Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

CCOP26 – Cần một nỗ lực tập thể và rõ ràng (Phần 1)

Ngày phát hành: 05/11/2021 Lượt xem 1156

COP26 diễn ra tại Thành phố Glasgow, Scotland, Vương quốc Anh từ ngày 31/10-12/11/2021

(Ảnh: COP26)


(chathamhouse.org)
Tóm tắt
Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26) diễn ra vào đầu một thập kỷ đóng vai trò then chốt đối với hành động chống biến đổi khí hậu. Tất cả các khu vực trên thế giới đều đang phải đối phó với những tác động ngày càng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu và sự gia tăng nhiệt độ Trái đất làm gia tăng rủi ro đối với con người, hệ sinh thái và cộng đồng. Để duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C nhằm tránh những hậu quả thảm khốc nhất, các nước cần cắt giảm một nửa lượng phát thải vào năm 2030 và đưa lượng phát thải ròng về mức 0 vào năm 2050. COP26 đóng vai trò then chốt trong việc đưa thế giới vào con đường an toàn hơn.
Bài viết này dự báo những kết quả tích cực có thể đạt được tại COP26 với lập luận rằng các nước cần phải đạt được những tiến bộ đáng kể trong 3 lĩnh vực chính: nâng cao tham vọng về đóng góp do các quốc gia tự quyết định (NDC) vào năm 2030, hỗ trợ và xoa dịu quan ngại của những nước đang phát triển dễ bị tổn hại vì biến đổi khí hậu và nhất trí về các chi tiết còn lại trong Bộ quy tắc Paris - văn bản hướng dẫn thực thi Hiệp định Paris năm 2015.
Việc nâng cao tham vọng về NDC là nhiệm vụ mang tính sống còn. Sau khi ký Hiệp định Paris, các nhà lãnh đạo thế giới đã cam kết duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 2°C, lý tưởng là 1,5°C, so với thời kỳ tiền công nghiệp. Những mục tiêu đầu tiên, được đệ trình vào năm 2015, không còn phù hợp. Các nước tham gia Hiệp định Paris phải điều chỉnh NDC cũ hoặc đệ trình NDC mới trước COP26. Tính đến tháng 9/2021, 85 quốc gia và 27 nước Liên minh châu Âu (EU) đã hoàn thành nhiệm vụ này; một vài chính phủ đề xuất các mục tiêu mới nhưng chưa đệ trình chính thức. Mặc dù một số quốc gia đã đặt ra các mục tiêu tương đối mạnh mẽ, nhưng họ cũng chỉ thu hẹp thêm tối đa 15% khoảng cách so với mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C.
Để có được kết quả tích cực tại Hội nghị Glasgow, các nước cần nâng cao NDC đến mức đủ để đạt được mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ toàn cầu trong khoảng 1,5°C. Chính phủ các nước cần đệ trình mục tiêu cho năm 2030 hoặc điều chỉnh những mục tiêu đã đệ trình nhưng chưa đủ tham vọng. Hành động mạnh mẽ từ Nhóm các nền kinh tế lớn (G20), vốn chiếm khoảng 80% lượng phát thải toàn cầu, giữ vai trò then chốt. Nếu mức độ tham vọng về NDC đủ để đáp ứng mục tiêu 1,5°C, thì chính phủ các nước sẽ cần phải trình bày chiến lược thu hẹp khoảng cách này vào đầu những năm 20 của thế kỷ này, trong đó có việc xem xét lại NDC trước thời hạn được đề ra trong Hiệp định Paris và đẩy nhanh quá trình loại bỏ carbon thông qua các sáng kiến trong những ngành công nghiệp phát thải nhiều.
Mặc dù vấn đề biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia, nhưng những nước phát thải ít nhất nhìn chung vẫn là những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Ở nhiều nước đang phát triển dễ bị tổn hại vì biển đổi khí hậu, sự thiếu hụt về nguồn tài chính là một trong những yếu tố hạn chế khả năng giảm thiểu tác động tiêu cực và thích ứng với biến đổi khí hậu. COVID-19 đã làm trầm trọng thêm thách thức này: Trong khi các nước công nghiệp đã tiến hành các biện pháp kích thích chưa từng có để hỗ trợ nền kinh tế và tiêm vaccine cho phần lớn dân số, thì nhiều nước đang phát triển vẫn phải đối mặt với thảm họa y tế và kinh tế.
Các nước phát triển cần thực hiện cam kết năm 2009 là huy động 100 tỷ USD/năm cho hành động chống biến đổi khí hậu ở các nước đang phát triển. Điều quan trọng là phải nâng cao tham vọng và tránh để mất lòng tin. Đối với nhiều nước đang phát triển, việc thực hiện toàn bộ hoặc ít nhất một phần NDC phụ thuộc vào nguồn tài trợ nhận được. Để đạt được kết quả như kỳ vọng tại Hội nghị Glasgow, các nước cần ủng hộ và chú ý hơn đến các vấn đề then chốt trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu, cũng như những mất mát và thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra.
Cuối cùng, để đạt được kết quả tích cực tại COP26, các nước cần đạt được tiến bộ đáng kể trong việc thúc đẩy các yếu tố còn lại trong Bộ quy tắc Paris. Trong khi Hiệp định Paris cung cấp khung hành động chung, thì Bộ quy tắc Paris cần vạch ra quy trình, đề ra hướng dẫn và công cụ cần thiết để thực hiện Hiệp định Paris một cách hiệu quả và minh bạch. Mặc dù COP24 tại Ba Lan vào năm 2018 đã đạt được sự nhất trí về hầu hết các quy định trong Bộ quy tắc Paris, nhưng vẫn còn một số vấn đề chưa được giải quyết. COP26 đã đạt được những kết quả có ý nghĩa then chốt: nhất trí về đánh giá chung và khung thời gian để thực hiện NDC, giải quyết những tranh chấp xung quanh các quy tắc quản lý thị trường carbon quốc tế, thiết lập các quy tắc về báo cáo minh bạch, bổ sung hướng dẫn về cách thức giám sát việc thực hiện và đánh giá tiến bộ tập thể đạt được.


Giới thiệu
COP26 là hội nghị thượng đỉnh về khí hậu quan trọng nhất kể từ COP21 năm 2015 tại Paris. Đã có nhiều thay đổi về tình hình chính trị toàn cầu liên quan đến biến đổi khí hậu trong năm qua, bao gồm cả việc Joe Biden đắc cử tổng thống Mỹ và Trung Quốc công bố mục tiêu trung hoà carbon.
Giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu là thách thức định hình thời đại của chúng ta. Các quốc gia trên toàn cầu cũng như toàn bộ các tổ chức của Liên hợp quốc đều công nhận tính cấp thiết của việc giảm phát thải khí nhà kính và sẵn sàng đối mặt với những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu.
Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) - hiệp ước nền tảng của cơ chế chống biến đổi khí hậu quốc tế - được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất Rio năm 1992. Các bên ký kết đã nhất trí duy trì lượng khí nhà kính tích tụ trong không khí ở mức có thể giúp ngăn ngừa các tác động nguy hiểm do con người gây ra đối với hệ thống khí hậu. Hàng năm, các quốc gia phê chuẩn UNFCCC sẽ tham dự COP để đánh giá và xem xét tiến trình thực hiện Công ước. Kể từ khi UNFCCC ra đời, COP đã đàm phán hai hiệp ước riêng biệt: Nghị định thư Kyoto năm 1997 và Hiệp định Paris năm 2015.
Tại COP21 năm 2015, Hiệp định Paris đã được 196 bên thông qua và bắt đầu có hiệu lực chưa đầy 1 năm sau đó. Mục tiêu của Hiệp định là duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 2°C, lý tưởng là 1,5°C, so với thời kỳ tiền công nghiệp; tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và xây dựng khả năng chống đỡ; khơi thông dòng chảy tài chính phù hợp với lộ trình hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và phát triển khả năng thích ứng với khí hậu. Hiệp định Paris áp dụng cách tiếp cận từ dưới lên và không áp đặt tiêu chuẩn. Thay vào đó, các nước tự đặt ra mục tiêu giảm phát thải và đệ trình NDC lên UNFCCC.
Trên thực tế, các mục tiêu được đệ trình trước thềm COP21 dù có được thực thi cũng không đủ để duy trì mức tăng nhiệt độ toàn cầu trong khoảng 2°C. Tuy nhiên, Hiệp định Paris được thiết kế nhằm từng bước nâng cao tham vọng về NDC thông qua đánh giá tổng thể những tiến bộ đạt được trong quá trình thực hiện các mục tiêu dựa trên báo cáo của các nước và khuyến khích các quốc gia đề xuất NDC mới hoặc điều chỉnh NDC cũ 5 năm/lần, với kỳ vọng từng bước nâng cao tham vọng. Kết quả đánh giá dự kiến sẽ được công bố 2 năm trước khi tiến hành điều chỉnh NDC. Quy trình này giúp ích cho các nước trong việc xây dựng kế hoạch đánh giá tình hình khí hậu phù hợp với bối cảnh toàn cầu. Việc đánh giá tình hình khí hậu toàn cầu được tiến hành lần đầu trong giai đoạn 2021-2023 và sẽ được lặp lại 5 năm/lần. Kết quả đánh giá đợt đầu dự kiến sẽ được công bố vào năm diễn ra COP28.
Sau 1 năm trì hoãn, Anh phối hợp với Italy đăng cai tổ chức COP26 tại Glasgow, Scotland, từ ngày 31-12/11/2021. Việc tổ chức một sự kiện trực tiếp trong bối cảnh đại dịch COVID-19 là một thách thức lớn. Đến đầu tháng 9/2021, Chính phủ Anh mới bàn giao vaccine phòng COVID-19 cho các phái đoàn tham dự và các biện pháp hạn chế như yêu cầu cách ly gây trở ngại thêm cho những phái đoàn này. Một liên minh gồm 1.500 tổ chức xã hội dân sự nằm trong số các bên kêu gọi trì hoãn COP lần hai vì những quan ngại liên quan đến tình trạng thiếu kế hoạch đảm bảo an toàn cho các phái đoàn tham dự, nhất là những phái đoàn đến từ các nước đang phát triển. Tuy nhiên, Chính phủ Anh một mực khẳng định sẽ tiến hành hội nghị theo kế hoạch.
Đại dịch đã làm thay đổi nhận thức về những rủi ro toàn cầu, bản chất kết nối của các nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong việc chuẩn bị và ứng phó với các mối đe dọa hiện hữu. Điều này có thể tạo động lực đẩy nhanh hành động chống biến đổi khí hậu. Bản thân việc trì hoãn COP26 cũng có ý nghĩa quan trọng. Nhiều thay đổi về tình hình chính trị toàn cầu liên quan đến biến đổi khí hậu đã diễn ra trong năm qua, trong đó có việc Joe Biden đắc cử tổng thống Mỹ và Trung Quốc công bố mục tiêu trung hoà carbon. Hơn nữa, chính phủ các nước đang triển khai các gói phục hồi kinh tế nhằm khắc phục hậu quả kinh tế do đại dịch gây ra, qua đó đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh. Tuy nhiên, cho đến nay, các nước thành viên G20 vẫn ưu tiên đầu tư vào nhiên liệu hoá thạch hơn là năng lượng sạch. Ước tính chỉ có 10% ngân sách toàn cầu được phân bổ cho các dự án ảnh hưởng tích cực đến môi trường.
COP26 là hội nghị thượng đỉnh về khí hậu quan trọng nhất kể từ COP21 tại Paris, và nó khác với các COP trước đó ở một số điểm: Đây là hội nghị đánh dấu bước chuyển từ đàm phán sang thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Để đạt được kết quả như kỳ vọng tại COP26, các bên cần có những hành động đáng kể trước - bên ngoài phạm vi UNFCCC - và trong quá trình diễn ra hội nghị.
Hoạt động của con người đã khiến nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng khoảng 1,1°C so với thời kỳ tiền công nghiệp và sự gia tăng nhiệt độ làm gia tăng rủi ro cho con người, cộng đồng và hệ sinh thái. Để tránh những tác động thảm khốc nhất của biến đổi khí hậu, các nhà lãnh đạo thế giới cần nỗ lực hết sức duy trì mức tăng nhiệt độ toàn cầu trong khoảng 1,5°C. Theo Báo cáo đánh giá lần thứ 6 của Uỷ ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), các nước vẫn có thể duy trì mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở ngưỡng này nếu có hành động kịp thời. Như John Kerry, Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ về vấn đề biến đổi khí hậu, đã phát biểu, COP26 là thử nghiệm mang tính cấp bách và sống còn như các cuộc thử nghiệm trước đó.
COP26 có vai trò quan trọng trong việc giúp thế giới đi đúng lộ trình để đạt mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trong khoảng 1,5°C và hỗ trợ những nước chịu nhiều ảnh hưởng nhất của biến đổi khí hậu. Đó cũng là bài kiểm tra quan trọng về độ tin cậy của Hiệp định Paris và quy trình UNFCCC nói chung. Tuy nhiên, Hội nghị thượng đỉnh tại Glasgow có thể và cần đạt được những mục tiêu cụ thể nào? Mục tiêu của bài viết này là thảo luận kết quả tích cực đạt được tại COP26 nhằm khuyến khích các nước nâng cao tham vọng về NDC và đóng góp vào một cuộc tranh luận công khai trên cơ sở có đủ thông tin về tình hình. Lập luận chính được đưa ra là các nước cần phải đạt được tiến bộ đáng kể trong 3 lĩnh vực chính: nâng cao tham vọng về NDC; tăng cường hỗ trợ và xoa dịu quan ngại của các nước đang phát triển dễ bị tổn hại bởi vì biến đổi khí hậu; và thúc đẩy Bộ quy tắc Paris nhằm thực hiện Hiệp định Paris.
COP26 chắc chắn có ý nghĩa to lớn và những cam kết của chính phủ các nước trước thềm Hội nghị Glasgow sẽ góp phần định hình mức phát thải khí nhà kính trong tương lai. Tuy nhiên, sự kiện này không chỉ có ý nghĩa then chốt trong việc hướng tới một kết quả đầy tham vọng trong nỗ lực chống biến đổi khí hậu mà còn là cơ hội quan trọng để đánh giá mức độ đáng tin cậy của tiến trình quốc tế và UNFCCC.


Nâng cao tham vọng về NDC
Mức độ tham vọng về NDC đã được chính phủ các nước điều chỉnh và đệ trình lên UNFCCC, cũng như mức độ khả thi của việc duy trì mức tăng nhiệt độ toàn cầu trong khoảng 1,5°C như đã được nhất trí trong Hiệp định Paris sẽ là điều đáng chú ý tại COP26.
Theo Chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), tổng lượng phát thải khí nhà kính năm 2019 là 52,4 GtCO₂e, cao hơn khoảng 59% so với năm 1990 và cao hơn 44% so với năm 2000. Sáu nước phát thải nhiều nhất - chiếm 62% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu - là Trung Quốc (26,7%), Mỹ (13%), EU (8%), Ấn Độ (7%), Nga (5%) và Nhật Bản (3%).
Theo UNEP, tính đến cuối thế kỷ 21, sau đợt thực hiện NDC đầu tiên, nhiệt độ toàn cầu trung bình tăng 3°C so với thời kỳ tiền công nghiệp và có xu hướng tiếp tục tăng. Nếu các nước thực hiện đầy đủ các NDC, thì lượng phát thải năm 2030 dự kiến sẽ nằm trong khoảng từ 56 GtCO₂e (đối với các NDC vô điều kiện – tức là những đóng góp dựa trên nguồn lực và khả năng của chính các nước đó) đến 53 GtCO₂e (đối với các NDC có điều kiện – tức là những đóng góp phụ thuộc vào sự hỗ trợ của các nước khác). Để thực hiện mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 2°C, trong đợt thực hiện lần thứ hai, các nước cần tăng gấp 3 lần tham vọng về các NDC, đưa lượng phát thải năm 2030 về mức 41 GtCO₂e. Để đạt mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C, các nước cần tăng gấp 5 lần tham vọng về các NDC, đưa lượng phát thải năm 2030 về mức 25 GtCO₂e.
Theo quy định tại Hiệp định Paris, các bên có trách nhiệm đệ trình NDC 5 năm/lần và mỗi lần đệ trình sẽ là một lần nâng cao tham vọng. Các bên đã đệ trình các mục tiêu đầu tiên trước COP21, cũng như các kế hoạch mới hoặc những điều chỉnh đối với kế hoạch cũ trong năm 2020. COP26, lẽ ra đã được tổ chức vào tháng 11/2020, sẽ xem xét mức độ tham vọng chung của các kế hoạch này so với các mục tiêu của Hiệp định Paris. Việc lùi thời điểm tổ chức COP26 1 năm đã kéo dài thời hạn đệ trình NDC trước COP26.


Tình hình hiện tại
Việc trì hoãn COP26 đã giúp các nước có thêm thời gian để đệ trình NDC và kéo dài thời hạn thực hiện mục tiêu giảm thải carbon. Nỗ lực này đã thu hút sự chú ý đáng kể của cộng đồng quốc tế khi tại Phiên họp lần thứ 75 của Đại hội đồng Liên hợp quốc hồi tháng 9/2020, Trung Quốc cam kết trung hòa carbon vào năm 2060 và đạt mục tiêu giảm phát thải trước năm 2030. Sau đó, vào tháng 11/2020, Anh đã đệ trình NDC, cam kết giảm 68% lượng phát thải vào năm 2030 (so với năm 1990) và sau đó bổ sung thêm mục tiêu giảm 78% lượng phát thải vào năm 2035. Ngoài ra, EU đã đưa ra mục tiêu giảm 55% lượng phát thải so với năm 1990. Thậm chí một số quốc gia trong khối này, trong đó có Đức, còn đặt mục tiêu cao hơn là cắt giảm 65% lượng phát thải.
Việc Tổng thống Biden đắc cử đã làm thay đổi cơ bản quan điểm của Mỹ về biến đổi khí hậu, dẫn đến việc nước này tái gia nhập Hiệp định Paris. Tại Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu do Mỹ chủ trì, Chính quyền Biden đã đưa ra NDC với mục tiêu giảm 50%-52% lượng phát thải (so với năm 2005, tương đương với giảm 40%-43% so với năm 1990). Tại hội nghị này, Canada, Nhật Bản và nhiều nước khác đã cam kết thực hiện NDC tham vọng hơn.
Mặc dù chịu sức ép phải hành động trước những tác động ngày càng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, nhưng các nước cũng có thêm nhiều cơ hội để giảm phát thải carbon nhờ các công nghệ và hệ thống thay thế sẵn có, cũng như giảm thiểu chi phí năng lượng tái tạo.
Các nước G20 đã đưa ra NDC trước thềm COP21 tại Paris. Cơ quan theo dõi hành động chống biến đổi khí hậu, một cơ quan hoạt động độc lập, đã đánh giá những điều chỉnh về các NDC, đồng thời phân tích mức độ phù hợp của chúng với lộ trình duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C. Cơ quan này cũng xem xét các chính sách và hành động của các nước, điều có ý nghĩa hết sức quan trọng vì các chính sách và hành động đó là dấu hiệu cho thấy các chính phủ có tuân thủ cam kết của họ hay không.
Tính đến tháng 9/2021, 85 quốc gia và 27 nước EU, chiếm khoảng một nửa lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu, đã đệ trình NDC mới hoặc điều chỉnh NDC cũ. Một số nước, như Trung Quốc và Nhật Bản, đã đề xuất các mục tiêu mới nhưng chưa chính thức đệ trình trong khi khoảng 70 nước - kể cả các nước G20 như Ấn Độ, Saudi Arabia và Thổ Nhĩ Kỳ - chưa đề xuất hay thông báo về việc điều chỉnh các NDC cũ. Hơn nữa, một số nước đã đệ trình NDC mới nhưng không tăng tham vọng. Những nước này bao gồm Australia, Brazil, Indonesia, Mexico, New Zealand, Nga, Singapore, Thụy Sĩ và Việt Nam. Thậm chí, một số nước như Brazil và Mexico còn giảm tham vọng. Theo báo cáo tháng 2/2021 của Cơ quan theo dõi hành động chống biến đổi khí hậu, những điều chỉnh về NDC chỉ có thể thu hẹp thêm tối đa 15% khoảng cách so với mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C.
Phân tích tương tự của Liên hợp quốc cho thấy sự cần thiết của việc nâng cao NDC. Nếu các NDC hiện tại được thực hiện đầy đủ, thì tổng lượng phát thải khí nhà kính (không bao gồm lượng phát thải liên quan đến việc sử dụng đất) năm 2030 dự kiến sẽ cao hơn 16,3% so với năm 2010 và cao hơn 5% so với năm 2019. Tuy nhiên, lượng phát thải của các bên đã đệ trình NDC mới hoặc điều chỉnh NDC cũ dự kiến sẽ giảm khoảng 12% vào cuối thập kỷ này so với năm 2010. Báo cáo của Liên hợp quốc cũng nêu bật tầm quan trọng của việc hỗ trợ các nước đang phát triển, vì nhiều nước trong số này đã đệ trình NDC dựa vào nguồn tài chính và hỗ trợ nhận được nhằm nâng cao năng lực, cũng như các công nghệ được chuyển giao. Nếu những nước này tiếp tục nhận được hỗ trợ trong thời gian sắp tới, thì lượng phát thải toàn cầu có thể giảm ở mức cao nhất trước năm 2030 và lượng phát thải vào cuối thập kỷ này sẽ giảm 1,4% so với năm 2019. Tuy nhiên, việc thực hiện đầy đủ các NDC vô điều kiện và có điều kiện sẽ dẫn tới việc bỏ qua các mục tiêu của Hiệp định Paris - vì để đáp ứng mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C và 2°C, các nước cần cắt giảm lượng phát thải ở mức tương ứng là 45% và 25% vào năm 2030 (so với mức năm 2010).
Nhiều nước cũng cam kết đưa lượng phát thải ròng về mức 0 trong dài hạn. Tính đến tháng 9/2021, hơn 130 quốc gia đã đưa ra cam kết như vậy, nhưng không phải tất cả đều chính thức đệ trình lên UNFCCC, ví dụ như Trung Quốc, Nhật Bản, Brazil, Mỹ, Nam Phi, Hàn Quốc, các nước thành viên EU, cũng như các nước đang phát triển dễ chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như Quần đảo Marshall, Barbados, Kiribati và Bangladesh. Theo ước tính của Cơ quan theo dõi hành động chống biến đổi khí hậu, nếu các nước thực hiện đầy đủ các NDC và những mục tiêu dài hạn trên, thì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu có thể được duy trì trong khoảng 2°C. Tuy nhiên, hầu hết các cam kết đưa lượng phát thải ròng về mức 0 đều dựa trên các căn cứ mơ hồ và phi thực tế. Hơn nữa, các mục tiêu dài hạn chỉ đáng tin cậy nếu chúng được hỗ trợ bởi các NDC mạnh mẽ và đầy tham vọng cho năm 2030, với điều kiện các nước phải cắt giảm đáng kể lượng phát thải trong thập kỷ này. Điều đáng lo ngại là việc cam kết đưa lượng phát thải về mức 0 có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của các nước vào các công nghệ không phát thải khí nhà kính như năng lượng sinh học có khả năng thu nạp và lưu trữ carbon (BECCS), công nghệ vẫn cần được thử nghiệm trên quy mô lớn để phục vụ việc đánh giá yêu cầu mặt bằng, hiệu quả và tính khả thi về mặt kinh tế.


Thách thức của việc thu hẹp khoảng cách
Việc thu hẹp khoảng cách giữa các NDC hiện tại và mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C là một thách thức mang tính quyết định đối với chính phủ các nước trước thềm COP26. Theo ước tính của UNEP, các nước cần nâng cao gấp 5 lần tham vọng về các mục tiêu cho năm 2030 so với các cam kết được đưa ra vào năm 2015 để phù hợp với lộ trình duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C. Hiện một số nước phát thải nhiều - trong đó có Mỹ và các nước EU - đã đệ trình các NDC mới hoặc điều chỉnh các NDC cũ. Theo Cơ quan theo dõi hành động chống biến đổi khí hậu, mục tiêu của Anh được đánh giá là phù hợp với lộ trình duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C, trong khi mục tiêu của Mỹ, EU, Nhật Bản và Canada được đánh giá là tương đối phù hợp.
Điều quan trọng là tất cả các quốc gia chưa đệ trình NDC mới hoặc điều chỉnh NDC cũ phải thực hiện nhiệm vụ này và những cam kết phù hợp với lộ trình duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C. Điều quan trọng không kém là các quốc gia đã đệ trình NDC nhưng thiếu tham vọng cần phải xem xét lại các mục tiêu của mình. Theo quy định của Hiệp định Paris, các bên có thể điều chỉnh NDC bất kỳ lúc nào, nếu mục đích của động thái này là nâng cao tham vọng. Các nước G20 có vai trò đặc biệt quan trọng. Tháng 7/2021, Italy, trên cương vị Chủ tịch G20 năm 2021, đã đăng cai tổ chức Hội nghị cấp bộ trưởng G20 về khí hậu và năng lượng. Trong thông cáo cuối cùng, các nước thành viên G20 tuyên bố sẽ điều chỉnh NDC cũ hoặc đệ trình NDC mới đầy tham vọng tại COP26. Hành động tập thể của tất cả các thành viên G20 rõ ràng có ý nghĩa quan trọng, vì những nước này chiếm 80% tổng lượng phát thải toàn cầu. Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres từng nói: “Không có cách nào đạt được mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C nếu không có sự lãnh đạo của G20”.
Tuy nhiên, vì COP26 đã diễn ra, nên việc giảm 20–23 GtCO₂e lượng phát thải trước thềm hội nghị đã trở thành nhiệm vụ bất khả thi. Tại Hội nghị cấp bộ trưởng COP26 do Anh tổ chứchồi tháng 7/2021, một số bộ trưởng nhấn mạnh rằng các bên cần tìm cách thu hẹp khoảng cách sau Hội nghị Glasgow. Một số ý kiến cho rằng các nước có thể phản ứng bằng cách đưa ra các cam kết chính trị rõ ràng nhằm thực hiện mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt đột trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C, thừa nhận khoảng cách và lên kế hoạch thu hẹp khoảng cách đó. Các bên cũng đã thảo luận về việc đưa ra các đề xuất hành động cụ thể hơn nhằm giữ vững lộ trình tiến tới mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C. Các đề xuất này bao gồm việc khuyến khích các quốc gia có NDC phù hợp xây dựng các mục tiêu cho năm 2030 phù hợp với lộ trình trên trước năm 2025 (thời hạn đệ trình NDC đợt 3), kêu gọi các bên đệ trình các chiến lược dài hạn cụ thể để đưa lượng phát thải ròng về mức 0 và/hoặc phát tín hiệu rõ ràng đến các thị trường thông qua các hành động như loại bỏ việc sử dụng than đá, định giá carbon, cải cách cơ chế trợ cấp nhiên liệu hóa thạch, đưa ra các giải pháp dựa vào thiên nhiên và sử dụng các phương tiện vận chuyển không phát thải carbon.


Đạt được kết quả tích cực tại COP26
Tiêu chuẩn cuối cùng để đánh giá triển vọng đạt được một kết quả đầy tham vọng tại COP26 là liệu những đề xuất về các NDC mới hoặc những điều chỉnh về các NDC cũ có đủ tham vọng để đảm bảo thực hiện được lộ trình duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C hay không. Đối với nhiều cộng đồng và hệ sinh thái, mối đe dọa từ những tác động khác nhau của từng mức tăng nhiệt độ từ 1,5°C đến 2°C - chưa kể 3°C, 4°C hoặc 5°C - đang hiện hữu. Dự báo mỗi mức tăng nhiệt độ sẽ gây tác động thảm khốc và tiêu tốn nhiều tiền của, trong đó có tình trạng nắng nóng gay gắt, mực nước biển dâng cao, mất đa dạng sinh học, giảm năng suất cây trồng và thiệt hại trên diện rộng đối với hệ sinh thái như làm chết các rạn san hô và giảm dân số các quần thể hải sản.
Để hiện thực hóa mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C, các nước cần có những hành động đáng kể trong thập kỷ này. Các mục tiêu dài hạn như đưa lượng phát thải ròng về mức 0 hoặc trung hòa carbon có khả năng trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình loại bỏ carbon. Tuy nhiên, những mục tiêu này cần được sự hỗ trợ của các NDC đầy tham vọng, cũng như các chính sách cụ thể và các khoản đầu tư đủ lớn.
Nếu tiến tới COP26 mà không có các NDC đủ tham vọng, thì các bên sẽ cần trình bày kế hoạch nâng cao tham vọng vào đầu những năm 2020. Để làm được điều này, COP có thể ra quyết định hoặc một tuyên bố chính trị nhấn mạnh sự cần thiết của việc duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong khoảng 1,5°C và yêu cầu các bên xem xét lại các NDC được đưa ra sớm hơn thời hạn được quy định trong Hiệp định Paris (chẳng hạn, yêu cầu đệ trình các NDC mới vào năm 2023 thay vì năm 2025). Để hỗ trợ những hành động tham vọng hơn, các nước nên tìm cách mở rộng hợp tác quốc tế và đẩy nhanh quá trình loại bỏ carbon trong các lĩnh vực then chốt. Tại COP26, các nước có thể giúp tăng cường độ tin cậy của các cam kết bằng cách đưa ra các chính sách, biện pháp và sáng kiến nhằm đẩy nhanh quá trình loại bỏ carbon, kể cả từng bước giảm thiểu việc sử dụng than đá mà không áp dụng công nghệ giảm phát thải carbon và tăng cường sử dụng xe điện.
Trước thềm COP26, Chính phủ Anh đã huy động các đối tác và các bên tham gia phi nhà nước đẩy nhanh việc loại bỏ than đá mà không áp dụng công nghệ giảm phát thải carbon, triển khai các phương tiện chạy bằng điện, bảo vệ và phục hồi thiên nhiên (thông qua các giải pháp dựa vào thiên nhiên) và điều chỉnh dòng chảy tài chính cho phù hợp với các mục tiêu của Hiệp định Paris. Khu vực tư nhân đóng vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi sang các nền kinh tế không phát thải và điều này đã được công nhận trong khuôn khổ UNFCCC, vì khu vực này có thể cung cấp vốn tài trợ, giải pháp đổi mới và triển khai công nghệ với tốc độ và quy mô lớn hơn hầu hết các chính phủ. Một vài sáng kiến trong số này được hy vọng sẽ dẫn đến các thỏa thuận đa phương trước hoặc trong thời gian diễn ra COP26 nhằm nâng cao uy tín của các cam kết cắt giảm carbon và giúp hiện thực hóa mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình trog khoảng 1,5°C. Việc giới thiệu một gói giải pháp bao gồm các NDC đầy tham vọng, các thỏa thuận đa phương và các chính sách quốc gia tại COP26 có thể tạo ra động lực tích cực thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang các xã hội không phát thải cũng như lòng tin của chúng ta.

(còn tiếp)

Theo TTXVN

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết