TTXVN (Singapore 13/4): Theo nhận định của báo The Straits Times, có thể là quá sớm để dự đoán những gì sẽ xảy ra sau khi dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19 qua đi. Tuy nhiên, có những quan điểm cho rằng khi vượt qua cuộc khủng hoảng này, thế giới sẽ không còn như trước. Chẳng hạn, toàn cầu hóa chắc chắn sẽ giảm sút và thay vào đó chủ nghĩa dân tộc sẽ trỗi dậy bởi nhiều người tin rằng toàn cầu hóa dẫn đến sự lây lan của đại dịch.
* Liệu toàn cầu hóa có thể đảo ngược?
Điều không thể phủ nhận là việc đi lại dễ dàng trên thế giới và di chuyển không biên giới đã góp phần dẫn đến sự lan nhanh của dịch bệnh. Tuy nhiên, việc đảo ngược toàn cầu hóa sẽ không dễ dàng bởi thực tế là không thể phi toàn cầu hóa một thế giới vốn đã toàn cầu hóa. Như nhà báo Thomas Friedman của tờ New York Times gần đây cho rằng toàn cầu hóa sẽ tiếp tục diễn ra sau khi đại dịch qua đi. Ông cho rằng có thể sẽ có một số trở ngại đối với kinh tế và thương mại toàn cầu nhưng toàn cầu hóa sẽ tiếp tục vận hành. Đương nhiên, có thể có một số hạn chế và giới hạn mới đối với các hoạt động tự do trước đây, nhưng chúng ta không thể ngăn chặn toàn cầu hóa.
Nhà sử học người Israel Yuval Harari đã viết trong bài viết gần đây của ông có tựa đề “Thế giới hậu COVID-19” rằng kỷ nguyên hậu COVID-19 có thể chứng kiến sự xuất hiện của một "Người anh cả" theo dõi chặt chẽ và kiểm soát người dân dưới cái cớ tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, giáo sư Harari cũng lạc quan. Ông cũng viết trong kỷ nguyên hậu COVID-19, sẽ có sự chia sẻ thông tin và giao tiếp với nhau nhanh hơn bao giờ hết, bởi vậy thế giới sẽ tiếp tục toàn cầu hóa.
Những người khác dự đoán rằng "xu hướng trở về" sẽ diễn ra ở nhiều nơi với việc nhiều doanh nghiệp sẽ đưa các nhà máy của họ ở nước ngoài "hồi hương". Trải qua tai ương kinh tế trong đại dịch, con người giờ đây nhận ra rằng không có các nhà máy cung cấp các linh kiện và hàng hóa ở chính đất nước mình, họ không thể chống đỡ được một cuộc khủng hoảng quốc tế như COVID-19.
Nếu hiện tượng như vậy thắng thế, các nước đã cung cấp lao động giá rẻ cho các công ty nước ngoài chắc chắn sẽ chịu cú giáng nặng nề. Các nước mà nền kinh tế phụ thuộc vào thương mại quốc tế cũng sẽ phải gánh chịu hậu quả khi nhiều nước giảm nhập khẩu trong một thời gian. Bởi vậy, sau đại dịch, một số nước sẽ phải đối mặt với suy thoái kinh tế chưa từng có.
Những tác động mà virus SARS-CoV-2 gây ra chắc chắn sẽ để lại những vết sẹo không thể xóa mờ trong thế giới của chúng ta. Tuy nhiên, cần phải nỗ lực hết sức để biến thảm họa này thành cơ hội mới xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
* Nguy cơ bị chia tách
Kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Trung Quốc đã và đang ngày càng hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, khi Trung Quốc trở nên gắn chặt hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, nước này ngày càng phụ thuộc vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều đó có nghĩa là một cuộc khủng hoảng khi xảy ra sẽ dẫn tới sự gián đoạn ở một phần của chuỗi giá trị toàn cầu vì toàn bộ chuỗi cung ứng ngừng hoạt động.
Virus SARS-CoV-2 đã cho thấy sự ảnh hưởng lớn hơn là những rạn nứt thương mại, bởi rạn nứt thương mại là có thể xử lý được ở một mức độ nào đó. Khó có thể đánh giá được thời gian kéo dài của dịch bệnh và những ảnh hưởng của nó. Hơn nữa, dịch bệnh đang siết chặt lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc. Cạnh tranh đã và đang diễn ra khốc liệt trong các ngành may mặc, cơ điện học và hóa học, do mức độ tương đồng cao trong xuất khẩu giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á và những sự chồng lấn về điểm đến xuất khẩu. Khi chi phí lao động ở Trung Quốc tăng lên, các nền kinh tế phát triển đang chuyển các nhà máy của họ sang các nước cạnh tranh hơn về giá cả ở khu vực Đông Nam Á. Dịch bệnh có khả năng làm chất xúc tác cho sự chuyển đổi này của các ngành công nghiệp cần nhiều lao động.
Dịch bệnh cũng sẽ tác động đến chuỗi cung ứng thông qua cả cung và cầu. Nhu cầu trong nước đối với sản xuất và tiêu dùng trước mắt sẽ giảm mạnh, dẫn đến nhập khẩu giảm nhiều. Về mặt cung, hầu hết các nhà máy trong nước đều lùi ngày mở cửa trở lại do dịch bệnh. Điều này đã cản trở các tiến trình sản xuất của các công ty ở nước ngoài.
Tình hình dịch bệnh bên ngoài Trung Quốc, đặc biệt là ở các nước phát triển ở châu Âu và Mỹ, bất ngờ vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Điều này có nghĩa là nền kinh tế Trung Quốc phải đối mặt với sức ép cả về mặt cung lẫn cầu.
Về cơ cấu thương mại, các nền kinh tế bị tác động mạnh mẽ nhất sẽ là những nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc về cung hoặc cầu. Các nước ở phía trên của chuỗi giá trị toàn cầu chủ yếu là các nước xuất khẩu tài nguyên, đặc biệt là các tài nguyên dựa vào xuất khẩu dầu mỏ hay khoáng sản, chẳng hạn như Saudi Arabia, Nga, Brazil và Australia. Các nước bị ảnh hưởng tiếp theo là các nền kinh tế phát triển lớn như Mỹ - một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Khi các công ty Mỹ chuyển các nhà cung cấp của họ từ Trung Quốc sang Canada và Mexico, đại dịch sẽ đẩy nhanh việc tách Mỹ ra khỏi Trung Quốc trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong số các nước châu Á, Trung Quốc là điểm đến xuất khẩu lớn nhất đối với Nhật Bản và Hàn Quốc, trong khi hai nước này là nguồn nhập khẩu lớn nhất và lớn thứ hai đối với Trung Quốc. Khi tất cả ba nước bị tác động mạnh mẽ bởi dịch bệnh, họ sẽ phải vật lộn để duy trì chuỗi giá trị của họ.
Năm 2019, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã thay thế Mỹ trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai của Trung Quốc. Do các nước ASEAN không nằm trong số những nước bị tác động mạnh mẽ nhất của đại dịch, chuỗi giá trị Trung Quốc-ASEAN chỉ bị ảnh hưởng ở mức độ vừa phải.
Mặt khác, tổng thương mại của Trung Quốc với Liên minh châu Âu, đối tác thương mại lớn nhất của nước này, đã chứng kiến sự sụt giảm mạnh. Kết hợp với tình trạng nghiêm trọng của dịch bệnh ở châu Âu, thương mại Trung Quốc-châu Âu cũng có thể bị tác động lớn trong năm 2020.
Thậm chí dù dịch bệnh đã được kiềm chế ở Trung Quốc và mọi việc tiếp tục được cải thiện, virus SARS-CoV-2 đang lây lan nhanh ở các đối tác thương mại chủ yếu của nước này, châu Âu và Mỹ. Thực trạng này trở thành những rủi ro thương mại gia tăng. Nguy cơ tách rời đang trở thành sự thực.
* Cơ cấu sức mạnh toàn cầu dịch chuyển sang phía Đông
Trong khi không thể dự đoán chính xác những tác động mà dịch bệnh COVID-19 sẽ để lại cho thế giới, nhưng chúng ta biết rằng thế giới sau thảm họa này sẽ rất khác. Câu hỏi lớn ở đây là khác như thế nào? Những diễn biến gần đây đem lại cho chúng ta một số câu trả lời.
Thứ nhất, ảnh hưởng kinh tế của COVID-19 sẽ tồi tệ hơn đối với các nước đang phát triển như Pakistan. Bởi thế giới phát triển có không gian tài chính rộng hơn, nên các nước có khả năng chống đỡ được tình hình khi mà các doanh nghiệp đóng cửa. Các nước đang phát triển không may là không có đủ nguồn lực tài chính để chi trả cho những người phải ở nhà trong thời gian dài.
Thứ hai, quyền lực của chính phủ đã được sử dụng theo những cách thức chưa từng có trên khắp thế giới. Điều này sẽ có những tác động đến cách thức các chính phủ vận hành trong tương lai. Các quyền tự do bất khả xâm phạm như tự do di chuyển và tự do tín ngưỡng đã phải “ngồi ghế sau”, ít nhất là tạm thời. Hoàn toàn có khả năng là các chính phủ trong thế giới hậu COVID-19 sẽ lớn hơn và có quyền lực hơn.
Cuối cùng, đại dịch COVID-19 có thể làm thay đổi cơ cấu quyền lực toàn cầu, chuyển từ thế giới phương Tây sang Đông Á. Bỏ qua khả năng về làn sóng lây nhiễm thứ hai trong tương lai, bằng chứng hiện nay đã chỉ ra tính hiệu quả của các biện pháp tại Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore trong việc “san phẳng làn sóng” ngay cả khi các nước này có ít thời gian đối phó với dịch bệnh hơn so với các quốc gia phương Tây.
Sự thay đổi quyền lực trong trật tự thế giới toàn cầu không có khả năng diễn ra nhanh chóng, nhưng cuộc khủng hoảng COVID-19 chắc chắn là chất xúc tác tiềm tàng trong tiến trình thay đổi này.
* Sự chấm dứt trạng thái bình thường trước đây
Cuối cùng, sau khi cuộc khủng hoảng qua đi, chúng ta sẽ phải lựa chọn, giữa một hướng là tìm cách quay trở lại công việc kinh doanh như trước khi xảy ra đại dịch, hướng kia là cơ hội từ bỏ mô hình kinh doanh như thường lệ và tiến tới một tương lai hoàn toàn khác.
Dịch bệnh đã thay đổi trạng thái bình thường trước đây, cụ thể là COVID-19 đã phá vỡ sự phụ thuộc của thế giới vào dầu mỏ và các nhiên liệu hóa thạch khác để cung cấp năng lượng cho nền kinh tế toàn cầu. Khi nhu cầu toàn cầu đối với dầu mỏ giảm mạnh do thiếu hoạt động kinh tế, cuộc chiến về giá cả giữa các nhà sản xuất đang loại bỏ bức màn đã được sử dụng để bảo vệ sự thông đồng của họ nhằm giữ giá dầu cao.
Một thực tế khác là sự hủy hoại đa dạng sinh học và khả năng virus lây từ động vật sang người (điều cho đến nay đã ít được chú ý đến) cho thấy tầm nhìn ngắn hạn trong những hành động đối với môi trường của con người. Nếu chúng ta bỏ qua điều này và quay trở lại công việc như thường lệ, thế giới sẽ vô phương cứu chữa./.
Theo (TTXVN tại Singapore)