Lan từ 14.930 USD lên 18.071 USD; In-đô-nê-xi-a từ 10.451 USD lên 13.555 USD; Phi-li-pin từ 6.609 USD lên 8.385 USD (Nguồn số liệu: Cơ sở dữ liệu các chỉ số phát triển thế giới, Ngân hàng Thế giới).
[5] Theo Báo cáo giám sát của Quốc hội về việc “thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016 - 2021” tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV (10/2022); riêng trong lĩnh vực đất đai đã có hơn 743.000 ha đất bị sử dụng sai mục đích và bỏ hoang hóa, mới thu hồi được gần 500 nghìn ha, nhưng số tiền thu từ xử phạt vi phạm lại rất nhỏ bé - chỉ 286 tỷ đồng.
[6] Chính phủ, Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày12 tháng 5 năm 2022, về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và huy động nguồn lực của doanh nghieeph nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty trong phát triển kinh tế - xã hội.
[7] Tổng cục Thống kê, Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2021, 2020.
Sự phát triển doanh nghiệp của Việt Nam thấp hơn hiều so với Trung Quốc (xét về tỷ trọng so với dân số). Theo Tổng cục Giám sát và Quản lý thị trường nhà nước Trung Quốc, riêng số lượng doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc tăng từ 10,857 triệu (năm 2012) lên 44,575 triệu (năm 2021), tăng hơn 4 lần trong vòng 10 năm, đạt khoảng 32 doanh nghiệp trên 1.000 dân; tăng tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp của nền kinh tế quốc dân từ 79,4% lên 92,1% trong giai đoạn này; khu vực tư nhân đóng góp hơn 50% tổng doanh thu thuế, 60% GDP, hơn 70% đổi mới công nghệ, hơn 80% việc làm ở thành thị, và 90% các doanh nghiệp mở mới ở Trung Quốc.
[8] An Nhiên: Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã có những bước chuyển mình tích cực; Bộ Công thương, thứ 2, 09/05/2022.
Tỉ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của DN Việt Nam thuộc điện tử 5-10%; da giày 30%; dệt may 30%; cho công nghệ cao đạt khoảng 1-2%; cơ khí chế tạo khác khoảng 15-20%...; Ngành chế tạo ô tô đạt khoảng 5-20%, tuy nhiên, hiện nay, chỉ một vài nhà cung cấp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam. So với Thái Lan, số lượng nhà cung cấp của Việt Nam trong ngành công nghiệp ô tô vẫn còn rất ít: Thái Lan có gần 700 nhà cung cấp cấp 1, nhưng Việt Nam chỉ có chưa đến 100. Thái Lan có khoảng 1.700 nhà cung cấp cấp 2, 3, trong khi Việt Nam chỉ có chưa đến 150; giá trị sản xuất của công nghiệ hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2,7% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp.
[9] Ví dụ, ngành da giầy Việt Nam, đến nay mỗi năm xuất khẩu sang hơn 100 nước với kinh ngạch khoảng 21 tỷ USD; nhưng phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nước ngoài, tỷ lệ nội địa hóa ngành da giầy Việt Nam chỉ ở mức 50%, chưa đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ trong các hiệp định thương mại Việt Nam đã ký kết; các doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm thị phần nhỏ (18.7%), lại chủ yếu là gia công nên giá trị gia tăng thấp; còn các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 81,3% thị phần; trong cơ cấu giá trị của một đôi giầy, nguyên phụ liệu chiếm 70%, chi phí nhân công 15%, chi phí đầu vào và quản lý gián tiếp 9%, còn lại 6% là lợi nhuận của doanh nghiệp.
[10] Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bài nói chuyện tại hội nghị chiến tranh du kích”, ngày 13 tháng 7 năm 1952
[11] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2021, tr. 133 - 134