Thứ Bảy, ngày 27 tháng 04 năm 2024

Nội dung, phương thức giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước

Ngày phát hành: 05/04/2020 Lượt xem 13299

 


1. Quan niệm về giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước 
Giám sát của Quốc hội là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Thực thi công vụ là việc cán bộ, công chức phải làm hoặc không được làm nhiệm vụ mà cơ quan hành chính nhà nước giao .
Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước bao gồm cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương (Chính phủ) và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Ủy ban nhân dân các cấp). 
Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội; thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân; trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức và công vụ trong các cơ quan hành chính nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài; phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình . 
Ủy ban nhân dân các cấp có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao .
Trên cơ sở khái niệm giám sát, khái niệm thực thi công vụ và khái niệm cơ quan hành chính nhà nước, chúng tôi rút ra khái niệm giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; việc xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý và vấn đề tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp.
Theo dõi là quan sát hoạt động tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; việc xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý và vấn đề tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp để biết rõ hoặc để có sự ứng phó, xử lí kịp thời.
Xem xét là tìm hiểu hoạt động tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; việc xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý và vấn đề tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp để rút ra những nhận xét, kết luận cần thiết.
Đánh giá là nhận xét, kết luận về chất lượng, số lượng, tiến độ hoạt động tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; việc xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý và vấn đề tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp.
2. Nội dung, phương pháp và hình thức giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước 
2.1. Nội dung giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước
Nội dung giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước gồm: (i) Theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp; (ii) Theo dõi, xem xét, đánh giá việc xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp; (iii) Theo dõi, xem xét, đánh giá vấn đề tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp .
Giám sát của Quốc hội bao gồm giám sát tối cao và giám sát chuyên đề của Quốc hội, giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Giám sát tối cao là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý. Giám sát tối cao được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội. Giám sát chuyên đề là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá vấn đề hoặc hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Quốc hội giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; giám sát tối cao hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ; giám sát tối cao văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; giám sát tối cao nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; giám sát nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giúp Quốc hội tổ chức thực hiện quyền giám sát tối cao theo sự phân công của Quốc hội.
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; giám sát nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban phụ trách; giúp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức hoạt động giám sát của Đoàn và tổ chức để đại biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện nhiệm vụ giám sát tại địa phương; tham gia giám sát với Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội tại địa phương.
Đại biểu Quốc hội chất vấn Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát văn bản quy phạm pháp luật, việc thi hành pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; tham gia Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội tại các bộ, ngành, địa phương khi có yêu cầu .
Nội dung giám sát là những nội dung phù hợp với tình hình thực tế, đề cập đến những vấn đề thực sự bức xúc trong đời sống xã hội, được cử tri và dư luận cả nước rất quan tâm . 
2.2. Phương pháp giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước
Phương pháp giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước là hệ thống các cách thức mà Quốc hội sử dụng để nghiên cứu, nhìn nhận, theo dõi, xem xét, đánh giá việc thực thi công vụ của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp trong tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; quyết định các vấn đề của Trung ương và địa phương, trên cơ sở xem xét báo cáo công tác của Chính phủ; báo cáo của Ủy ban lâm thời do Quốc hội thành lập để điều tra về một vấn đề nhất định; báo cáo giám sát chuyên đề; báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kiến nghị giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; việc trả lời chất vấn của những người bị chất vấn ; kết quả thực hiện các nghị quyết, kiến nghị giám sát; kết quả lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; kết quả hoạt động giải trình tại các cơ quan của Quốc hội ,  .
Các phương pháp giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước có thể là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, so sánh thực nghiệm, thống kê, phân tích, tổng hợp, điều tra, khảo sát, nghiên cứu điển hình, phỏng vấn, xin ý kiến chuyên gia… trong quá trình theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp trong tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; quyết định các vấn đề của Trung ương và địa phương. 
2.3. Hình thức giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước
Hình thức giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước gồm 04 nhóm: 
Một là: Xem xét (i) báo cáo công tác của Chính phủ; (ii) báo cáo của Ủy ban lâm thời do Quốc hội thành lập để điều tra về một vấn đề nhất định; (iii) báo cáo giám sát chuyên đề; (iv) báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kiến nghị giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. 
Hai là: Xem xét (i) văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; (ii) việc trả lời chất vấn của những người bị chất vấn ; (iii) việc thực hiện các nghị quyết, kiến nghị giám sát. 
Ba là: Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. 
Bốn là: Điều hòa hoạt động giải trình tại các cơ quan của Quốc hội.

 


3. Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước và những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn 
3.1. Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước 
Thời gian vừa qua, hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước ngày càng được quan tâm, đẩy mạnh, có nhiều cải tiến, đổi mới, đạt được những kết quả quan trọng; hiệu quả giám sát được nâng lên, được cử tri và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, củng cố niềm tin của Nhân dân với Nhà nước. Tuy vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn những hạn chế sau ,  :
Một là, Quốc hội chưa thường xuyên xem xét báo cáo, giám sát văn bản quy phạm pháp luật nói chung và pháp luật về thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Nội dung một số kiến nghị giám sát còn chung chung, ít có chỉ tiêu, định lượng, không nêu thời hạn thực hiện cụ thể, dẫn tới khó khăn trong việc xác định, đánh giá chính xác các cơ quan chịu sự giám sát thực hiện như thế nào . 
Hai là, trong một số trường hợp, kiến nghị giám sát chưa xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể có liên quan đến vấn đề được giám sát, biện pháp xử lý và chế tài phù hợp. Việc theo dõi, đôn đốc, giám sát thực hiện kết luận, kiến nghị sau giám sát có lúc, có nội dung chưa thực sự quyết liệt, nên có không ít những vụ việc, vấn đề bất cập chậm được giải quyết, gây bức xúc trong đời sống xã hội... Việc đi đến cùng vấn đề giám sát và tăng cường chế tài sau giám sát vẫn còn hạn chế. 
Ba là, một số cơ quan của Quốc hội chưa tích cực thực hiện công tác điều hòa, phối hợp nên vẫn còn tình trạng trùng lặp các đoàn giám sát đến địa phương. Việc thực hiện các hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, kết quả chưa thật rõ nét. Tổ chức bộ máy tham mưu, phục vụ hoạt động giám sát, các điều kiện bảo đảm cho công tác giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước còn chưa phù hợp . Chưa có biện pháp giám sát hữu hiệu của Quốc hội đối với người thi hành công vụ để phát hiện, xử lý, hạn chế tình trạng vòi vĩnh, tiêu cực, lạm quyền, cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà của người có chức vụ, quyền hạn khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ . 
Bốn là, một số tổ chức, cá nhân có liên quan, chuyên gia có trách nhiệm chưa tham gia đầy đủ, đúng thành phần giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. 
Năm là, một số cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cho Quốc hội còn thiếu chính xác hoặc chưa đầy đủ, kịp thời. Có cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát chưa thực hiện đầy đủ kế hoạch, nội dung, yêu cầu giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; một số báo cáo còn chưa khách quan, đầy đủ theo yêu cầu của Quốc hội.
Sáu là, một số cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức chịu sự giám sát không trực tiếp báo cáo, trình bày những vấn đề Quốc hội yêu cầu mà ủy quyền cho cấp phó của mình ngay cả khi không có lý do chính đáng.
Bẩy là, không ít kết luận, kiến nghị giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước không được cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát thực hiện . Thậm chí có cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước còn có hành vi cản trở hoặc không thực hiện kết luận, yêu cầu, kiến nghị của Quốc hội. 
3.2. Những vướng mắc trong hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước  
Những vướng mắc trong hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu là:
Thứ nhất, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân mới có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, Quy chế “Tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội” mới có hiệu lực từ ngày 01/3/2017 nên việc tổ chức thực hiện chưa vào nề nếp.
Thứ hai, khối lượng hoạt động giám sát và khối lượng các dự án phải thẩm tra, cho ý kiến từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV đến nay lớn nên không đủ thời gian, nguồn lực để theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; việc xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý và vấn đề tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp; không đủ thời gian, nguồn lực để rà soát kiến nghị giám sát, tái giám sát và theo đến cùng những vấn đề đã được giám sát.
Thứ ba, chế tài đối với việc không thực hiện các kiến nghị sau giám sát của Quốc hội còn chưa đủ mạnh, chưa tạo áp lực để các cơ quan chịu sự giám sát nghiêm túc thực hiện.
Thứ tư, những kiến nghị giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước thường được tổng hợp chung trong Báo cáo kết quả giám sát và các Nghị quyết giám sát chuyên đề, dẫn tới tình trạng Quốc hội không nắm được các kiến nghị của mình được thực hiện như thế nào. 
Thứ năm, chưa có có cơ quan cụ thể được giao theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. 
4. Một số đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước trong thời gian tới
Để nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước trong thời gian tới, trên cơ sở quy định của pháp luật về thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; nguyên tắc hoạt động, thẩm quyền và trách nhiệm giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước thời gian qua và những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn, chúng tôi đề xuất, kiến nghị như sau :
4.1. Đề xuất, kiến nghị với các chủ thể giám sát (Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội)
Một là, nâng cao nhận thức của Quốc hội về mục đích, tầm quan trọng của hoạt động giám sát; đề cao trách nhiệm của Quốc hội khi ban hành kiến nghị cần cụ thể, khả thi hơn, nêu rõ chỉ số, tỷ lệ, thời hạn hoàn thành, mục tiêu và các yêu cầu cụ thể khác để các cơ quan chịu sự giám sát dễ triển khai thực hiện, làm cơ sở để các cơ quan giám sát thuận lợi trong việc giám sát việc thực hiện. quan tâm đến tính khả thi, công tác kiểm tra, theo dõi, đánh giá, tổng hợp việc thực hiện kiến nghị sau giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Đẩy mạnh hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng thiết thực, hiệu quả; lựa chọn những nội dung phù hợp để thực hiện giám sát. Tăng cường hoạt động chất vấn của Quốc hội tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, hoạt động giải trình tại Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Nâng cao hiệu lực của hoạt động giám sát của Quốc hội, trong đó cần xác định rõ phạm vi và nội dung của giám sát tối cao phù hợp với điều kiện của Quốc hội. Trong công tác giám sát tối cao, nên tập trung làm tốt hoạt động chất vấn và xem xét báo cáo tại các kỳ họp Quốc hội. Theo đó, cần tăng cường thời lượng hoạt động chất vấn, bảo đảm tính giải trình và tính chịu trách nhiệm của các đối tượng bị giám sát. Nghiên cứu cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 về tổ chức và hoạt động của các Ủy ban lâm thời của Quốc hội.
Quốc hội cần giao Uỷ ban thường vụ Quốc hội tổ chức thực hiện chương trình giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước và chỉ đạo điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội vào kỳ họp cuối năm; đưa vào Chương trình giám sát năm 2020 nội dung giám sát chuyên đề của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước (giai đoạn 2014-2018) . 
Hai là, Ủy ban thường vụ Quốc hội cần quy định rõ (dưới dạng một nghị quyết) để đánh giá, thể hiện thái độ, yêu cầu các cơ quan liên quan nâng cao trách nhiệm và thực hiện nghiêm túc kiến nghị giám sát củcủa Quốc hội; thời hạn giải quyết, trả lời kiến nghị giám sát của Quốc hội; có chế tài cụ thể đối với các cơ quan, cá nhân chịu sự giám sát chậm hoặc không giải quyết các kiến nghị hợp lý củcủa Quốc hội giống như quy định đối với việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri. 
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội căn cứ vào chương trình giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, tình hình thực tế và khả năng thực hiện để chủ động lựa chọn, xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện hoạt động giám sát của mình theo chức năng, nhiệm vụ (tránh quá sức, chất lượng, hiệu quả không cao) và báo cáo kết quả với Quốc hội. Tiếp tục cải tiến cách thức tổ chức, nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát. 
Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Tổng Thư ký Quốc hội tổ chức theo dõi việc thực hiện các kiến nghị củcủa Quốc hội về hoạt động chất vấn; làm đầu mối tổng hợp, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kiến nghị giám sát củcủa Quốc hội để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội, giúp Ủy ban thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội; kết quả việc thực hiện kiến nghị giám sát củcủa Quốc hội sẽ được thông tin thường xuyên đến các cơ quan giám sát, tạo áp lực thực hiện đối với cơ quan chịu sự giám sát. 
Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu các cơ quan chịu sự giám sát khẩn trương, nghiêm túc thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn các kiến nghị củcủa Quốc hội. Việc thực hiện không nghiêm cần được đưa vào làm một trong những nội dung cơ sở khi xem xét trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. 
Ủy ban thường vụ Quốc hội, đặc biệt là các thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội tham gia làm Trưởng đoàn giám sát quan tâm, chỉ đạo để đảm bảo các cơ quan thực hiện nghiêm túc, thống nhất, đúng nghị quyết, kế hoạch, nội dung, chương trình giám sát đã ban hành, đặc biệt là Kế hoạch giám sát chi tiết, hạn chế sự thay đổi chương trình làm việc với địa phương, bộ, ngành đã dự kiến, đã được gửi đến các cơ quan .
Ba là, đề nghị Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ban thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội được giao chủ trì xem xét báo cáo, triển khai chuyên đề giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm đưa vào chương trình, kế hoạch giám sát của cơ quan mình, phân công nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc, báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội tổng hợp việc thực hiện các kiến nghị giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, đồng thời gửi văn bản đến Tổng Thư ký Quốc hội để tổng hợp chung. 
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ban của Ủy ban thường vụ Quốc hội căn cứ vào nghị quyết, kế hoạch, nội dung, chương trình giám sát của Đoàn giám sát của Quốc hội, Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ưu tiên và tạo điều kiện để các thành viên của cơ quan mình trong thành phần Đoàn giám sát tham gia đầy đủ các hoạt động của Đoàn; thực hiện nghiêm công tác điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát thông qua việc cung cấp kịp thời dự kiến chương trình các đoàn công tác đến Văn phòng Quốc hội để tổng hợp báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội; phát huy những kết quả tích cực đã đạt được trong công tác phối hợp với Văn phòng Quốc hội, kiên quyết khắc phục những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn đã nêu; phối hợp tốt hơn nữa đối với các Đoàn đại biểu Quốc hội trong việc tổ chức giám sát tại địa phương .
Tăng cường vai trò và hiệu quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Theo đó, cần tăng cường tính chuyên môn trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Kết quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban là cơ sở vững chắc để Quốc hội thảo luận và đi đến quyết định. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban cần được bố trí hợp lý để bảo đảm có thể phát huy được nguyên tắc làm việc tập thể của các cơ quan này. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu để bổ sung các phương thức làm việc phù hợp với nguyên tắc làm việc tập thể tại Ủy ban như điều trần phục vụ hoạt động lập pháp, giám sát; sử dụng phúc trình viên để báo cáo về kết quả làm việc của Ủy ban. Trong quá trình thảo luận tại phiên họp toàn thể của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, cần được tạo điều kiện để bảo vệ quan điểm mà Ủy ban đã thể hiện trong các báo cáo thẩm tra của mình.
Bốn là, các Đoàn đại biểu Quốc hội căn cứ vào chương trình giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan của Quốc hội và tình hình thực tế của địa phương để xây dựng và thực hiện chương trình giám sát, báo cáo kết quả với Ủy ban thường vụ Quốc hội theo quy định. 
Năm là, đại biểu Quốc hội tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm, tích cực nghiên cứu cơ chế, chính sách, pháp luật về thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Nâng cao kỹ năng giám sát, tham gia và đổi mới cách thức tiến hành giám sát để hoạt động giám sát đi vào chiều sâu, thực chất hơn. 
Sáu là, Văn phòng Quốc hội tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác phối hợp với Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ban của Ủy ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan hữu quan trong việc tham mưu, tổ chức phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội. Theo đó, sẽ sớm ban hành quy chế phối hợp với các cơ quan báo chí phục vụ hoạt động của Quốc hội, trong đó có hoạt động giám sát chuyên đề; củng cố nhân sự và ban hành văn bản phân công phối hợp, tham mưu phục vụ giám sát chuyên đề của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội theo hướng rõ, gọn đầu mối, khoa học, tiết kiệm, hiệu quả để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác tham mưu, phục vụ hoạt động giám sát chuyên đề trong thời gian tới; hướng dẫn một số khoản chi cho hoạt động giám sát chuyên đề của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội phù hợp với thực tế; tiếp tục theo dõi, tổng hợp để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc thực hiện Quy chế thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội . 
Tiếp tục kiện toàn, đổi mới bộ máy tham mưu, giúp việc và các điều kiện đảm bảo, nâng cao tính chuyên nghiệp trong tham mưu, phục vụ để hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước được tiến hành một cách thuận lợi, khoa học, đạt chất lượng, hiệu quả cao  theo hướng nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả trong đó cần nghiên cứu bổ sung một số thiết chế quan trọng như Thanh tra Quốc hội để tiếp nhận và xử lý các kiến nghị của cử tri; Cơ quan nghiên cứu Ngân sách để hỗ trợ các cơ quan của Quốc hội trong việc giám sát và quyết định về ngân sách; cụ thể hóa quy định của Luật Tổ chức Quốc hội về Tổng thư ký Quốc hội và Ban thư ký ...
Bẩy là, hoàn thiện cơ chế bầu cử để qua đó có thể giới thiệu, lựa chọn và bầu được những đại biểu Quốc hội xứng đáng là người đại biểu của nhân dân. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về Hội đồng bầu cử quốc gia để bảo đảm chất lượng của các cuộc bầu cử. Tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm giảm thiểu sự xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu trong đó có việc hạn chế số lượng các đại biểu kiêm nhiệm. Tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội và ở các đoàn đại biểu Quốc hội phù hợp với đặc điểm và yêu cầu tổ chức, hoạt động của Quốc hội nước ta. Tăng cường mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri thông qua việc đổi mới cơ chế tiếp xúc cử tri nhất là với các cử tri đã trực tiếp bầu ra đại biểu Quốc hội. Tăng cường sự giám sát của người dân đối với hoạt động của đại biểu Quốc hội, trong đó có việc ban hành quy trình, thủ tục để các cử tri có thể thực hiện quyền bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội khi các đại biểu đó không còn nhận được sự tín nhiệm của nhân dân. Cần nghiên cứu việc xây dựng đội ngũ chuyên viên giúp việc cho các đại biểu Quốc hội; đồng thời, tăng cường việc bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng hoạt động cho đại biểu Quốc hội, nhất là các kỹ năng giám sát, chất vấn, kỹ năng khai thác, sử dụng và phân tích thông tin...
4.2. Đề xuất, kiến nghị với các chủ thể chịu sự giám sát và các chủ thể có liên quan 
Một là, Chính phủ, các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình kịp thời ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật về thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; đồng thời, tiếp tục rà soát các quy định của pháp luật về thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước còn bất cập để kịp thời sửa đổi, bổ sung đáp ứng yêu cầu của thực tiễn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước . 
Hai là, các cơ quan chịu sự giám sát cần phối hợp chặt chẽ, cung cấp thông tin và tạo mọi điều kiện để hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả; thực hiện nghiêm túc các kiến nghị sau giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. 
Ba là, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng, tính tích cực của các phương tiện thông tin đại chúng, công tác cung cấp thông tin, sự tham gia của cơ quan kiểm toán, các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp, các đối tượng chịu tác động của cơ chế, chính sách, pháp luật về thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. 
Trên đây là quan niệm về giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; nội dung, phương pháp và hình thức giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước và những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn; một số đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước trong thời gian tới. Xin trân trọng giới thiệu./.

 

TS. Đỗ Đức Hồng Hà
Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội


Tài liệu tham khảo
 . Quốc hội (2013) Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
2. Quốc hội (2015) Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
3. Quốc hội (2017), Ấn phẩm tuyên truyền 70 năm Quốc hội Việt Nam. http://quochoi.vn.
4. Quốc hội (2017), Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.
5. Quốc hội khóa XIV, Kỳ họp thứ 5 (2018), Bản Tổng hợp thảo luận tại Hội trường, ngày 07/6/2018.
6. Tổng thư ký Quốc hội (2017), Báo cáo số 569/TTKQH-GS ngày 17 tháng 4 năm 2017 của Tổng thư ký Quốc hội, Quốc hội khóa XIV về tổng hợp kiến nghị giám sát của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội.
7. Ủy ban Pháp luật (2012), Báo cáo số 1467/BC-UBPL13 ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội khóa XIII về kết quả giám sát về việc thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực vận tải.
8. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2012), Báo cáo số 261/BC-UBTVQH13 ngày 02 tháng 11 năm 2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội năm 2012 và phương hướng hoạt động giám sát năm 2013.
9. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2017), Nghị quyết số 334/2017/UBTVQH14 ngày 11 tháng 01 năm 2017 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế “Tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội”.
10. Văn phòng Quốc hội (2018), Báo cáo số 2427/BC-VPQH ngày 19 tháng 9 năm 2018 của Văn phòng Quốc hội về một số vấn đề về việc tổ chức hoạt động giám sát chuyên đề của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 2018.


Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết