Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ “xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả”; trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh phải “nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và năng lực quản lý, quản trị, kiến tạo phát triển của Nhà nước” gắn liền với “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, được thực hiện nghiêm minh; bảo đảm và bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân”. Bài viết này góp phần làm rõ hơn về nhận thức, thực tiễn và những vấn đề đặt ra trong xây dựng nền quản trị quốc gia trong giai đoạn mới.

I. KHÁI QUÁT NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG NỀN QUẢN TRỊ QUỐC GIA TRONG THỂ CHẾ DÂN CHỦ PHÁP QUYỀN
1. Nhận thức cơ bản về thể chế dân chủ pháp quyền, về quản lý nhà nước
Thể chế nhà nước và quản lý nhà nước tồn tại gắn liền với việc ra đời nhà nước trong tất cả các hình thái kinh tế - chính trị - xã hội; luôn có sự vận động và phát triển. Dân chủ và pháp quyền là hai giá trị cơ bản, cốt lõi của nhân loại trong quá trình phát triển xã hội và nhà nước.
Khái niệm “Thể chế pháp quyền” (hay còn được gọi là thể chế dân chủ pháp quyền), được dùng để chỉ thể chế chính trị - xã hội (hay chế độ chính trị - xã hội) của một đất nước được xây dựng, vận hành và pháp triển trên nền tảng pháp quyền đối với cả xã hội (bao gồm Nhà nước, các tổ chức và tất cả các cá nhân); với các đặc trưng cơ bản là: (i) - sự bình đẳng trước pháp luật; không ai đứng được trên pháp luật; tất cả các tổ chức, mọi người, bất kể địa vị cao hay thấp, đều là đối tượng của pháp luật và chịu sự xét xử của cơ quan tư pháp; (ii)- Quyền được bảo vệ trước pháp luật (khi quyền lực nhà nước được sử dụng trái pháp luật, tùy tiện đối với mình); không ai bị trừng phạt hoặc phải chịu tổn hại về thân thể hay lợi ích vật chất và tinh thần trừ khi có sự vi phạm rõ ràng theo quy định của luật pháp, và có kết luận của tòa án;(iii) - Các nguyên tắc hiến pháp và luật pháp phải hướng tới bảo vệ và thực thi các quyền của con người, quyền công dân theo tinh thần thượng tôn pháp luật; lấy đó làm yếu tố pháp lý nền tảng, định hướng, chi phối hoạt động của một xã hội. Nguyên tắc pháp quyền đặt mọi chủ thể trong xã hội (nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân) vào một hệ thống pháp lý chung là chuẩn mực điều tiết xã hội. Khi nói về “thể chế pháp quyền” (hay thể chế dân chủ pháp quyền) là nói về sự đồng bộ trong cấu trúc vận hành giữa ba thành tố “nhà nước pháp quyền”, “xã hội pháp quyền”, và con người (công dân) pháp quyền trong mọi lĩnh vực của xã hội, theo các nguyên tắc pháp quyền, thượng tôn pháp luật, thực hiện dân chủ. Trong đó thể hiện giá trị cốt lõi là xây dựng thể chế dân chủ dựa trên nguyên tắc pháp quyền; khẳng định chủ quyền của nhân dân, nhà nước thực hiện quản lý đất nước bằng Hiến pháp và pháp luật. Điều này cũng đã được thể hiện rõ trong tư tưởng của Hồ Chí Minh ngay từ khi xây dựng Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946; trong Lời nói đầu của Hiến pháp đã long trọng khẳng định: “Nhiệm vụ của dân tộc... xây dựng nước nhà trên nền tảng dân chủ”[1].
Trong thể chế pháp quyền, chức năng quản lý nhà nước đóng một vai trò trọng yếu; chức năng này chủ yếu nói về vai trò quản lý của nhà nước (chủ thể quản lý) đối với mọi hoạt động của tất cả các chủ thể (đối tượng quản lý) trong tất cả các lĩnh vực của xã hội. Quản lý nhà nước là sự tác động bằng pháp luật, theo pháp luật của các chủ thể có quyền lực nhà nước (gồm: cơ quan nhà nước, cá nhân được ủy quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước) đến các đối tượng được quản lý, nhằm thực hiện các chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước; được thực hiện trên cả lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các chức năng quản lý nhà nước đối nội: đó là các chức năng xây dựng và thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách và các giải pháp để quản lý, bảo vệ và phát triển tất cả các lĩnh vực của đất nước; đối với tất cả các chủ thể trong xã hội. Các chức năng quản lý nhà nước đối ngoại: là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong quan hệ với các quốc gia, dân tộc khác, trong các quan hệ quốc tế đa phương.
Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng, đầy đủ là quản lý phát triển xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong tất cả các lĩnh vực, thông qua tất cả các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, quản lý nhà nước mang các đặc tính cơ bản: tính quyền lực nhà nước; tính giai cấp và tính xã hội; hoạt động chủ yếu dựa trên cơ sở Hiếp pháp và pháp luật; được thực hiện bằng bộ máy quản lý chuyên nghiệp, chuyên môn hóa và nghiệp vụ cao; bằng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước chuyên trách; là hoạt động mang tính tổ chức, chấp hành-điều hành theo pháp luật; là hoạt động có mục tiêu chiến lược, có chương trình và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu; phục vụ người dân và xã hội, tính không vụ lợi…Quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp chủ yếu nói về quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành pháp, được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền hành chính nhà nước. Như vậy, quản lý nhà nước chủ yếu chế định về mối quan hệ giữa chủ thể quản lý nhà nước đối với các đối tượng “bị” quản lý (đối tượng quản lý) thông qua hiến pháp và hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; giữa một chủ thể “đứng trên” có trách nhiệm ban hành và “cầm trịch” việc thực thi quyền lực nhà nước, với các chủ thể “bên dưới” có nghĩa vụ và trách nhiệm hoạt động theo hiến pháp và pháp luật. Đương nhiên, nội dung và phương thức quản lý nhà nước có sự thay đổi và phát triển gắn liền với sự phát triển kinh tế, xã hội và quá trình đẩy mạnh xã hội hóa, dân chủ hóa trong mọi lĩnh vực của xã hội.
2. Nhận thức cơ bản về nền quản trị quốc gia
Trong quá trình phát triển của xã hội, của thế giới, do quá trình phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất, quá trình dân chủ hóa xã hội, phát triển quyền con người, quyền công dân, phát triển khoa học công nghệ, phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế sâu rộng, sự kết nối giữa khu vực công và khu vực tư…; đã dẫn đến yêu cầu khách quan thay đổi mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, thể hiện tập chung ở chức năng quản lý của nhà nước được phát triển và nâng lên thành chức năng quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển; nhà nước không chỉ đơn thuần là chủ thể quản lý, mà còn phải là “đối tác phát triển” bình đằng với tất cả các chủ thể khác trong xã hội. Chính điều này đã đưa đến yêu cầu xây dựng và phát triển nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.
Hiện nay, nhận thức về bản chất và nội hàm của Quản trị quốc gia có nhiều điểm thống nhất, nhưng cũng còn có những điểm khác nhau[2]. Tuy nhiên, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản chung về quản trị quốc gia như sau:
- - Nguyên tắc pháp quyền với thể chế quản trị mạnh; mọi hoạt động của nhà nước (cả lập pháp, hành pháp và tư pháp) và các chủ thể trong xã hội và người dân phải tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền.
- - Khung khổ pháp lý hiệu quả cho phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác; năng lực quản lý và thực thi pháp luật có hiệu lực, hiệu quả cao.
- - Công khai minh bạch trong hoạt động khu vực công; phát triển mạnh quan hệ đối tác khu vực công và khu vực tư.
- - Sự tham gia của người dân và các chủ thể vào hoạt động quản lý của nhà nước (cả xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách…), vào sự phát triển các lĩnh vực một cách bình đẳng; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên.
- - Công khai, minh bạch; đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân và xã hội.
- - Đáp ứng có hiệu quả, kịp thời các nhu cầu chính đáng của xã hội và người dân. Đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội trong phân phối và hưởng thụ các quyền và lợi ích xã hội.
- - Hướng tới sự đồng thuận xã hội trong quản lý và thực thi pháp luật, phát triển xã hội. Điều hòa hợp lý về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích giữa các chủ thể trong xã hội.
- - Đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong quản lý - quản trị quốc gia.
- - Năng lực của nhà nước trong việc xây dựng và thực thi thể chế tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu và hội nhập quốc tế.
- - Tầm nhìn, khả năng và sự thích ứng với sự biến đổi của môi trường phát triển, nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển của xã hội, con người; sự thay đổi của môi trường sinh thái; đảm bảo phát triển bền vững.
- - Bảo đảm quyền con người, quyền công dân; đề cao tính tự chủ, tự quản xã hội.
- - Thực hiện có hiệu quả, công khai, minh bạch trách nhiệm giải trình của nhà nước và tất cả các chủ thể liên quan trước xã hội và người dân (cả bên trong hệ thống nhà nước và với bên ngoài xã hội).
Từ những đặc trưng cơ bản nêu trên, có thể thấy, một thuộc tính cơ bản, mang tính bản chất của quản trị quốc gia là sự tham gia của nhiều chủ thể đại điện cho ba bộ phận cấu thành tương ứng trong xã hội hiện đại là: nhà nước, thị trường và xã hội. Cơ chế vận hành của nền quản trị quốc gia trên nền tảng của nguyên tắc pháp quyền, nhưng về cơ bản theo phương thức phi tập trung hóa, theo phương thức mạng lưới, liên kết. Tuy nhiên, trong đó nhà nước vẫn giữ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng không chỉ với tư cách là chủ thể quản lý độc tôn như trước, mà còn là “đối tác phát triển” bình đẳng với các chủ thể khác trong xã hội.
Trên thế giới, để đánh giá tính phù hợp, hiệu quả của một nền quản trị quốc gia, đã đưa ra khái niệm “quản trị tốt”[3]. “Quản trị tốt là tập hợp các thể chế minh bạch, có trách nhiệm giải trình, có năng lực và kỹ năng thực thi có hiệu quả các nhiệm vụ… Tất cả giúp cho Nhà nước cung cấp có hiệu quả, chất lượng các dịch vụ công cho người dân”. Đồng thời đưa ra các tiêu chí chủ yếu về quản trị tốt, gồm: i)- Tính pháp quyền, trách nhiệm giải trình và kiểm soát quyền lực; ii) - Sự minh bạch; iii) -Tiếng nói, sự tham gia của người dân và xã hội; iv) -Sự ổn định về chính trị, xã hôi; tính ổn định và có thể dự đoán được của luật pháp và cơ chế, chính sách; v) - Tính hiệu lực, hiệu quả; vi) - Tính hiệu quả trong quản lý các nguồn lực, nhất là nguồn lực công. Đồng thời nêu lên 3 yếu tố cần có để quản trị tốt là: (1) - Cơ chế kiểm soát quyền lực, hạn chế sự lạm quyền trong bộ máy công quyền; (2) - Sự phản hồi ý kiến của người dân và xã hội về hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền quản trị quốc gia; (3) - Có môi trường cạnh tranh minh bạch, bình đẳng.
Như vậy, trong nền quản trị quốc gia, quản lý nhà nước vẫn là một thành tố trọng yếu, đóng vai trò chủ đạo; song không tiếp cận nhà nước đơn thuần chỉ như một chủ thể “đứng trên” để quản lý xã hội; mà còn tiếp cận nhà nước với tư cách là một chủ thể phát triển, đối tác phát triển bình đẳng trong xã hội.
3. Nhận thức rõ bản chất mối quan hệ xây dựng nền quản trị quốc gia trong xây dựng thể chế dân chủ pháp quyền, hoàn thiện quản lý nhà nước
Xét về bản chất, xây dựng thể chế dân chủ pháp quyền chứa đựng đồng bộ xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội pháp quyền, con người (công dân) pháp quyền trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; trong đó có nội dung quan trọng là xây dựng nền quản lý nhà nước - quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.
Về thực chất, cả quản lý nhà nước, quản trị nhà nước và quản trị quốc gia đều chứa đựng vai trò trung tâm của nhà nước, về sự vận hành của nền hành chính quốc gia trong tương tác với xã hội; trong đó điểm mấu chốt chung quan trọng nhất là trên nền tảng pháp quyền, dân chủ, thượng tôn pháp luật. Tuy nhiên, mỗi khái niệm được đề cập theo những giác độ, phạm vi với trọng tâm khác nhau, trong những quan hệ khác nhau giữa nhà nước và xã hội.
Khi nói về “quản lý nhà nước” thường là nói tập trung về địa vị và vai trò chủ thể quản lý Nhà nước ở cấp độ cao nhất của quyền lực quản lý phát triển xã hội; còn khi nói về “quản trị”, “quản trị phát triển” thường nói về thể chế, cơ chế tương tác giữa các chủ thể trong quá trình quản lý phát triển (đương nhiên là có vai trò quang trọng của Nhà nước). Do đó, khái niệm “Quản trị nhà nước” thường hàm ý thiên về vai trò của Nhà nước trong quản trị phát triển xã hội; còn khái niệm “quản trị quốc gia” thường hàm ý về tổng thể cơ chế tương tác giữa các chủ thể trong quản trị phát triển xã hội của một quốc gia; đương nhiên, trong đó có vai trò quan trọng của Nhà nước được xét trong tương quan bình đẳng với các chủ thể khác. Có thể chính vì vậy mà tác giả Janes N. Rosenau trong cuốn sách “Governance without government: Order and change in world politics” (1992), khi nói về quản trị nhà nước đã cho rằng đó là “quản lý không có chính phủ”. Còn theo Bách khoa toàn thư kinh tế (NXB Ekonomika, 1999): Quản trị nhà nước chỉ là một dạng của quản lý nhà nước, gắn với tự quản địa phương, quản lý xã hội, tự điều chỉnh của xã hội…Điều đó cho thấy, không thể tách biệt máy móc, đối lập “quản trị nhà nước”, “quản trị quốc gia” với “quản lý nhà nước”; không thể có nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả mà quản lý nhà nước lại yếu, bất cập.
Như vậy, “quản lý nhà nước”, “quản trị nhà nước” và “quản trị quốc gia” đều chứa đựng những đặc trưng cơ bản chung nhất, đó là: Nhà nước pháp quyền, cả nhà nước và toàn xã hội hoạt động theo pháp luật, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền; năng lực quản lý và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả; phục vụ nhân dân và xã hội; bảo đảm quyền con người và quyền công dân; bảo đảm phát triển đồng bộ tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…Trong khi đó, “quản trị quốc gia” nhấn mạnh hơn các đặc trưng quan trọng thể hiện mối quan hệ “đối tác” phát triển giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, như: Công khhai minh bạch trong hoạt động của Nhà nước, của khu vực công; phát triển quan hệ đối tác khu vực công và khu vực tư; sự tham gia của người dân và các chủ thể vào hoạt động quản lý của nhà nước, vào sự phát triển các lĩnh vực trong xã hội một cách dân chủ, bình đẳng; sự đồng thuận xã hội trong quản lý và thực thi pháp luật, phát triển xã hội; điều hòa hợp lý về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích giữa các chủ thể trong xã hội; thực hiện có hiệu quả, công khai, minh bạch trách nhiệm giải trình của nhà nước và tất cả các chủ thể liên quan trước xã hội và người dân. Có thể thấy rằng, “quản trị nhà nước”, “quản trị quốc gia” là một nấc thang cao hơn của dân chủ hóa, xã hội hóa quản lý nhà nước trong thể chế dân chủ pháp quyền. Rõ ràng rằng, việc xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả phải được đặt trong và gắn liền với quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế dân chủ pháp quyền, với trọng tâm là xây dựng Nhà nước pháp quyền.
II. KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NỀN QUẢN TRỊ QUỐC GIA
1. Khái quát chung về thực trạng xây dựng nền quản trị quốc gia
Trong văn kiện đại hội XIII của Đảng đã nêu cần “đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả”; tuy nhiên cho đến nay vấn đề xây dựng nền quản trị quốc gia, mặc dù có những bước tiến nhất định, song vẫn chưa được triển khai đồng bộ, hệ thống,
(1). Một số kết quả đạt được
Trên thực tế, trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, mặc dù chưa có cách tiếp cận hệ thống, đồng bộ về xây dựng nền quản trị quốc gia, nhưng Việt Nam đã có nhiều những nỗ lực cải cách hệ thống luật pháp và quản lý nhà nước theo hướng nâng cao năng lực quản trị quốc gia, thể hiện ở những nội dung sau:
- Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, nhất là trong những năm gần đây, đã đẩy mạnh hoàn thiện thể chế và khung pháp lý, từng bước xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch hơn, thúc đẩy phát triển kinh tế tế xã hội theo hướng từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo nền tảng cho xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại, nhất là chuyển đổi số trong quản lý nhà nước và trong phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện ở chủ trương đẩy mạnh xây dựng “chính quyền số - kinh tế số - xã hội số”.
- Coi trọng cao chủ trương xây dựng thể chế phát triển nhanh - bền vững đất nước đồng bộ về chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái và hội nhập quốc tế.
- Đẩy mạnh thực hiên các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, cạnh tranh doanh nghiệp và cạnh tranh quốc gia; gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cải thiện môi trường kinh doanh.
- Đấy mạnh đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị từ Trung ương xuống cơ sở, trọng tâm là tiếp tục đẩy mạnh đổi mới phương thưc lãnh đạo của Đảng và quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển của Nhà nước, tạo nề tảng chính trị - pháp lý cho xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.
Những kết quả trên được thể hiện qua sự cải thiện các chỉ số quản trị phát triển của các tỉnh cũng như toàn quốc trong những năm gần đây, như các chỉ số: Minh bạch - trách nhiệm giải trình (PAPI); Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI); Chuyển đổi số, chính phủ điện tử (EGDI/OSI/TII); Cải cách hành chính (PAR Index); Quản trị toàn cầu (WGI - World Bank)…Trong giai đoạn 2019-2024, chỉ số PAPI (Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh) toàn quốc đạt điểm trung bình quanh mức ~43–45/80. Chỉ số PCI đạt điểm trung bình toàn quốc đạt khoảng 65-67/100. Chỉ số WGI -chỉ số quản trị toàn cầu, gồm các tiêu chí: Hiệu lực chính phủ: tăng từ ~50% lên ~55% vị thế toàn cầu; Kiểm soát tham nhũng: dao động quanh ~35-40%; Pháp quyền: ~45%; Trách nhiệm giải trình: thấp, chỉ ~15-20%. Cho thấy có cải thiện về hiệu lực chính phủ và chất lượng điều chỉnh, nhưng trách nhiệm giải trình vẫn thấp. Chỉ số EGDI năm 2019: Việt Nam đạt 0,6667 điểm, xếp hạng 86/193; năm 2024: 0,7709 điểm, tăng lên hạng 71/193. Chỉ số PAR, giai đoạn 2019-2023 đạt điểm trung bình toàn quốc khoảng 80-86%; năm 2024 đạt điểm trung bình đạt 88,37%, cao nhất từ trước tới nay.
(2). Khái quát các hạn chế, bất cập
Những hạn chế, bất cập về xây dựng nền quản trị quốc gia thể hiện trên các phương diện chủ yếu sau:
- Về mặt nhận thức lý luận: Trên bình diện quản lý nhà nước, chưa hình thành được quan niệm thống nhất, có tính định hướng rõ về nội hàm, cấu trúc của “nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả” của Việt Nam.
- Về mặt xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sach: Chưa xác định rõ, đồng bộ những chế định pháp lý, cơ chế, chính sách nào hướng tới xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả (theo đúng bản chất và yêu cầu của nó).
- Về mặt thực tiễn: Còn rất nhiều hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động của các chủ thể khác trong xã hội vẫn vận hành theo cơ chế “nhà nước là chủ thể quản lý tối cao, đứng trên tất cả các chủ thể khác”, không theo cơ chế “đối tác” bình đẳng trước pháp luật.
Qua thực tiễn và được thể hiện ở các chỉ số quản trị phát triển hàng năm cho thấy, mặc dù có những tiên bộ đáng ghi nhận, song về tổng thể các chỉ số quản trị phát triển còn ở mức thấp, thể hiện ở:
- Chất lượng thể chế chưa cao, chưa đồng đều: Một số lĩnh vực pháp luật còn chồng chéo, thiếu tính ổn định, chưa phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn cho thực thi.
- Tính bao trùm của thể chế chưa cao: Sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và các chủ thể vào hoạt động quản lý của nhà nước (xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách…), vào sự phát triển các lĩnh vực một cách bình đẳng; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên…còn có mặt hạn chế, thiếu cơ chế phản hồi hiệu quả; cơ chế đối tác công - tư chậm phát triển và hiệu quả chưa cao.
- Tính pháp quyền và hiệu lực quản trị chưa cao: Bộ máy hành chính vẫn còn tình trạng cồng kềnh, thủ tục phức tạp, còn nhiều tiêu cực, phiền hà, nhũng nhiễu; vẫn còn không ít vi phạm quyền và lợi ích chính đáng của người dân; chỉ số WGI cho thấy vẫn còn hạn chế về trách nhiệm giải trình và kiểm soát tham nhũng; đồng thời ý thức thượng tôn pháp luật trong xã hội có mặt còn thấp; chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nền quản trị hiện đại;
- Chuyển đổi số chưa đồng bộ: Hạ tầng số, nhân lực số, chuyển đổi số trong các lĩnh vực và an ninh mạng vẫn còn hạn chế, chưa theo kịp tốc độ phát triển.
- Khoảng cách vùng miền về quản lý - quản trị phát triển còn cao: Các tỉnh miền núi, Tây Nguyên thường có điểm thấp hơn, phản ánh hạn chế về trình độ phát triển, về trình độ quán lý - quản trị, về hạ tầng, nhân lực và tính minh bạch.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ XÂY DỰNG NỀN QUẢN TRỊ QUỐC GIA HIỆN ĐẠI, HIỆU QUẢ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
1. Cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về xây dựng nền quản trị quốc gia trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
Cần khắc phục nhận thức tách biệt máy móc, đối lập cực đoan, siêu hình giữa “quản trị quốc gia” với “quản lý nhà nước”, “quản trị nhà nước”, nhất là trong quá trình xây dựng thể chế dân chủ pháp quyền (đồng bộ giữa xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội pháp quyền và công dân pháp quyền).
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm và coi trọng vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Gần đây nhất, Nghị quyết số 27 - NQ/TW (2022) của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) đã nêu rõ các nội dung và đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam[4]. Trong 8 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã chứa đựng nhiều nội dung cơ bản chung của nền quản trị quốc gia trên thế giới, như: nguyên tắc pháp quyền, thượng tôn pháp luật; vì lợi ích của nhân dân và xã hội; tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; kiểm soát quyền lực nhà nước; hệ thống pháp luật công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế khi tham gia…
Tuy nhiên, cần phải tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo kinh nghiệm quốc tế, để xây dựng đồng bộ hệ thống các đặc trưng và tiêu chí của nền quản trị quốc gia hiện đại của Việt Nam, vừa mang bản chất chung của quốc tế vừa thể hiện rõ những đặc trưng bản chất của nền quản trị quốc gia Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong đó cần tiếp tục làm rõ hơn, cụ thể hóa hơn những nội dung quan trọng như: Nguyên tắc pháp quyền, dân chủ với thể chế quản lý - quản trị mạnh; khung khổ pháp lý hiệu quả cho phát triển kinh tế và phát triển các lĩnh vực khác; năng lực quản lý và thực thi pháp luật có hiệu lực, hiệu quả cao; công khai minh bạch trong hoạt động khu vực công; phát triển chức năng “kiến tạo phát triển”, “đối tác phát triển” của nhà nước, phát triển quan hệ đối tác khu vực công và khu vực tư; sự tham gia của người dân và các chủ thể vào hoạt động quản lý của nhà nước, vào sự phát triển các lĩnh vực một cách bình đẳng; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên; công khai, minh bạch, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân và xã hội; đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội trong phân phối và hưởng thụ các quyền và lợi ích xã hội; hướng tới sự đồng thuận xã hội trong quản lý và thực thi pháp luật, phát triển xã hội, đề cao tính tự chủ, tự quản xã hội; thực hiện có hiệu quả, công khai, minh bạch trách nhiệm giải trình của nhà nước và tất cả các chủ thể liên quan trước xã hội và người dân; đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong quản lý - quản trị quốc gia.
Từ kinh nghiệm quốc tế, đồng thời gắn với yêu cầu phát triển nhanh - bền vững đất nước trong giai đoạn mới, có thể khái quát các đặc trưng chủ yếu của nền quản trị quốc gia hiện đại mà Việt Nam cần xây dựng như sau:
(1) - Thể chế dân chủ pháp quyền với thể chế quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển mạnh; mọi hoạt động của nhà nước, các chủ thể trong xã hội và người dân phải tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền. Năng lực quản lý và thực thi pháp luật có hiệu lực, hiệu quả cao.
(2) - Hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp, hiệu quả cho phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác; xây dựng môi trường phát triển công khai, minh bạch, lành mạnh; huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển.
(3) - Nâng cao năng lực của Nhà nước pháp quyền trong xây dựng thể chế phát triển nhanh - bền vững đồng bộ về kinh tế, chính trị, xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái; đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong quản lý - quản trị quốc gia; phòng chống hiệu quả tham nhũng, tiêu cực.
(4) - Công khai minh bạch trong hoạt động khu vực công; phát triển mạnh quan hệ đối tác khu vực công và khu vực tư; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên.
(5) - Đề cao sự tham gia có hiệu quả của người dân và các chủ thể vào hoạt động quản lý của nhà nước (cả xây dựng và thực thi luật pháp, cơ chế, chính sách…), vào sự phát triển các lĩnh vực một cách bình đẳng, hiệu quả.
(6) - Bảo đảm quyền con người, quyền công dân; đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân và xã hội; đề cao tính tự chủ, tự quản xã hội; đảm bảo sự đồng thuận xã hội cao trong quản lý và thực thi pháp luật, phát triển kinh tế - xã hội.
(7) - Đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội trong phân phối và hưởng thụ các quyền và lợi ích xã hội trong quá trình phát triển, gắn tương ứng với quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích giữa các chủ thể; thực hiện có hiệu quả cao giảm nghèo bền vững, thực hiện phù hợp các chính sách đối với các đối tượng yếu thế, các vùng chậm phát triển.
(8)- Xây dựng và thực thi có hiệu quả thể chế hội nhập quốc tế; nâng cao năng lực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu và hội nhập quốc tế.
(9) -Nâng cao tầm nhìn chiến lược và năng lực thích ứng với sự biến đổi nhanh của môi trường phát triển, sự thay đổi của môi trường sinh thái; nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh - bền vững đất nước.
(10) - Thực hiện có hiệu quả, công khai, minh bạch trách nhiệm giải trình của nhà nước và tất cả các chủ thể liên quan trước xã hội và người dân (cả bên trong hệ thống nhà nước và với bên ngoài xã hội).
2. Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền, trong đó tập trung nâng cao đồng bộ năng lực quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển của nhà nước
Tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo, các phương hướng và các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới nêu trong Nghị quyết số 27 - NQ/TW (năm 2022) của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII). Đồng thời, cần triển khai cụ thể hóa, thể chế hóa các nhiệm vụ liên quan đến nâng cao năng lực quản trị - kiến tạo phát triển, xây dựng nền quản trị quốc gia được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đó là: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”; “Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia”; “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội”; “Thực hiện chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, sản xuất, kinh doanh, tổ chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc gia”.
Nhà nước là chủ thể quản lý - quản trị quốc gia quan trọng nhất, có tính quyết định đối với hiệu quả quản trị quốc gia. Do đó, cần tập trung nâng cao năng lực của nhà nước về các phương diện sau:
- Tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đảm bảo các nguyên tắc pháp quyền; đồng thời đáp ứng với yêu cầu phát triển nhanh - bền vững, thích ứng có hiệu quả với những thay đổi nhanh, đột biến của môi trường phát triển (trên thế giới và trong nước); thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Để đáp ứng yêu cầu này, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách cần được xây dựng theo các cấp độ: i) - Tuân thủ nghiêm nhặt, thống nhất; ii) - Tuân thủ có phạm vi chủ động, sáng tạo; iii) - Được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện; iv) - Được thực hiện thí điểm trong phạm vi, không giam, thời gian xác định. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách được ban hành phải tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền, đồng thời phải thể hiện rõ tư tưởng quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển theo các cấp độ trên.
- Nâng cao năng lực định hướng chiến lược, mục tiêu, quy hoạch, kế hoạch, kiến tạo thể chế phát triển, cơ chế, chính sách quản lý phát triển; đưa ra những dự báo, định hướng cho sự phát triển của thị trường, doanh nghiệp và xã hội.
- Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước các cấp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền và kiến tạo phát triển; nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các đơn vị Nhà nước theo hướng kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, thể chế, thiết chế để tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, phòng chống có hiệu quả cao căn bệnh quan liêu, tham nhũng, tiêu cực.
- Xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong việc quản lý - quản trị, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật của nền thị trường; chế định rõ hơn thể chế, cơ chế về mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc “Nhà nước mạnh - Thị trường hiệu quả - Xã hội (người dân và doanh nghiệp) năng động, sáng tạo” (Văn kiện Đại hội XIII). Hoàn thiện đồng bộ hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách để quản lý, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước (đặc biệt là nguồn lực công) cho sự phát triển; thúc đẩy phát triển có hiệu quả cao các hình thức, mô hình hợp tác, đối tác Công - Tư trong các lĩnh vực. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính; kiên quyết loại bỏ các quy định, các “giấy phép con” trái luật pháp, xử lý triệt để các “quy hoạch treo”, “dự án treo”; tiếp tục đổi mới, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ môi trường kinh doanh theo hướng hiện đại, công khai, minh bạch, bình đẳng đối với mọi chủ thể.
- Xây dựng và chế định đồng bộ cơ chế về thực hiện trách nhiệm giải trình công khai, minh bạch, thường xuyên của tất cả các cơ quan, đơn vị nhà nước các cấp, của cán bộ, công chức nhà nước trước dân và xã hội; đặc biệt là trách nhiệm giải trình của những người đứng đầu, những người quản lý các nguồn lực của đất nước, những người liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân, doanh nghiệp và xã hội. Chế định rõ trách nhiệm (trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm tài chính - vật chất, trách nhiệm đạo đức…) của các đơn vị nhà nước cấp và của cán bộ, công chức trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp và xã hội trong mọi lĩnh vực.

3. Nâng cao vai trò, trách nhiệm và năng lực kiến tạo phát triển của các chủ thể trong xã hội, nhất là của doanh nghiệp và người dân
Đề cao sự tham gia có hiệu quả của người dân và các chủ thể vào hoạt động quản lý của nhà nước (cả xây dựng và thực thi luật pháp, cơ chế, chính sách…), vào sự phát triển các lĩnh vực một cách bình đẳng, hiệu quả. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế để xã hội và người dân có đủ cơ sở pháp lý, tính chính danh và trách nhiệm tham gia có hiệu quả cao vào quá trình xây dựng và thực thi luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển trong tất cả các lĩnh vực; tham gia vào quá trình quản trị phát triển quốc gia. Hoàn thiện đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách để bảo vệ và phát triển các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp và các chủ thể khác trong xã hội; đảm bảo cho người dân, doanh nghiệp và mọi chủ thể hợp pháp trong xã hội thực hiện có hiệu quả các quyền đã được chế định trong Hiến pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế theo nguyên tắc “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và người dân không chỉ là những đối tác chịu sự quản lý của nhà nước theo pháp luật, mà cần phải trở thành đối tác quản trị phát triển bình đẳng của nhà nước.
Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả cao các nguyên tắc dân chủ pháp quyền trong xã hội; thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự quản, tự chịu trách nhiệm của các chủ thể theo quy định của pháp luật; các tổ chức và cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự tôn trọng, lắng nghe và thấu hiểu tiếng nói của người dân và doanh nghiệp; đề cao tính tự chủ, tự quản xã hội, thực hiện có hiệu quả cao nguyên lý “Dân biết - Dân bàn - Dân quyết - Dân làm - Dân kiểm tra - Dân thụ hưởng”.
Hoàn thiện đồng bộ luật pháp và cơ chế, chính sách về bảo đảm quyền con người, quyền công dân; đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân và xã hội; đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội trong phân phối và hưởng thụ các quyền và lợi ích xã hội trong quá trình phát triển, gắn tương ứng với quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích giữa các chủ thể; thực hiện có hiệu quả cao giảm nghèo bền vững, thực hiện phù hợp các chính sách đối với các đối tượng yếu thế, các vùng chậm phát triển.
4. Xây dựng đồng bộ thể chế liên kết giữa các chủ thể, các nguồn lực, các yêu tố đảm bảo cho quá trình phát triển bền vững
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, xã hội ngày càng dân chủ hơn, quyền, lợi ích và vai trò của công dân và của xã hội ngày càng được nâng cao hơn, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn; sự phát triển về mọi mặt của mỗi cá nhân trong xã hội, cũng như của mỗi đơn vị, mỗi cộng đồng, của một quốc gia, hay trên bình diện quốc tế, đều có sự liên kết, tùy thuộc, tác động, ảnh hường lẫn nhau về nhiều phương diện, dưới nhiều hình thức và quy mô. Để tạo được động lực phát triển mạnh mẽ, sự phát triển hiệu quả, bền vững, mang lại lợi ích cho tất cả các chủ thể tham gia, cần thiết phải xây dựng, chế định thể chế, cơ chế liên kết giữa các chủ thể, các yếu tố, các nguồn lực (vật chất và phi vật chất) theo một cấu trúc, mô hình phù hợp, theo các chuỗi liên kết, các chuỗi giá trị đáp ứng với yêu cầu và điều kiện khách quan, quy luật khách quan, nhằm tạo nên động lực lớn hơn theo “cấp số nhân”, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển, nhanh - bền vững. Thể chế liên kết được xây dựng có thể trong phạm vi địa phương, khu vực, trong phạm vi cả nước, hoặc trên phạm vi quốc tế; có thể liên kết theo ngành, lĩnh vực, hoặc đa ngành, đa lĩnh vực…Trọng tâm cơ bản của thể chế liên kết là chế định được công khai, minh bạch mối quan hệ về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ, lợi ích, trách nhiệm giải trình của tất các các chủ thể liên quan, (trong đó có cả chủ thể nhà nước), về sự chia sẻ về lợi ích và rủi ro trong quá trình phát triển. Đây là một yêu cầu rất quan trọng đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng thể dân chủ pháp quyền, xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.
Trên thực tế, hiện nay Việt Nam cần phải đẩy mạnh xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất kinh doanh trong nước và tham gia vào các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là trong công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; liên kết giữa các doanh nghiệp Việt với nhau và liên kết với các doanh nghiệp FDI. Để các doanh nghiệp Việt tham gia mạnh mẽ vào các chuỗi cung ứng, các chuỗi liên kết trong nước và toàn cầu, một mặt nhà nước cần có các cơ chế chính sách để thúc đẩy nâng cao năng lực của các doanh nghiệp Việt; đồng thời phải ban hành đồng bộ cơ chế, chính sách để thúc đẩy hình thành các hình thức liên kết hiệu quả, bền vững.
5. Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số, thúc đẩy xây dựng chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số gắn với đảm bảo an ninh mạng
Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, phát triển xã hội hiện đại dưới tác động mạnh mẽ, sâu rộng, lan tỏa cao của cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là của trí tuệ nhân tạo (AI), hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực. Quản trị phát triển không chỉ là vấn đề riêng của từng nước, mà đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu ngày càng sâu sắc hơn (ví dụ như vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, vấn đề quản lý phát triển và ứng dụng AI…). Hiệu quả của quá trình quản trị phát triển phụ thuộc một cách quyết định vào quá trình chuyển đổi số. Chuyển đổi số không chỉ đơn thuần là một phương tiện, công cụ, giải pháp để quản lý phát triển xã hội hiện đại; mà còn là phương thức quan trọng để đẩy mạnh dân chủ hóa, minh bạch hóa, công bằng hóa, trách nhiệm giải trình hóa toàn bộ các quá trình phát triển của xã hội; là phương thức để giao tiếp, “đối thoại” trực tiếp giữa các chủ thể với nhau và với nhà nước, loại bỏ các khâu trung gian vốn chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan, quan liêu, tham nhũng và tiêu cực, tăng niềm tin của người dân và doanh nghiệp với nhà nước. Đặc biệt quá trình chuyển đổi số còn đẩy nhanh quá trình “đối thoại” phát triển và nâng cao hiệu lực, hiệu quả phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác của xã hội. Chính vì vậy, nhà nước cần ban hành đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để đẩy mạnh đồng bộ quá trình xây dựng chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số phù hợp đối với từng lĩnh vực, từng chủ thể. Tuy nhiên, khi phát triển hệ sinh thái kỹ thuật số liên kết chính phủ với nền kinh tế và xã hội sẽ làm gia tăng yêu cầu về đảm bảo an ninh mạng, sự cân bằng giữa đảm bảo quyền riêng tư của cá nhân con người, quyền bảo mật của của các tổ chức xã hội, của các doanh nghiệp, của nhà nước và an ninh quốc gia. Đây là một yêu cầu rất quan trọng đặt ra đối với việc hoàn thiện thể chế quản lý - quản trị phát triển của một quốc gia (thậm chí còn gắn với quốc tế) trong thời đại số; đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp về pháp lý, công nghệ, kinh tế, đạo đức… để đảm bảo hiệu quả cao an ninh mạng.

6. Xác định phát triển bền vững phải trở thành một mục tiêu - giá trị cốt lõi của quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển
Ngày nay, phát triển bền vững trở thành một mục tiêu - giá trị cốt lõi chung của nhân loại, được Liên Hợp Quốc thông qua năm2015[5]. Ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/05/2017 về Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 về sự phát triển bền vững, với mục tiêu tổng quát là “Duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đối với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm mọi người dân được phát huy mọi tiềm năng, tham gia và thụ hưởng bình đẳng thành quả của phát triển; xây dựng một xã hội Việt Nam hòa bình, thịnh vượng, bao trùm, dân chủ, công bằng, văn minh và bền vững”[6].Để đạt được mục tiêu phát triển nhanh - bền vững, Đại hội XIII của Đảng đã xác định phải “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường...; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Điều này đòi hỏi phải đảm bảo sự đồng bộ cao trong xây dựng và thực thi thể chế phát triển nhanh - bền vững theo quan hệ biện chứng là: Thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước”, xác định nền tảng chính trị - pháp lý cho sự phát triển mọi lĩnh vực của đất nước; Thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm tạo động lực lợi ích cho sự phát triển; Thể chế xã hội đóng vai trò xây dựng và điều tiết hài hòa các giá trị xã hội giữa các chủ thể và toàn xã hội; Thể chế bảo vệ môi trường sinh thái đóng vai trò đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa con người, xã hội với tự nhiên. Sự đồng bộ trong thể chế phát triển về thực chất là đảm bảo cơ chế quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển đất nước nhanh - bền vững trong giai đoạn mới; trong đó có cơ chế để thúc đẩy tất cả các chủ thể thực hiện có hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh xanh gắn với tiêu dùng xanh, bảo vệ môi trường sinh thái.
7. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thực đức - thực tài đáp ứng yêu cầu của nền quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển trong giai đoạn mới
Quá trình đổi mới quản lý - quản trị phát triển quốc gia chứa đựng yêu cầu đổi mới và phát triển nội dung của khái niệm “công vụ”, thực thi công vụ. Quản trị phát triển không đơn thuần chỉ là thực thi nền hành chính, các quy định hành chính với tư cách là chủ thể quản lý nhà nước, mà còn chứa đựng yêu cầu và nội dung về quyền, trách nhiệm, lợi ích, nghĩa vụ của một “đối tác phát triển” bình đẳng với các chủ thể khác trong xã hội. Điều này đặt ra yêu cầu mới về vị trí, vai trò, trách nhiệm, nội dung và cơ chế hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Trong đó có yêu cầu phải hiểu biết sâu sắc các quá trình và cơ chế phát triển kinh tế, xã hội; hiểu rõ và nắm chắc quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích và trách nhiệm giải trình của các cơ quan, đơn vị nhà nước trong tương quan với quyền và lợi ích của doanh nghiệp, người dân và xã hội trong quá trình phát triển, giữa lợi ích của từng chủ thể với lợi ích của cộng đồng và lợi ích của quốc gia - dân tộc. Điều này đặt ra yêu cầu mới về phẩm chất “công bộc”, về nâng cao tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ luật công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp; về đổi mới cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, sử dụng, trọng dụng, sàng lọc, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức “thực đức - thực tài”; xây dựng đồng bộ cơ chế thực thi có hiệu quả mối quan hệ giữa “kỷ luật kỷ cương - dân chủ - sáng tạo - trách nhiệm xã hội” trong thực thi công vụ, để khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung và lợi ích chính đáng của từng chủ thể.
8. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và thực thi thể chế dân chủ pháp quyền, nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả
Trong thể chế dân chủ pháp quyền, bốn chủ thể chủ yếu quan hệ mật thiết với nhau là: Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền, các tổ chức kinh tế, xã hội (theo nghĩa rộng) và những con người - công dân. Cần phải tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa, thể chế hóa đầy đủ, phù hợp và đồng bộ hơn vai trò và trách nhiệm lãnh đạo của Đảng (của các cấp ủy) đối với Nhà nước và xã hội, đã được nêu trong Cương lĩnh của Đảng và được chế định trong Hiếp pháp, là: i) - Đảng đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; ii) - Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; iii) - Đảng chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; iv) - Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Điều đó đòi hỏi phải đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức và cơ chế lãnh của Đảng (các cấp ủy) đối với Nhà nước pháp quyền (cả về lập pháp, hành pháp, tư pháp) và xã hội, phù hợp trong từng lĩnh vực, theo các nguyên tắc pháp quyền, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; để bảo vệ lợi ích và phát huy cao nhất quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân trong tất cả các lĩnh vực, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện đồng bộ cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ”, nhằm kiến tạo niềm tin bền vững của nhân dân với Đảng và Nhà nước, tạo được động lực mạnh mẽ để thúc đẩy đất nước phát triển nhanh - bền vững trong giai đoạn mới. Cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” phải được hiện thực hóa thành thể chế quản lý - quản trị kiến tạo phát triển, trong đó chế định rõ quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của từng chủ thể, hiện thực hóa được “Ý Đảng -Thể chế dân chủ pháp quyền - Lòng dân =>thành sức mạnh vô song”. Đó cũng chính là thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng một nước Việt Nam “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”, “Dân là gốc của nước, nước lấy dân làm gốc”. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển của Nhà nước phải đề cao “đức liêm chính”, “dấn thân” của người cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu, thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Hồ Chí Minh “Việc gì có lợi cho dân, phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, phải hết sức tránh”.
PGS.TS Trần Quốc Toản
Chuyên gia cao cấp
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 366
[2] Theo Liên Hợp Quốc (2002), quản trị nhà nước hiện đại có những đặc trưng cơ bản sau:
- - Thể chế quản trị mạnh và pháp quyền
- - Tư pháp tin cậy và độc lập
- - Khung khổ pháp lý hiệu quả cho hoạt động kinh tế
- - Môi trường kinh tế mở và cạnh tranh
- - Ổn định giá cả và trách nhiệm tài chính
- - Hệ thống thuế công bằng
- - Phát triển sự cạnh tranh trong thị trường tài chính, vốn, lao động
- - Năng lực quản lý và thực thi pháp luật
- - Quan hệ đối tác khu vực công và khu vực tư thức đẩy phát triển
- - Tự do tiếp cận thông tin
- - Thúc đẩy phát triển công nghiệp và cơ sở hạ tầng
Theo Tổ chức phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), có 8 đặc trưng (giá trị) cơ bản của quản trị quốc gia hiện đại là:
- - Sự tham gia của người dân vào hoạt động quản lý của nhà nước (cả xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách…), cung cấp dịch vụ công một cách bình đẳng.
- - Nguyên tắc pháp quyền: mọi hoạt động của nhà nước (cả lập pháp, hành pháp và tư pháp) và các chủ thể trong xã hội và người dân phải tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền.
- - Công khai, minh bạch; đảm bảo đầy đủ quyền tiếp cận thông tin của người dân và xã hội.
- - Đáp ứng có hiệu quả, kịp thời các nhu cầu của xã hội và người dân.
- - Hướng tới sự đồng thuận xã hội trong quản lý và thực thi pháp luật, phát triển xã hội. Điều hòa hợp lý về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích giữa các chủ thể trong xã hội.
- - Đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội trong tham gia xây dựng phát triển xã hội, giám sát quản trị xã hội, hưởng thụ các quyền và lợi ích xã hội.
- - Đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong quản lý - quản trị quốc gia (tuân thủ pháp luật và hiệu quả phát triển các lĩnh vực của xã hội).
- - Thực hiện có hiệu quả, công khai, minh bạch trách nhiệm giải trình của nhà nước và tất cả các chủ thể liên quan trước xã hội và người dân (cả bên trong hệ thống nhà nước và với bên ngoài xã hội).
Các chuyên gia cho rằng các nguyên tắc quản trị quốc gia gồm:
- - Nhà nước pháp quyền
- - Huy động sự tham gia của các chủ thể trong xã hội
- - Đồng thuận xã hội trong ban hành các cơ chế, chính sách phát triển, liên quan đến người dân, xã hội, quốc gia.
- - Công khhai minh bạch trong hoạt động khu vực công
- - Trách nhiệm giải trình của các chủ thể trong quản trị quốc gia
- - Hiệu lực, hiệu quả trong thực thi pháp luật
- - Hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan
- - Năng lực của nhà nước trong giải quyết các vấn đề toàn cầu
- - Tầm nhìn và sự thích ứng với sự biến đổi của môi trường
- - Bảo đảm quyền con người, quyền công dân
[3]Ngân hàng Thế giới WB: “Quản trị tốt là tập hợp các thể chế minh bạch, có trách nhiệm giải trình, có năng lực và kỹ năng thực thi có hiệu quả các nhiệm vụ… Tất cả giúp cho Nhà nước cung cấp có hiệu quả, chất lượng các dịch vụ công cho người dân”. Ngân hàng Thế giới nêu lên 6 chỉ số để đánh giá chất lượng quản trị quốc gia, bao gồm: vai trò, tiếng nói của người dân và trách nhiệm giải trình; sự ổn định về chính trị và xã hội phi bạo lực; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính phủ; chất lượng của các văn bản, quy định của pháp luật; thượng tôn pháp luật; kiểm soát tham nhũng.
Ngân hàng phát triển Châu Á ADB: “Quản trị tốt thể hiện qua bốn yếu tố cơ bản: - Trách nhiệm giải trình; - Sự tham gia của xã hội; - Tính chất có thể dự đoán được; - Sự minh bạch”.
Quỹ Tiền tế quốc tế IMF: “Quản trị tốt thể hiện qua các yếu tố như sự minh bạch trong hoạt động của nhà nước, tính hiệu quả trong việc quản lý các nguồn lực công; tính ổn định, minh bạch của môi trường pháp lý và kinh tế…”
Theo OECD: “Các yếu tố chủ yếu của quán trị tốt gồm: Trách nhiệm giải trình, sự ninh bạch, tính hiệu lực, hiệu quả, tính kịp thời, tầm nhìn, pháp quyền”.
[4] (1) - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; (2) - Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; (3) - Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; (4) - Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; (5) - Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; (6) - Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; (7) - Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; (8) - Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.
[5]Quan niệm về phát triển bền vững được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc lần thức 21 năm 2015 trong một khung hành động với 5 yếu tố “P” gồm: Con người (People), Hành tinh (Planet), Thịnh vượng (Prosperity), Hòa bình (Peace) và Đối tác (Partnership); được cụ thể hóa thành 17 mục tiêu chung và 169 mục tiêu cụ thể về phát triển bền vững trong tất cả các lĩnh vực.
[6]Trong 622/QĐ-TTg nêu rõ 17 mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030 bao gồm 115 mục tiêu cụ thể, tương ứng với các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.