Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Bảo vệ, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam

Ngày phát hành: 10/02/2019 Lượt xem 10652

Luật An ninh mạng được thông qua ngày 12/6/2018 tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV. Ảnh: Trọng Đức/TTXVN

 

1. Không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việc thông qua Hiến pháp năm 2013 với một chương riêng về "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân" và sau đó chỉ trong vòng 4 năm (2014-2018) thông qua hơn 90 văn bản quy phạm pháp luật liên quan quyền con người, là những nỗ lực hết sức có ý nghĩa, tạo khuôn khổ pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm trên thực tế quyền con người, quyền công dân. Cùng với những bước tiến đó là việc không ngừng phấn đấu hoàn thiện thể chế và tạo dựng cơ sở vật chất để bảo đảm tốt hơn quyền con người.

Bảo vệ, thúc đẩy quyền con người

Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được thể hiện xuyên suốt trong các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược cải cách tư pháp cũng như trong quá trình triển khai các nghĩa vụ và cam kết quốc tế của Việt Nam, trong đó có các khuyến nghị Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) mà Việt Nam đã chấp thuận. Kể từ lần rà soát chu kỳ II, Việt Nam đã nỗ lực mạnh mẽ nhằm hoàn thiện cả về mặt pháp luật, thể chế, chính sách về quyền con người, tạo nền tảng vững chắc mang lại những kết quả thực tiễn đáng khích lệ.

Ông Đoàn Công Huynh, Cục trưởng Cục Thông tin đối ngoại (Bộ Thông tin và Truyền thông) chia sẻ, trong vài năm gần đây, Việt Nam đã nỗ lực và đạt nhiều thành tựu trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, thực hiện tốt các khuyến nghị quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam chấp thuận thông qua các cơ chế của Liên hợp quốc như Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát; cơ chế báo cáo định kỳ các Công ước mà Việt Nam là thành viên; xây dựng các chương trình hành động quốc gia về thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về các mục tiêu phát triển bền vững và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu; nỗ lực trong việc triển khai các chương trình phát triển, đặc biệt là việc hỗ trợ người dân ở các vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai. Dù còn nhiều thách thức, Việt Nam sẽ nỗ lực để người dân ngày càng được thụ hưởng tốt hơn quyền con người và thành quả của công cuộc phát triển đất nước.

Hiến pháp 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 và có hiệu lực từ 1/1/2014 là sự kế thừa và phát triển các chế định quyền con người, quyền công dân, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu chính đáng và ngày càng tăng về quyền và tự do của nhân dân, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người. Hiến pháp 2013 gồm 11 chương, 120 điều, trong đó có riêng Chương II với 36 điều chế định trực tiếp và quy định rõ ràng các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 mở rộng nội dung về quyền, có các điều khoản riêng về quyền con người như: quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trước pháp luật; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; quyền bảo vệ đời tư; quyền tiếp cận thông tin; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền bình đẳng giới; quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; quyền được xét xử công bằng, công khai và không bị coi là có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án; quyền sở hữu tài sản tư nhân; quyền bảo đảm an sinh xã hội; quyền có việc làm.

Hiến pháp 2013 chế định một số quyền mới, như quyền sống, các quyền về nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó, quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp, quyền được sống trong môi trường trong lành, quyền không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác, quyền có nơi ở hợp pháp, quyền được hưởng an sinh xã hội.

Hiến pháp 2013 khẳng định nghĩa vụ của Nhà nước về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đồng thời quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”; “mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác”; “việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

Sửa đổi, ban hành mới văn bản luật, pháp lệnh liên quan đến quyền con người

Từ năm 2014-2018, Việt Nam đã bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới 96 văn bản luật, pháp lệnh liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phù hợp với Hiến pháp 2013.

Một số đạo luật quan trọng được Quốc hội thông qua trong thời gian này gồm có: Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân 2014, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, Luật Nhà ở 2014, Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Luật Tố tụng Hành chính 2015, Luật Tổ chức cơ quan điều tra Hình sự 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015, Luật Trưng cầu ý dân 2015, Luật An toàn thông tin mạng 2015, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016, Luật Trẻ em 2016, Luật Báo chí 2016, Luật Tiếp cận thông tin 2016, Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017, Luật Trợ giúp pháp lý 2017, Luật An ninh mạng 2018....

Trong đó, một số luật lần đầu tiên được ban hành để thể chế kịp thời các quy định về quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp 2013 (Luật Tiếp cận thông tin, Luật Trưng cầu dân ý).

Cùng với đó, các Luật Đầu tư 2014, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Quy hoạch 2017, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 đã góp phần củng cố khung pháp lý bảo đảm quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.

Hiện nay, một số dự án luật khác liên quan đến quyền con người đang được thúc đẩy, trong đó có Bộ luật Lao động sửa đổi, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, Luật Dự phòng và nâng cao sức khỏe, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Đặc xá sửa đổi, Luật Thi hành án hình sự, Luật về Hội...

Quá trình dự thảo xây dựng các văn bản luật đều có sự tham vấn ý kiến của các tổ chức xã hội, nhân dân, được đăng tải công khai trên website của Chính phủ.

Tháng 9/2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong đó, nội dung quyền con người được giáo dục từ bậc mầm non đến đại học.

Mục tiêu của Đề án là đến năm 2025, 100% các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân tổ chức giáo dục quyền con người cho người học. Đề án được kỳ vọng sẽ khắc phục được căn bản những hành vi vi phạm nói trên về quyền con người.

2. Bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Ở Việt Nam, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những cải cách pháp lý quan trọng nhằm cụ thể hóa đầy đủ nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về một trong những quyền con người quan trọng, cơ bản hàng đầu, trong đó có việc cụ thể hóa các giới hạn của quyền tín ngưỡng, tôn giáo và nâng cao trách nhiệm bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.

Không ngừng hoàn thiện pháp luật, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo, với khoảng 95% dân số có tín ngưỡng, tôn giáo. Việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được khẳng định tại Hiến pháp 2013. Đặc biệt, việc thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và hai Nghị định thực thi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc để bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 lần đầu tiên xác nhận các tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại; giảm thời gian hoạt động tôn giáo ổn định, liên tục để công nhận tổ chức tôn giáo từ 23 năm xuống còn 5 năm, điều chỉnh nhiều thủ tục từ đăng ký - cấp phép, đề nghị - chấp thuận sang hình thức thông báo (thông báo người được phong phẩm, suy cử, thuyên chuyển, bãi nhiệm chức sắc, hoạt động của cơ sở đào tạo tôn giáo…); điều chỉnh thẩm quyền chấp thuận các hoạt động lớn của các tổ chức tôn giáo giúp tinh giảm các thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự 2015 quy định hình phạt đối với tội “Xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác”.

Theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là việc thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của người dân được bảo đảm với hàng nghìn lễ hội, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hàng năm.  

Các tôn giáo ở Việt Nam chung sống hòa hợp trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hiện có 42 tổ chức thuộc 15 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân. Năm 2016, Ban đại diện Giáo hội các thánh hữu ngày sau của Chúa Giê-su Kitô (Mormon) đã được công nhận và Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Tháng 8/2018, Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn Việt Nam được cấp đăng ký hoạt động. Hai tổ chức Tin lành đang được hướng dẫn làm hồ sơ đăng ký hoạt động. Ngoài ra, hàng ngàn điểm nhóm Tin lành được bảo đảm sinh hoạt tôn giáo tại các địa điểm hợp pháp. Việt Nam có 60 cơ sở đào tạo tôn giáo, thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo. Từ năm 2015-2017, Việt Nam đã cho thành lập mới năm cơ sở đào tạo tôn giáo gồm: Học viện Công giáo, Đại Chủng viện Đức Mẹ Vô nhiễm Bùi Chu, Học viện Truyền giáo Cao Đài, Trung cấp Phật giáo Hòa Hảo, Trường Thánh kinh Thần học Cơ đốc.

Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động        

Tính đến năm 2017, tổng diện tích đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng là 14.850 ha, thuộc 7.102 tổ chức, cơ sở tôn giáo. Thành phố Hồ Chí Minh đã giao 7.500m2 cho Tổng Liên hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây dựng Viện Thánh kinh thần học. Tỉnh Thừa Thiên Huế giao 20 ha đất cho Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế sử dụng. Các tổ chức tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động xã hội, thành lập trên 450 cơ sở y tế, 270 trường mầm non, 1000 nhóm, lớp mầm non; hỗ trợ chăm sóc 11.800 đối tượng bảo trợ xã hội.

Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo in ấn, phát hành kinh sách và đồ dùng việc đạo. Từ lần rà soát trước đến nay, hơn 3.000 đầu ấn phẩm tôn giáo đã được xuất bản với hơn 10 triệu bản in và hàng triệu đĩa CD, DVD bằng nhiều ngôn ngữ, 12 báo, tạp chí liên quan đến tôn giáo. Phần lớn các tổ chức tôn giáo đều có website riêng. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế của các cá nhân, tổ chức tôn giáo ngày càng phát triển. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức ở Việt Nam như Đại lễ Phật đản VESAK 2014 và 500 năm Cải chánh đạo Tin lành 2017.

Tự do tôn giáo tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số được bảo đảm. Với sự hỗ trợ của Nhà nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã triển khai xây dựng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại thành phố Cần Thơ ( năm 2017). Tại các tỉnh Tây Nguyên và Bình Phước, 33 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành đang sinh hoạt tại 304 chi hội và hơn 1.300 điểm nhóm. Tính đến hết ngày 30/6/2018, tại Tây Bắc, 693 điểm nhóm Tin lành và 8 Hội thánh cơ sở đã được thành lập. Ngoài ra, các địa phương còn có nhiều điểm nhóm đăng ký sinh hoạt tập trung của người dân tộc thiểu số như Hội Liên hữu Baptist Việt Nam, Hội thánh Lutheran, Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm Việt Nam và Hội thánh Truyền giảng Phúc âm Việt Nam… Nhà nước cũng hỗ trợ, trùng tu cơ sở tôn giáo cho người Chăm.

Với phương châm, hành động của Chính phủ trong năm 2019 là: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả” và từ yêu cầu, nhiệm vụ của công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đề nghị, ngành Quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; Nâng cao chất lượng thực hiện công tác nghiệp vụ tôn giáo trong tình hình mới. Ngành chủ động phối hợp thống nhất giữa các bộ, ngành và địa phương trong tham mưu đề xuất Chính phủ chỉ đạo giải quyết những vấn đề tôn giáo phức tạp. Tăng cường công tác đối ngoại tôn giáo, chủ động hướng dẫn các tổ chức tôn giáo tham gia các cơ chế diễn đàn tôn giáo thế giới và khu vực phù hợp với đường lối ngoại giao của Đảng, Nhà nước.

3. Nỗ lực giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển

Để bảo đảm tốt nhất quyền cho mọi người dân, Việt Nam sẽ nỗ lực hoàn thiện nhà nước pháp quyền, củng cố nền tảng pháp lý và chính sách liên quan đến bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Trong đó, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “Chính phủ kiến tạo vì người dân”, cải cách hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công, ngăn chặn quan liêu, tham nhũng, phát huy dân chủ, nâng cao hiệu lực của bộ máy Nhà nước.

Việt Nam cam kết đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững, chú trọng các chính sách giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các khu vực địa lý, các nhóm dân cư, trong đó đặc biệt chú trọng các nhóm dễ bị tổn thương.

Thu hẹp khoảng cách giữa các dân tộc

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định: bảo đảm an sinh xã hội là một trong các nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới; tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội tới mọi người dân, hướng tới mục tiêu thực hiện an sinh xã hội toàn dân; khuyến khích nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của mỗi người dân... để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.

Cuối năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm còn 5,35% (giảm 1,35% so với cuối năm 2017), trong đó bình quân tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn dưới 35% (giảm khoảng 5% so với cuối năm 2017); bình quân tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vùng dân tộc, miền núi giảm khoảng 3-4% so với cuối năm 2017, đạt mục tiêu Đại hội Đảng Khóa XII đề ra.

Việc thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững vùng dân tộc, miền núi và thu hẹp khoảng cách phát triển với các vùng khác là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội.

Theo báo cáo “Bước tiến mới: Giảm nghèo và thịnh vượng chung tại Việt Nam” được công bố bởi Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho thấy, đói nghèo ở Việt Nam tiếp tục giảm, đặc biệt là trong các dân tộc thiểu số với tỷ lệ giảm mạnh tới 13%, mức giảm lớn nhất trong thập niên vừa qua.

Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng, Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong việc giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người. Tỷ lệ nghèo trong các dân tộc thiểu số tiếp tục giảm là kết quả rất đáng khích lệ và những nỗ lực tập trung vào việc tăng cường thu nhập cho các dân tộc thiểu số có thể gia tăng cơ hội cho những nhóm người này và giảm sự bất bình đẳng kéo dài.

Nhằm thu hẹp khoảng cách về kinh tế-xã hội giữa các dân tộc Việt Nam, Chính phủ thông qua Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020, Chương trình 135 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững với đồng bào dân tộc thiểu số (9/2015), Nghị quyết của Chính phủ về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030, Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2016-2025…

Năm 2017 với chủ đề “Triển khai Luật trẻ em và phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em” và năm 2018 với chủ đề “Vì cuộc sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em”, Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2025”, Đề án xây dựng chương trình bồi dưỡng kiến thức dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức, viên chức 2016, Đề án hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin. Việt Nam đang xây dựng Luật hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số.

Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số đạt được nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 35% (năm 2011) xuống còn 16,8% (cuối 2015). Năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn tiếp cận đa chiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi giảm khoảng 2% so với năm 2015 (cả nước giảm khoảng 1,3% - 1,5%), 98% số người thoát nghèo không bị tái nghèo. Giai đoạn 2014 – 2016, 38% người dân tộc thiểu số dịch chuyển lên nhóm có điều kiện kinh tế cao hơn (mức chung cả nước là 28%); 42% nhóm dễ tổn thương kinh tế đã chuyển sang nhóm an toàn kinh tế.

Việc bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục được đặc biệt quan tâm. Hiện nay, cả nước có 315 trường phổ thông dân tộc nội trú với 94.000 học sinh, 1.013 trường phổ thông dân tộc bán trú với 159.212 học sinh và 4 trường dự bị đại học dân tộc với khoảng 4.000 học sinh. Năm học 2017-2018, 22 tỉnh, thành phố tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số (715 trường). 8 ngôn ngữ của dân tộc thiểu số được đưa thành môn học; 6 bộ sách giáo khoa được xuất bản bằng tiếng dân tộc thiểu số.

Bên cạnh đó, nhằm cải thiện tiếp cận thông tin cho người dân tộc thiểu số, Đề án thí điểm cấp ra-đi-ô cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới được triển khai từ tháng 11/2017. Tính đến 2018, 92% người dân tộc thiểu số được tiếp cận đài phát thanh, 85% được xem truyền hình, nhiều chương trình phát bằng tiếng dân tộc thiểu số; kênh VOV4 phát thanh về các vấn đề dân tộc thiểu số, kênh VTV5 truyền hình tiếng dân tộc thiểu số; 13 báo tạp chí có ấn phẩm chuyên đề dân tộc thiểu số và miền núi.

Nhà nước đặc biệt coi trọng gìn giữ văn hóa của các dân tộc thiểu số; nhiều di sản văn hóa các dân tộc được công nhận là di sản văn hóa cấp quốc gia. Với sự hỗ trợ của Nhà nước, hiện có 891.129 hộ gia đình dân tộc thiểu số đang sử dụng nhà ở truyền thống với kiến trúc đặc trưng của dân tộc mình, 195.215 hộ duy trì sử dụng các nhạc cụ truyền thống và gần 500.000 hộ đang duy trì, phát triển, truyền bá các điệu hát, múa truyền thống...

Người dân tộc thiểu số được tạo điều kiện tham gia hệ thống chính trị, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Tại Quốc hội khóa XIV nhiệm kỳ 2016-2021, số lượng đại biểu người dân tộc thiểu số là 86 người, chiếm 17,3% ). Tỉ lệ cán bộ, công chức, viên chức dân tộc thiểu số ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là 14,53%, nữ giới chiếm 49,2%. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số giữ chức lãnh đạo, quản lý chiếm 17,2%.

Nhiều chính sách hỗ trợ

Bên cạnh một số chính sách đặc thù cho vùng dân tộc thiểu số đã được triển khai mang lại hiệu quả thiết thực như: hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cư; hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo vùng khó khăn, Việt Nam cũng đặc biệt chú trọng thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ nâng cao nhận thức và chất lượng cuộc sống cho các nhóm dễ bị tổn thương.

Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà, trong những năm vừa qua, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn dành sự quan tâm, chỉ đạo sâu sắc trong công tác phòng chống mua bán người nói chung và công tác tiếp nhận nạn nhân bị mua bán trở về nói riêng. Từ tháng 1/2012, Chính phủ và các bộ, ban, ngành liên quan đã ban hành hệ thống văn bản, chính sách có tính đồng bộ hơn, khả thi hơn, tạo khung pháp lý thuận lợi hơn để tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về.

Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách và văn bản pháp luật nhằm phòng ngừa, ngăn chặn nạn mua bán người. Tiêu biểu là Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2016-2020 (ban hành ngày 31/12/2015) với mục tiêu giảm nguy cơ mua bán người, tội phạm mua bán người, thực hiện hiệu quả tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về. Từ năm 2016, Chính phủ đã phê duyệt ngày 30/7 là “Ngày toàn dân phòng, chống mua bán người”.

Từ năm 2014 đến hết 2017, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã truy tố 829 vụ với 1.539 bị can về tội mua bán người. Từ 2014 đến hết tháng 7/2018, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý để xét xử theo thủ tục sơ thẩm 796 vụ án với 1.475 bị cáo theo các tội danh liên quan đến mua bán người. Từ năm 2016 đến Quý I năm 2018, các đơn vị chức năng Việt Nam đã xác minh, giải cứu, tiếp nhận 4.000 trường hợp (trong đó xác định 1.214 trường hợp là nạn nhân bị mua bán); 100% các trường hợp xác định là nạn nhân có nhu cầu được hỗ trợ ban đầu, tư vấn tâm lý, khám sức khỏe, trợ giúp pháp lý; nhiều nạn nhân được trợ cấp khó khăn, học nghề, tạo việc làm, ổn định đời sống hòa nhập cộng đồng.

Công tác tuyên truyền, phổ biến về phòng, chống mua bán người được thực hiện với nhiều hình thức đa dạng. Trong giai đoạn 2011-2015, các địa phương đã tổ chức gần 250.000 cuộc truyền thông cộng đồng cho trên 15 triệu lượt người tham dự; cấp phát trên 150.000 cuốn tài liệu các loại; thực hiện gần 150 chuyên đề, chuyên mục và phim phóng sự liên quan đến công tác này…

Ông Paul Priest, Trưởng bộ phận Chương trình Tổ chức Di cư Quốc tế tại Việt Nam nhấn mạnh, Chính phủ Việt Nam đã có những cam kết nghiêm túc trong đấu tranh chống nạn mua bán người trong đó nổi bật là việc ban hành Luật Phòng, chống mua bán người và hoàn thiện Chương trình hành động quốc gia về vấn đề này. Chính phủ cũng nỗ lực tìm kiếm các giải pháp hỗ trợ nạn nhân; tăng cường nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác phòng, chống và hỗ trợ nạn nhân của tội phạm mua bán người… Tổ chức Di cư Quốc tế tại Việt Nam đánh giá cao sự hợp tác với các bộ, ngành để đảm bảo cuộc sống bình yên của các nạn nhân bị mua bán trở về.

Là một trong những nước chịu tác động mạnh mẽ bởi biến đổi khí hậu, thiên tai, Việt Nam đặc biệt quan tâm đến chính sách hỗ trợ người dân ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiêu biểu, Chương trình mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 tập trung vào tăng cường nhận thức và năng lực thích ứng biến đổi khí hậu, định hướng giảm phát thải nhà kính, xây dựng nền kinh tế các-bon thấp và tích cực tham gia hợp tác quốc tế về bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất.

Bên cạnh đó, Chương trình mục tiêu phát triển Lâm nghiệp bền vững 2016-2020 đặt mục tiêu đáp ứng các yêu cầu về giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; duy trì ổn định 25 triệu việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế cho người dân. Việt Nam cũng thường xuyên cập nhật Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng để các địa phương và người dân chủ động ứng phó.

Trong giai đoạn từ năm 2013-2015, Chính phủ đã ưu tiên hỗ trợ, đầu tư nguồn lực cho khu vực dễ bị tổn thương Đồng bằng sông Cửu Long 1.034 tỷ đồng, chiếm hơn 30% tổng số nguồn lực đầu tư cho cả nước (dự kiến sẽ tăng lên 3 lần trong giai đoạn 2016-2020); hỗ trợ các tỉnh ven biển dễ bị tổn thương hơn 60% tổng số nguồn lực đầu tư cho cả nước.

Để hỗ trợ người dân vùng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, riêng năm 2017, Chính phủ đã hỗ trợ các địa phương 3.696,7 tỷ đồng (hỗ trợ bão lũ, hạn hán, xâm nhập mặn); 40.828 tấn gạo cứu đói, 3.265 tấn lúa giống; 835 tấn ngô giống; 82 tấn hạt rau giống và hàng ngàn cơ số thuốc, vắc xin, hóa chất khử trùng. Ngân sách Trung ương cấp bổ sung cho các địa phương 244.107 tỷ đồng và tạm ứng 664 tỷ đồng để mua giống và hỗ trợ sản xuất.

Đại sứ Đặng Đình Quý, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc chia sẻ, những thách thức mà Việt Nam gặp phải khi là một trong những nước chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu trên thế giới. Việt Nam nằm trong số 10 nước bị tác động nặng về nhất trong vòng 20 năm qua và là một trong 6 nước chịu tác động lớn nhất trong 4 năm gần đây. Đại sứ nêu bật tác động tiêu cực của nước biển dâng đối với Việt Nam, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, ảnh hưởng sinh kế của hàng chục triệu người dân, đe dọa an ninh lương thực của không chỉ Việt Nam, mà cả của nhiều nước khác, do đây là nơi cung cấp 90% sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam.

Đại sứ đề nghị các cơ quan thuộc hệ thống Liên hợp quốc, trong đó có Hội đồng Bảo an và các tổ chức quốc tế cùng phối hợp, hỗ trợ các nước, các tổ chức khu vực trong ứng phó biến đổi khí hậu, trong đó có ASEAN; cần xây dựng các cơ chế chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và tăng cường trao đổi về mối quan hệ giữa biến đổi khí hậu và an ninh.

 

Theo Nguyễn Hồng Điệp (TTXVN)

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết