Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Kiến nghị của Đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết phục vụ trực tiếp cho yêu cầu đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước"

Ngày phát hành: 02/12/2020 Lượt xem 6202

Đề tài khoa học "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết phục vụ trực tiếp cho yêu cầu đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước", mã số KX.04.30/16-20, do PGS.TS Nguyễn Văn Thạo làm Chủ nhiệm đã bảo vệ thành công xuất sắc. Trong quá trình nghiên cứu, Đề tài đã chuẩn bị một số dự thảo Báo cáo tư vấn của Hội đồng Lý luận Trung ương gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tiểu ban Văn kiện và Tổ Biên tập Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, góp phần vào việc chuẩn bị các đề án trình Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, các nghị quyết của Trung ương; góp phần vào xây dựng dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Dưới đây, là một số kiến nghị của đề tài:

 

 

1. Trong lĩnh vực kinh tế

(1) Về hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Đề nghị sử dụng khái niệm “khu vực kinh tế” thay cho khái niệm “thành phần kinh tế”. Lý do không phải sử dụng khái niệm “thành phần kinh tế” dẫn đến phân biệt đối xử giữa các thành phần (vấn đề phân biệt hay không phân biệt đối xử là do những quy định của luật pháp, chính sách của Nhà nước. Hiện nay, sự hợp tác, cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã được pháp luật quy định). Lý do là hiện nay trên thế giới, các nước, các tổ chức quốc tế đều dùng “khu vực kinh tế”. Nước ta đã hội nhập quốc tế sâu rộng, cần theo thông lệ quốc tế để thuận lợi khi đánh giá, so sánh quốc tế. Sử dụng “khu vực kinh tế”, hay “thành phần kinh tế”, điều quan trọng hơn là phải xác định đúng vai trò, chức năng, định hướng phát triển của các khu vực kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Đề tài vẫn sử dụng khái niệm thành phần kinh tế theo các Văn kiện của Đảng hiện nay).

- Nhận thức, quan điểm về vai trò, định hướng phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

 Kinh tế nhà nước, cùng với luật pháp, chính sách, là công cụ, phương tiện để Nhà nước điều tiết, định hướng, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Trong đó, các nguồn lực kinh tế nhà nước được huy động, phân bổ, sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của đất nước; đồng thời, thực hiện theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu công khai, minh bạch, có sự tham gia của các thành phần kinh tế để các nguồn lực được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả cao nhất. Doanh nghiệp nhà nước được đầu tư, hoạt động trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng, cần thiết trong chiến lược phát triển đất nước và tạo cơ sở cho sự tham gia của các thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp nhà nước tự chủ, hoạt động theo cơ chế thị trường. Những nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao thực hiện theo cơ chế đặt hàng của Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phát triển theo hướng trở thành các công ty cổ phần có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Tùy theo mức độ cần thiết phải có doanh nghiệp nhà nước ở các ngành, lĩnh vực, địa bàn, Nhà nước có thể thoái một phần hay thoái hết vốn tại doanh nghiệp để chuyển vốn sang đầu tư vào ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng khác. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước với ý nghĩa như vậy, không phải là chiếm tỷ trọng lớn, chèn ép, lấn át các thành phần kinh tế khác.

 Kinh tế tập thể, với thành phần phổ biến là các hợp tác xã, hình thành trên cơ sở liên kết tự nguyện, tự quản của những người sản xuất nhỏ; có vai trò liên kết những người sản xuất nhỏ, cung cấp dịch vụ, hỗ trợ những người sản xuất nhỏ phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, bảo vệ lợi ích của người sản xuất nhỏ khi tham gia thị trường. Các hợp tác xã từng bước tăng quy mô, tăng chất lượng dịch vụ hỗ trợ kinh tế hộ, tăng vốn, tài sản thuộc sở hữu tập thể, liên kết hình thành liên hợp, liên minh hợp tác xã theo địa bàn, lĩnh vực hoạt động. Kinh tế tập thể là con đường đưa người sản xuất nhỏ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vai trò nền tảng của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể với ý nghĩa là các thành phần kinh tế này tạo cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của những người sản xuất nhỏ, cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế để thúc đẩy và định hướng phát triển kinh tế đất nước.

 Kinh tế tư nhân là lực lượng đông đảo, nguồn lực to lớn, động lực quan trọng phát triển đất nước. Quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của kinh tế tư nhân được pháp luật bảo vệ. Doanh nghiệp tư nhận hợp tác, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hoạt động trong mọi ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, phát triển thành các tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong và ngoài nước. Định hướng của những người sản xuất nhỏ là phát triển về quy mô, nâng cao trình độ công nghệ, hợp tác, tham gia vào chuỗi giá trị của các doanh nghiệp lớn, liên kết với nhau thành các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế tập thể. Định hướng phát triển của doanh nghiệp tư nhân là trở thành những công ty cổ phần có sự tham gia của nhiều thành phần xã hội (người lao động, nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội), tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường. Theo định hướng này, sự phát triển kinh tế tư nhân phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.

 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế góp phần phát triển đất nước. Thu hút đầu tư nước ngoài định hướng vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn cần thiết theo chiến lược phát triển của đất nước; liên kết, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, biến ngoại lực thành nội lực, nâng cao nội lực của đất nước.

- Về cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

+ Nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Vai trò, chức năng của nhà nước là xây dựng, hoàn thiện thể chế, tạo khung khổ luật pháp, môi trường cho thị trường, các chủ thể thị trường, các tổ chức xã hội hoạt động; giữ ổn định kinh tế vĩ mô; điều tiết, thúc đẩy, định hướng phát triển nền kinh tế, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường; gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường. Công cụ của quản lý nhà nước là luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, tiêu chuẩn, định mức và sử dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước. Nhà nước điều tiết thị trường, nhưng không cản trở, làm thay thị trường, mà tôn trọng vai trò, chức năng của thị trường.

Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong quyết định giá cả hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở cạnh tranh và quan hệ cung - cầu, tạo động lực cho sản xuất và lưu thông, điều tiết lưu thông hàng hóa, điều tiết sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ, quản trị doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém; điều tiết việc huy động, phân bổ các nguồn lực, chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Điều tiết của thị trường là điều tiết tự động tinh vi, nhanh nhạy, linh hoạt thông qua động lực lợi ích của từng chủ thể kinh tế. Cơ chế vận hành, điều tiết của thị trường quan hệ chặt chẽ, gắn bó với quản lý nhà nước. Thị trường vận hành trong khung khổ luật pháp, chính sách của Nhà nước; các quan hệ cung, cầu, cạnh tranh trên thị trường chịu sự tác động của các lực lượng kinh tế của Nhà nước, khi Nhà nước sử dụng các lực lượng này tham gia thị trường. Ngược lại, một mặt, Nhà nước ban hành luật pháp, chính sách phải tạo ra điều kiện thuận lợi cho cơ chế thị trường vận hành, phát huy đúng vai trò của thị trường, Nhà nước không làm thay thị trường; mặt khác, khi Nhà nước tham gia thị trường như một chủ thể kinh tế, Nhà nước phải tuân thủ theo cơ chế thị trường.

Các tổ chức xã hội có vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế thị trường hiện đại, có ảnh hưởng, tác động cả tới Nhà nước và thị trường. Các tổ chức xã hội phản ánh với Nhà nước nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp, đối tượng xã hội; góp ý, phản biện luật pháp, chính sách của Nhà nước, để luật pháp, chính sách của Nhà nước đáp ứng đúng những yêu cầu cấp bách của đất nước, của nhân dân. Đồng thời, các tổ chức xã hội được Nhà nước ủy quyền, chuyển giao nhiều chức năng để phát huy tính tự chủ, tự quản, năng động, sáng tạo của các lực lượng xã hội. Mặt khác, các tổ chức xã hội liên kết các thành viên, bảo vệ lợi ích các thành viên khi tham gia thị trường; tác động đến quan hệ cung, cầu, cạnh tranh, bình đẳng, công khai, minh bạch trên thị trường; cùng với Nhà nước hạn chế những khiếm khuyết của cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của các tổ chức xã hội cần được phát huy đầy đủ hơn, tốt hơn như trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở các nước kinh tế phát triển trên thế giới.

+ Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường nhất định phải vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đó là các quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ; trong đó quy luật cơ bản, trung tâm là quy luật giá trị. Các quy luật của kinh tế thị trường là khách quan khi có đủ yếu tố, điều kiện để nó hình thành. Đó chính là các yếu tố, điều kiện cho sự hình thành, tồn tại của nền kinh tế thị trường, như: sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế tự chủ, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng; quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, tự do lưu thông được bảo đảm; hình thành và phát triển hệ thống thị trường, vai trò của thị trường được phát huy.

Do sự tác động tự phát của các quy luật của kinh tế thị trường dẫn đến các hậu quả tiêu cực, các nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới đều có quản lý nhà nước để hạn chế những tiêu cực này mà vẫn tôn trọng, bảo đảm cho sự vận hành của cơ chế thị trường; phát huy vai trò của các quy luật của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta có đầy đủ các yếu tố của nền kinh tế thị trường, những điều kiện để các quy luật của kinh tế thị trường vận hành; đồng thời, có quản lý nhà nước để tạo điều kiện cho hoạt động, và hạn chế khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường, định hướng, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, tương tự như ở các nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới, với một ý thức đầy đủ, mạnh mẽ và triệt để hơn.

- Về những nội dung cần nhấn mạnh trong hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa những năm tới: (1) Rà soát, sửa đổi, khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong hệ thống luật pháp, chính sách; bổ sung những nội dung mới để đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ ở tất cả các ngành, lĩnh vực; tạo khung khổ pháp luật cho những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. (2) Xây dựng, hoàn thiện thể chế huy động, phân bổ các nguồn lực; phát triển thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất để các nguồn lực, nhất là các nguồn lực của nhà nước được huy động, phân bổ hợp lý, sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả cao. (3) Hoàn thiện thể chế để thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp: tháo gỡ những vướng mắc để đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa, chuyển doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo cơ chế thị trường; khuyến khích, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển doanh nghiệp tư nhân, chọn lọc các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. (4) Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường theo hướng hiện đại, vận hành thông suốt, công khai, minh bạch, kết nối với khu vực và thế giới, để thị trường phát huy đầy đủ vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (5) Hoàn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất nước.

(2) Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh mới

- Bối cảnh mới: Trên thế giới, cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, toàn cầu hóa vẫn tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại do chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc phát triển ở nhiều nước kinh tế phát triển; sự đứt gẫy của các chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch Covid-19 gây ra; cạnh tranh Mỹ - Trung giành ngôi vị số một thế giới, các dòng vốn đầu tư, thương mại quốc tế suy giảm ảnh hưởng đến cả cung và cầu trên thị trường thế giới. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, tìm cách giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài, nhất là phụ thuộc vào các chuỗi cung ứng từ Trung Quốc. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) tạo ra nhiều công nghệ mới, sản phẩm mới, ngành, lĩnh vực kinh tế mới, làm thay đổi phương thức sản xuất và tổ chức, sinh hoạt của xã hội trên quy mô toàn cầu; làm ra đời kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, thành phố thông minh, chính phủ thông minh, xã hội thông minh trước đây chưa từng có; đồng thời, cũng làm tăng lên khoảng cách phát triển giữa các quốc gia. Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh trở thành những thách thức lớn đối với thế giới. Thế giới phải đối mặt với nhiều thách thức an ninh ngày càng tăng, như: an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh thông tin, an ninh mạng, an ninh con người…

 

 

Ở trong nước, những thành tựu đạt được trong gần 35 năm đổi mới làm tăng thế và lực, uy tín quốc tế, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho đất nước tiếp tục phát triển. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và việc nhiều nước lớn điều chỉnh chiến lược, chuyển đầu tư từ Trung Quốc sang các nước khác để tránh phụ thuộc quá nhiều vào các chuỗi cung ứng từ Trung Quốc, tạo ra cơ hội phát triển cho nước ta. Tuy nhiên, nước ta còn nhiều khó khăn, thách thức lớn: Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh thấp, tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu ở những công đoạn công nghệ thấp, giá trị gia tăng thấp. Việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng chậm, kết quả đạt được hạn chế. Mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa thực hiện được mà nước ta đã bước vào thời kỳ già hóa dân số; thời kỳ dân số vàng chỉ còn khoảng 15-20 năm nữa. Tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, rơi vào bẫy “thu nhập trung bình” vẫn còn đe dọa. Nước ta là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Những phức tạp trong tình hình chính trị, an ninh trong khu vực, nhất là tình hình Biển Đông, đe dọa hòa bình, ổn định, sự phát triển của đất nước.

- Trong bối cảnh đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm tới phải gắn với tiếp tục thực hiện cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế; vừa phát triển tuần tự, phát triển những ngành, lĩnh vực đất nước có tiềm năng, lợi thế, sử dụng lực lượng lao động đông đảo; vừa đi ngay vào một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm có trình độ khoa học công nghệ cao, hiện đại; vừa phát huy vai trò của cơ chế thị trường, của mọi thành phần kinh tế, vừa phát huy vai trò định hướng, dẫn dắt của Nhà nước; vừa phát huy cao nhất nội lực, vừa thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực; phát triển kinh tế nhanh, đồng thời phải bền vững cả về kinh tế, xã hội, môi trường.

Tiếp tục cơ cấu lại đầu tư, mà trọng tâm là đầu tư công để nâng cao hiệu quả đầu tư; đồng thời, hoàn thiện thể chế huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực theo hướng xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, phát huy vai trò của cơ chế thị trường và phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực; khắc phục tình trạng tham nhũng, lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước, đầu tư dàn trải, thi công kéo dài, chất lượng công trình thấp… Tiếp tục cơ cấu lại thị trường tài chính, mà trọng tâm là các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng. Đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa và nâng cao tiềm lực tài chính của các ngân hàng, tổ chức tín dụng; nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế với chi phí thấp. Cơ cấu lại ngân sách nhà nước, tăng tỷ lệ thu nội địa, tăng tích lũy cho đầu tư phát triển, giảm nợ công, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia, an ninh tài chính, tiền tệ đất nước trước những biến động phức tạp từ bên ngoài. Tiếp tục cơ cấu lại, phát triển mạnh mẽ, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh của hệ thống doanh nghiệp. Đẩy nhanh việc sắp xếp lại, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước theo các chuẩn mực quốc tế của các doanh nghiệp hiện đại. Đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã. Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân trong các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, nâng cao trình độ công nghệ, tham gia có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Tạo bước chuyển căn bản từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu dựa trên ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành công nghiệp cả về công nghệ, cơ cấu ngành nghề, sản phẩm, từ công nghệ thấp sang công nghệ cao, từ sản phẩm có giá trị thấp sang sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tiếp tục phát triển các ngành, các sản phẩm sử dụng nhiều lao động, đất nước có tiềm năng, lợi thế trên cơ sở công nghệ mới, hiện đại, chuyển dịch sang các công đoạn có giá trị cao. Tập trung phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng, bảo đảm độc lập tự chủ của đất nước, như năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, vật liệu; ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao, như công nghiệp điện tử, thông tin, viễn thông, sản xuất các máy móc, thiết bị công nghệ số, robot, thiết bị tự động, công nghiệp dược phẩm, công nghiệp môi trường, công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng… Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát huy tiềm năng, lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái; gắn kết chặt chẽ sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; tuân thủ chặt chẽ tiêu chuẩn, quy trình sản xuất, xây dựng chỉ dẫn địa lý, thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản, nhất là với nông sản xuất khẩu. Tiếp tục cơ cấu lại, phát triển mạnh lĩnh vực dịch vụ, nhất là những dịch vụ đất nước có tiềm năng, lợi thế, những dịch vụ công nghệ cao, có giá trị cao, như: du lịch, thông tin, viễn thông, logistic, vận tải, thương mại, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…; những dịch vụ đáp ứng yêu cầu phát triển, vận hành các thị trường, sản xuất và đời sống xã hội. Các dịch vụ phải đáp ứng các chuẩn mực quốc tế, có năng lực hội nhập, cạnh tranh quốc tế. Tiếp tục thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam để nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, gắn với bảo vệ môi trường biển, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước.

Đẩy mạnh việc thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, bao gồm các công trình hạ tầng giao thông trọng điểm quốc gia, hệ thống hạ tầng năng lượng quốc gia, hệ thống các công trình thủy lợi, hồ đập, đê sông, đê biển, hạ tầng đô thị, nhất là các đô thị lớn. Đặc biệt, tập trung xây dựng hệ thống hạ tầng công nghệ số, phục vụ chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số. Điều chỉnh việc phân vùng kinh tế, hoàn thiện thể chế để tăng cường liên kết vùng; đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền giữa Trung ương và địa phương, bảo đảm vai trò quản lý thống nhất của Trung ương với những vấn đề lớn, quan trọng; đồng thời, nâng cao trách nhiệm, tính tự chủ của địa phương. Gắn kết chặt chẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với đô thị hóa; hoàn thiện quy hoạch, phát triển hợp lý hệ thống đô thị trên cả nước và từng vùng.

Nước công nghiệp hiện đại  là nước đạt các tiêu chí: (1) GDP/người > 12.000USD/năm; (2) Tỷ lệ lao động nông nghiệp/Tổng lao động xã hội ≤ 20%; (3) Tỷ trọng công nghiệp chế tạo/GDP > 20%; (4) Tỷ lệ đô thị hóa > 50%; (5) Chỉ số phát triển người (HDI) ≥ 0,8; (6) Chỉ số GINI: 0,38 - 0,4; (7) Chỉ số chất lượng môi trường ≥ 55.

(3) Về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

- Phải quán triệt sâu sắc, thực hiện tốt các quan điểm: hội nhập quốc tế phải vì lợi ích của đất nước; lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng trong khi tuân thủ luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi với các nước, các đối tác quốc tế; phải sử dụng, phát huy có hiệu quả các yếu tố thuận lợi do hội nhập quốc tế đem lại, biến thành động lực thúc đẩy đổi mới, nâng cao nội lực, tăng cường tính độc lập, tự chủ của đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, đi trước mở đường; đồng thời, phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa hội nhập kinh tế quốc tế với hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực khác: văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, quốc phòng, an ninh… Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế; được thực hiện chủ động, tích cực và có bước đi phù hợp với năng lực và yêu cầu của đất nước để đạt hiệu quả cao nhất.

- Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, cần phải: (1) Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xây dựng chủ trương, đường lối, chiến lược mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước. (2) Không ngừng củng cố, nâng cao tiềm lực, sức mạnh kinh tế của đất nước. Kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc, giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, tiền tệ; có hệ thống doanh nghiệp lớn mạnh, có trình độ khoa học - công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao; có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có nguồn nhân lực chất lượng cao. (3) Có chiến lược hội nhập kinh tế chủ động, tích cực; có bước đi phù hợp, đa dạng, đa phương, không phụ thuộc vào một đối tác, một thị trường, có hiệu quả cao. (4) Chủ động xây dựng kế hoạch, phương án bảo vệ nền kinh tế, bảo vệ thị trường, bảo vệ doanh nghiệp trong nước, ngăn ngừa, giảm thiểu tác động tiêu cực từ bên ngoài không trái với thông lệ và cam kết quốc tế…

 

 

2. Lĩnh vực văn hóa, xã hội

(1) Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo

- Quán triệt sâu sắc mục tiêu, sứ mệnh của giáo dục - đào tạo là nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng để phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Mục tiêu, sứ mệnh đó là cơ sở cho việc đổi mới mạnh mẽ, căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa, hội nhập quốc tế.

- Những vấn đề cấp thiết đổi mới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo trong những năm tới:

+ Đổi mới nội dung, chương trình giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại phù hợp với từng cấp học, ngành học để phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất của người học. Các môn về lĩnh vực khoa học và công nghệ có thể tham khảo nội dung, chương trình ở các nước phát triển. Với học sinh Việt Nam, cần chú ý hơn tới việc dạy và học ngoại ngữ, tin học. Các môn về khoa học xã hội, bên cạnh kiến thức khoa học, cần chú trọng tới giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống, trách nhiệm xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật.

+ Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, sử dụng các công cụ, thiết bị hiện đại vào giảng dạy, phát huy vai trò tích cực của người học, gắn lý luận với thực tiễn, học với hành, nhà trường với gia đình và xã hội. Tham khảo, học tập các phương thức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học của học sinh, kiểm định chất lượng của cơ sở giáo dục - đào tạo các nước phát triển.

+ Xây dựng, hoàn thiện hệ thống giáo dục và đào tạo theo hướng dân chủ hóa, xã hội hóa. Nhà nước có vai trò chính trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân, nhất là giáo dục phổ thông, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, bảo đảm quyền được học tập của mọi người. Đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa, huy động sự tham gia của các lực lượng xã hội vào phát triển giáo dục, đào tạo, nhất là dạy nghề và giáo dục đại học.

+ Đổi mới quản lý giáo dục và đào tạo. Nhà nước quản lý giáo dục và đào tạo bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, bằng khung chương trình, chuẩn đầu vào, đầu ra cho các cấp học, ngành học, bằng kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện để bảo đảm chất lượng giáo dục - đào tạo và bằng sử dụng các nguồn lực nhà nước cho giáo dục - đào tạo. Các trường, nhất là các trường đại học, cao đẳng, trường dạy nghề có quyền tự chủ cao trên cơ sở tuân thủ đầy đủ luật pháp, chính sách của Nhà nước. Giáo dục và đào tạo là dịch vụ xã hội cơ bản, dù được xã hội hóa, vai trò quản lý của Nhà nước là hết sức quan trọng.

(2) Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ

- Quán triệt sâu sắc vai trò, sứ mệnh của khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu là động lực và nguồn lực quan trọng nhất, là đột phá chiến lược để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững đất nước, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

- Những vấn đề cấp thiết cần đổi mới trong lĩnh vực khoa học và khoa học trong những năm tới:

+ Nhà nước tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ, đổi mới quản lý sử dụng vốn ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ. Nhà nước tập trung đầu tư phát triển một số viện nghiên cứu khoa học - công nghệ, một số trường đại học, một số chương trình khoa học - công nghệ trọng điểm quốc gia, phát triển các doanh nghiệp khoa học - công nghệ làm nòng cốt cho nghiên cứu phát triển, ứng dụng, tiếp thu tiến bộ khoa học - công nghệ của thế giới. Thực hiện cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học - công nghệ, gắn kết hoạt động của các viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp. Thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng thực hiện các nhiệm vụ khoa học, khoán kinh phí đến sản phẩm khoa học - công nghệ cuối cùng; thực hiện cơ chế đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với các hoạt động và sản phẩm khoa học - công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước.

+ Đổi mới cơ chế, chính sách để thu hút các nguồn lực xã hội, khuyến khích, tạo động lực để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, đổi mới, nâng cấp công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến. Hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng các khu công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, hình thành các quỹ tài chính hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.

+ Đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh những chuyên gia giỏi, những cán bộ khoa học và công nghệ có nhiều đóng góp cho đất nước. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho cán bộ khoa học và công nghệ phát huy tiềm năng. Có chính sách thu hút trí thức Việt kiều, các nhà khoa học Việt Nam làm việc ở nước ngoài, các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài vào làm việc ở Việt Nam.

+ Hoàn thiện thể chế cho hoạt động, phát triển thị trường khoa học -công nghệ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; tăng cường và nâng cao chất lượng hợp tác quốc tế; hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ.

(3) Về quản lý phát triển xã hội

- Quán triệt sâu sắc mục tiêu của quản lý phát triển xã hội là thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của đất nước; bảo đảm sự phát triển đồng bộ, hài hòa các lĩnh vực xã hội, phát triển bao trùm, để mọi người đều tham gia và hưởng thụ thành quả phát triển, hướng tới sự phát triển toàn diện, tự do, hạnh phúc của con người.

- Những vấn đề cấp thiết cần đổi mới trong lĩnh vực quản lý xã hội trong những năm tới:

+ Lĩnh vực lao động, việc làm: Cần phải tiếp tục hoàn thiện môi trường thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tạo thêm nhiều việc làm mới, cùng với phát triển các ngành công nghiệp, cần tiếp tục phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động đang là tiềm năng, lợi thế của đất nước. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động dạy nghề, đào tạo nghề cho người lao động, nhất là lao động ở nông thôn, để chuyển lao động nông nghiệp sang các ngành, lĩnh vực khác. Phát triển thị trường lao động, phát huy vai trò của thị trường trong kết nối cung - cầu, tạo việc làm cho người lao động. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động. Nhà nước quan tâm bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động về tiền lương, điều kiện lao động, chính sách bảo hiểm….

+ Lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo: Để xóa đói, giảm nghèo bền vững, một mặt, cần tăng nguồn lực của Nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội, đẩy mạnh việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo; mặt khác, cần quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nước, phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí, hệ thống khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, hệ thống thông tin, truyền thông; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, giúp đồng bào phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệ đầu tư, phát triển kinh tế ở vùng khó khăn; cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

+ Thực hiện tốt chính sách người có công, bảo đảm người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân dưới nhiều hình thức đa dạng. Mở rộng mạng lưới bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và nhiều hình thức bảo hiểm tự nguyện khác theo nguyên tắc “có đóng - có hưởng” để bảo đảm mức sống tối thiểu và giảm thiểu tác động của những “cú sốc” trong cuộc sống; kết hợp các nguồn lực của Nhà nước với huy động các nguồn lực xã hội, trợ giúp kịp thời những người có hoàn cảnh khó khăn, gặp tai nạn, ốm đau, thiên tai, dịch bệnh…

+ Phát huy dân chủ, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, bảo đảm cuộc sống bình yên của nhân dân. Các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước phải tiếp dân, lắng nghe ý kiến nhân dân, thông tin đầy đủ, công khai, minh bạch hoạt động để nhân dân giám sát; ngăn chặn, xử lý những hành vi ức hiếp, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân, tập trung giải quyết tình trạng khiếu kiện kéo dài, tai nạn giao thông, tội phạm và tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường… ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân.

 

 

3. Lĩnh vực quốc phòng, an ninh

(1) Về xây dựng thế trận lòng dân.

- Xây dựng “thế trận lòng dân là xây dựng, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là cơ sở để không ngừng củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; là nền tảng vững chắc của nền quốc phòng toàn dân, là sức mạnh vô địch để bảo vệ Tổ quốc.

- Những vấn đề cấp thiết để xây dựng thế trận lòng dân ở nước ta hiện nay là:

+ Đảng, Nhà nước phải có đường lối, chính  sách đúng đắn đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội đất nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Kinh tế đất nước phát triển nhanh, bền vững, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao; mọi người dân đều có cơ hội phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình tham gia, đóng góp vào phát triển đất nước và hưởng thành quả của sự phát triển đó. Đồng thời, gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp xã hội; quan tâm phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, bảo đảm an ninh, an toàn cuộc sống của nhân dân…

+ Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, ức hiếp, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp; bổ nhiệm, đề bạt con cái, người nhà, người thân không đủ tiêu chuẩn vào các vị trí lãnh đạo, quản lý; thay thế kịp thời những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, mất uy tín với nhân dân. Tinh gọn tổ chức bộ máy, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan, từng cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm cá nhân người đứng đầu; nâng cao ý thức, tinh thần phục vụ của bộ máy và cán bộ, công chức, khắc phục tình trạng trì trệ, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp.

+ Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng trong các tổ chức của hệ thống chính trị, hệ thống nhà trường và toàn xã hội. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống lịch sử vẻ vang, những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; về chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đồng thời, thường xuyên thông tin, tuyên truyền trong nhân dân về những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta; đấu tranh, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao ý thức cảnh giác, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, sự nghiệp đổi mới, chế độ xã hội chủ nghĩa.

+ Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, có sức chiến đấu cao. Cán bộ, chiến sỹ các lực lượng vũ trang phát huy truyền thống “bộ đội cụ Hồ” gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân công tác giúp nhân dân phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ cuộc sống của nhân dân, xây dựng nên khối thống nhất quân với dân một ý chí.

(2) Về bảo đảm an ninh mạng

- Cần nhận thức sâu sắc bảo đảm an ninh mạng là bộ phận quan trọng của bảo đảm an ninh quốc gia. Đây là lĩnh vực an ninh mới, có phạm vi tác động rất rộng, dựa trên trình độ khoa học và công nghệ cao, có mức độ nguy hại cao. Bảo đảm an ninh mạng là bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; ngăn chặn sự xâm nhập, phá hoại của các thế lực thù địch đối với hệ thống mạng của đất nước; bảo đảm mọi thông tin và hoạt động trên không gian mạng không gây tổn hại đến lợi ích của đất nước.

- Những vấn đề cấp thiết phải thực hiện để bảo đảm an ninh mạng của đất nước trong những năm tới:

+ Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động mạng và bảo đảm an ninh mạng, đối với mạng internet, các mạng xã hội, trang thông tin điện tử, các loại hình dịch vụ viễn thông, truyền hình, thương mại điện tử…. Xác định rõ mục đích, yêu cầu phạm vi hoạt động, những việc được làm và không được làm, trách nhiệm của tổ chức và của cá nhân có liên quan trong việc tổ chức, quản lý mạng, hoạt động trên mạng, bảo đảm an ninh, an toàn mạng. Bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ bản quyền, quyền sở hữu trí tuệ trên không gian mạng; về quản lý hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp nền tảng công nghệ cho hoạt động mạng và tham gia các hoạt động trên mạng ở Việt Nam phù hợp với điều ước quốc tế và cam kết của Việt Nam. Quy định chặt chẽ, thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, xét duyệt, cấp phép các dự án xây dựng, phát triển mạng, hoạt động trên mạng; thường xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình hoạt động, nhất là về việc bảo đảm an ninh, an toàn mạng. Xử lý nghiêm các vi phạm. Chủ động có phương án, giải pháp bảo đảm an ninh an toàn những mạng thông tin quốc gia quan trọng, đặc biệt là phòng, chống có hiệu quả chiến tranh mạng, chiến tranh điện tử, chiến tranh công nghệ cao của các thế lực thù địch.

+ Cùng với nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, cơ sở về bảo đảm an ninh mạng, cần xây dựng lực lượng bảo đảm an ninh mạng chuyên trách, chính quy, hiện đại của quốc gia, cũng như ở các ngành, lĩnh vực, bao gồm những cán bộ, chuyên gia có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, có năng lực, nhất là trình độ công nghệ thông tin cao, được bố trí kinh phí hoạt động, trang thiết bị hiện đại ngang tầm thế giới đủ sức phòng ngừa, ngăn chặn, vô hiệu hóa hoạt động xâm hại an ninh mạng của các phần tử tội phạm và các thế lực thù địch. Xây dựng các phương án, các quy trình, các quy chế phối hợp giữa các lực lượng để giải quyết kịp thời, hiệu quả các tình huống xâm phạm an ninh mạng phát sinh. Đồng thời, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về an ninh mạng cho toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị và toàn dân.

+ Tăng cường, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, về thành tựu phát triển đất nước, nâng cao tinh thần cảnh giác của cán bộ, đảng viên, nhân dân không tin, không bị tác động bởi các thông tin xuyên tạc, bịa đặt, vu cáo, kích động của những người cơ hội chính trị và các thế lực thù địch. Đẩy mạnh đấu tranh với các thông tin sai trái trên mạng để định hướng dư luận xã hội.

+ Quan tâm đầu tư nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ, nhất là lĩnh vực điện tử, tin học, công nghệ thông tin, đủ sức làm chủ các máy móc, thiết bị hiện đại vận hành hoạt động hệ thống mạng, đủ sức ngăn chặn, vô hiệu hóa các âm mưu, hành động của các thế lực thù địch sử dụng hệ thống mạng để chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Từng bước phát triển lĩnh vực công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin để tự chủ, sản xuất ra các máy móc, thiết bị, linh kiện phục vụ cho hoạt động của các mạng thông tin, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, nhất là ở những mạng thông tin quan trọng của đất nước.

 

4. Lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

(1) Về ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên.

- Về nhận thức, quan điểm, phải xác định đây là vấn đề hệ trọng, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ. Tình trạng suy thoái trong một bộ phận cán bộ là nguyên nhân dẫn tới quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lạm dụng quyền lực, ức hiếp nhân dân, cản trở sự phát triển kinh tế đất nước, tạo ra bức xúc xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân.

- Những giải pháp thực hiện để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này:

+ Hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực, loại bỏ những thủ tục phiền hà; tinh gọn tổ chức bộ máy, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, từng vị trí công tác, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu…, để hạn chế đến mức thấp nhất những sơ hở để cán bộ vô trách nhiệm, đùn đẩy trách nhiệm hay lạm dụng chức vụ, quyền hạn mưu lợi cá nhân.

+ Tăng cường, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, ý thức tự rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội; xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, bảo vệ, tôn vinh những người tốt, có nhiều đóng góp cho xã hội; phê phán, lên án những người xấu, lợi dụng chức vụ, quyền hạn quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; đấu tranh với những quan điểm tư tưởng và hành vi sai trái.

+ Tăng cường, nâng cao chất lượng công tác xây dựng đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong cả hệ thống chính trị. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng, kết nạp đảng những người đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, công tác quản lý đảng viên. Nâng cao chất lượng hoạt động tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dĩ hòa, vi quý”. Đổi mới, hoàn thiện quy trình, quy chế, phương pháp quản lý, đánh giá cán bộ để đánh giá khách quan, đúng đắn phẩm chất, năng lực, cống hiến, uy tín của cán bộ; trên cơ sở đó, sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm đúng cán bộ. Tăng cường, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện Điều lệ Đảng, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước; với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, nhất là kiểm tra, giám sát đối với người đứng đầu và đối với các lĩnh vực có nhiều điều kiện cho cán bộ tham nhũng, tiêu cực, suy thoái đạo đức, như quản lý đất đai, tài sản công, đầu tư vốn ngân sách, quản lý doanh nghiệp nhà nước, quản lý, bổ nhiệm cán bộ… Xử lý nghiêm mọi sai phạm.

+ Phát huy đầy đủ vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội của nhân dân và các cơ quan báo chí đối với các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, thật sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Thực hiện dân chủ trong Đảng và phát huy dân chủ trong xã hội, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân là giải pháp cơ bản để đấu tranh đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên.

(2) Đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới.

- Về nhận thức, quan điểm, cần khẳng định và quán triệt sâu sắc, nếu công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt thì công tác cán bộ là nhiệm vụ then chốt của then chốt, bởi như Bác Hồ nói, cán bộ là quyết định, mọi công việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay xấu.

- Những nhiệm vụ cấp thiết phải thực hiện trong công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ trong những năm tới là:

+ Là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước vã xã hội, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, nhưng cần có sự phân công, phân cấp trên cơ sở phân biệt các loại cán bộ: (1) Cán bộ lãnh đạo chính trị (cán bộ lãnh đạo ở các tổ chức đảng, cán bộ được Đảng giới thiệu để bầu vào các vị trí lãnh đạo các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội) do các cấp ủy đảng trực tiếp quản lý, xây dựng theo các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều lệ của Mặt trận, các đoàn thể. (2) Cán bộ quản lý ở các cơ quan nhà nước, Mặt trận, đoàn thể các cấp và (3) Cán bộ, công chức, viên chức chuyên môn, nghiệp vụ ở các cơ quan nhà nước, Mặt trận, đoàn thể. Với hai loại cán bộ này, Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, định hướng, giao cho các cơ quan nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể quản lý, xây dựng theo quy định của pháp luật và điều lệ của mình.

+ Công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ là để phục vụ thực hiện đường lối chính trị trong từng giai đoạn. Do đó, căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, Đảng xây dựng chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ về số lượng, chất lượng, cơ cấu; trong đó, quan trọng nhất là tiêu chuẩn chất lượng. Công tác cán bộ hiện nay cần tiếp tục được đổi mới đồng bộ, mạnh mẽ, nhất là khắc phục được những hạn chế và cả những tiêu cực kéo dài nhiều năm qua để xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong những năm tới.

+ Đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ, khâu yếu nhất hiện nay, trong đó có một số vấn đề lớn: đánh giá toàn diện cả về phẩm chất, năng lực, uy tín trên cơ sở chất lượng, hiệu quả hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao, sự gương mẫu của bản thân, người thân trong gia đình trong thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong quan hệ xã hội; đặc biệt phải đánh giá được thu nhập, tài sản của cán bộ. Mở rộng diện tham gia đánh giá, thật sự dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch trong đánh giá.

+ Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng thiết thực, hiệu quả, phù hợp với chức danh, nhiệm vụ của cán bộ, công chức; gắn đào tạo, bồi dưỡng theo trường, lớp với đào tạo, bồi dưỡng thông qua thực tiễn công tác, qua luân chuyển cán bộ. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải cập nhật kiến thức mới, chủ trương mới, chính sách mới, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, chú trọng kỹ năng lãnh đạo, quản lý, xử lý tình huống, làm chủ công nghệ mới. Không đào tạo chỉ để có học vị, học hàm, bồi dưỡng để có đủ chứng chỉ, đủ tiêu chuẩn quy hoạch, bổ nhiệm. Việc luân chuyển phải tạo điều kiện cho các bộ học hỏi, rèn luyện và thể hiện được năng lực, phẩm chất, có đóng góp, cống hiến cho địa phương, đơn vị, không luân chuyển có tính hình thức.

+ Đổi mới quy chế, quy trình giới thiệu cán bộ để bầu hay bổ nhiệm  vào các vị trí lãnh đạo, quản lý theo hướng mở rộng dân chủ, cân nhắc nhiều yếu tố, cả cơ cấu, quá trình cống hiến.., nhưng cơ bản nhất là tiêu chuẩn, chất lượng, phẩm chất, năng lực, uy tín của cán bộ. Người được giới thiệu bầu hay bổ nhiệm phải có số dư, phải qua nhiều vòng, phải trình bày chương trình, kế hoạch hành động, phải tranh luận với nhau, trả lời chất vấn của những người tham dự; phải công khai tài sản, thu nhập của bản thân, gia đình. Mở rộng việc đại hội Đảng bầu trực tiếp bí thư cấp ủy. Thí điểm việc chỉ bầu, bổ nhiệm người đứng đầu, để người đứng đầu chọn, giới thiệu cấp phó, các thành viên ban lãnh đạo để cấp có thẩm quyền phê duyệt; khi người đứng đầu bị miễn nhiệm thì tất cả cấp phó và thành viên ban lãnh đạo bị miễn nhiễm. Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan và cán bộ làm công tác cán bộ trong việc giới thiệu người để bầu hay bổ nhiệm. Tăng cường kiểm tra, giám sát của Đảng, giám sát, phát hiện của nhân dân đối với công tác cán bộ. Xử lý nghiêm mọi hành vi lạm quyền, chạy chức, chạy quyền, việc bổ nhiệm người nhà, người thân không đủ tiêu chuẩn, thần tốc.

+ Đổi mới chính sách đãi ngộ đối với cán bộ để thu hút được người tài, tạo động lực để cán bộ phấn đấu, cống hiến. Có chính sách, quy chế, quy trình hợp lý để có thể thay thế, miễn nhiệm nhanh chóng, kịp thời những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, mất uy tín với nhân dân, kỷ luật nghiêm minh những cán bộ vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng, pháp luật nhà nước. Xây dựng văn hóa từ chức để cán bộ có thể chủ động từ chức khi tự thấy mình không đủ năng lực hay mất uy tín.

(3) Về thực hành và phát huy dân chủ trong Đảng

- Cần quán triệt, nhận thức sâu sắc dân chủ là bản chất của Đảng, của chế độ ta. Khi là đảng duy nhất cầm quyền, thực hành và phát huy dân chủ là vấn đề sống còn đối với Đảng ta. Dân chủ trong Đảng là cơ sở để thực hành và phát huy dân chủ trong xã hội.

- Những vấn đề cấp thiết cần thực hiện để phát huy dân chủ trong Đảng:

+ Thực hiện đúng nguyên tắc “Tập trung dân chủ” - nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Đảng. Trong đó, dân chủ là gốc, là cơ sở của tập trung. Tập trung trên cơ sở dân chủ. Dân chủ phải gắn với công khai, minh bạch, với kỷ luật kỷ cương, với giám sát quyền lực, với giải quyết đúng đắn quan hệ giữa lãnh đạo tập thể với trách nhiệm cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu.

+ Thực hiện dân chủ trong sinh hoạt Đảng, trong việc xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng. Đảng viên phải được cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết; được tự do trao đổi, thảo luận, thể hiện quan điểm của mình trong sinh hoạt đảng; được chất vấn, phê bình đối với hoạt động của chi ủy, cấp ủy đảng, đóng góp trí tuệ của mình vào xây dựng chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Có quyền biểu quyết, đồng ý hay không đồng ý với các ý kiến khác, bảo lưu ý kiến của mình hay phản ánh ý kiến của mình với cấp trên. Nâng cao chất lượng hoạt động tự phê bình và phê bình, không nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý” làm cho tự phê bình và phê bình trở thành hình thức. Cần có những quy định mạnh mẽ ngăn ngừa, xử lý nghiêm việc định kiến, trù dập, trả thù người có ý kiến khác, phê bình, đấu tranh với việc làm sai trái của lãnh đạo.

+ Đặc biệt quan trọng hiện nay là thực hành và phát huy dân chủ trong công tác cán bộ để phát hiện, tuyển dụng được người có đức, có tài; bổ nhiệm và bầu được những người xứng đáng vào các vị trí lãnh đạo. Dân chủ từ khâu đánh giá cán bộ, mở rộng diện người tham gia đánh giá, đánh giá toàn diện cả năng lực, phẩm chất, uy tín dựa trên mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, sự gương mẫu của bản thân và gia đình trong thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, uy tín trong tập thể và cộng đồng dân cư nơi cư trú; nhất là kiểm soát được thu nhập, tài sản của cán bộ và người thân trong gia đình. Việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ để bầu vào các vị trí lãnh đạo phải có số dư, lựa chọn qua nhiều vòng với sự tham gia của nhiều đối tượng. Những người được giới thiệu phải trình bày đề án, phải trả lời chất vấn của những người tham dự lựa chọn… để chọn được người xứng đáng nhất…

+ Tăng cường kiểm tra, giám sát trong Đảng, giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện và phát huy dân chủ để kịp thời phát hiện, sửa chữa những hạn chế, yếu kém, sai phạm ngay từ khi mới phát sinh.

(4) Về kiểm soát quyền lực trong Đảng, Nhà nước hiện nay

- Cần quán triệt và nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của kiểm soát quyền lực. Quyền lực không bị kiểm soát là nguồn gốc của lạm quyền, sử dụng quyền lực để mưu lợi riêng, làm tổn hại đến lợi ích xã hội, lợi ích của đất nước, làm suy thoái đội ngũ cán bộ, làm mất lòng tin của nhân dân vào bộ máy cầm quyền. Trong điều kiện là đảng cầm quyền, kiểm soát quyền lực trong Đảng là một trong những vấn đề cấp thiết phải quan tâm giải quyết.

- Những vấn đề cần thực hiện để kiểm soát quyền lực trong Đảng, Nhà nước hiện nay:

+ Để kiểm soát quyền lực, vấn đề quan trọng đầu tiên là phải hoàn thiện thể chế, Điều lệ, các quy định của Đảng, nhất là trong quản lý cán bộ, đảng viên; hoàn thiện luật pháp, chính sách của Nhà nước quản lý các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là ở những lĩnh vực thường xảy ra tình trạng lạm quyền, sử dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân. Đối với Đảng, cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của từng tổ chức, từng cán bộ, nhất là trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, để khi có những vụ việc tiêu cực xảy ra đều tìm được người chịu trách nhiệm. Đảng cần quan tâm nhiều tới việc kiểm soát quyền lực trong công tác tổ chức – cán bộ, đặc biệt là công tác cán bộ, ngăn chặn tình trạng tuyển dụng, bổ nhiệm người nhà, người thân bỏ qua tiêu chuẩn, quy trình, tình trạng chạy chức, chạy quyền… Đối với Nhà nước, quan tâm nhiều tới hoàn thiện thể chế ở các lĩnh vực quản lý đất đai, phân bổ các nguồn lực kinh tế nhà nước, phân bổ vốn đầu tư công, quản lý tài sản công, doanh nghiệp nhà nước, hạn chế tối đa những kẽ hở để cán bộ, công chức lạm dụng quyền lực. Đẩy mạnh việc sử dụng các công cụ, phương tiện quản lý hiện đại, giải quyết và quản lý công việc qua hệ thống mạng, mua bán, thanh toán qua ngân hàng, qua đó kiểm soát được hoạt động, thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức.

+ Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy định của Đảng, Nhà nước bằng nhiều hình thức đa dạng, linh hoạt, hiệu quả, bao gồm tự kiểm tra, giám sát trong nội bộ cơ quan, đơn vị, kiểm tra giám sát của cấp trên, của nhân dân… Phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng, chất lượng các báo cáo, giải trình, chất vấn và trả lời chất vấn của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong sinh hoạt đảng, hội nghị sơ kết, tổng kết của cơ quan. Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về tiếp đảng viên, công dân, giải quyết đơn thư phản ánh, khiếu nại, tố cáo của đảng viên, nhân dân. Tăng thẩm quyền, nâng cao chất lượng hoạt động của ủy ban kiểm tra đảng các cấp. Xây dựng luật để thể chế hóa quan điểm: Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật và chịu trách nhiệm trước nhân dân về hoạt động của mình. Nâng cao chất lượng thực hiện việc kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy nhà nước. Đổi mới, nâng cao chất lượng giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ, của hội đồng nhân dân, đối với chính quyền các cấp, xem xét các báo cáo công tác, các chương trình, dự án quan trọng, các hoạt động chất vấn, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu, phê chuẩn. Nâng cao chất lượng hoạt động của kiểm toán nhà nước, nghiên cứu chuyển Thanh tra Chính phủ thành Thanh tra nhà nước trực thuộc Chủ tịch nước, hoặc Quốc hội (như Kiểm toán nhà nước), tách Tổng cục Thống kê khỏi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trở thành tổ chức sự nghiệp độc lập để nâng cao tính khách quan của hoạt động thanh tra, thống kê. Tăng cường tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp. Thực hiện đầy đủ vai trò giám sát,  phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội theo các quy định của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động của tổ chức đảng, nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

+ Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao phẩm chất, ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân, tuân thủ Điều lệ, các quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức, viên chức để mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tự giác, gương mẫu trong thực hiện các quy định của Đảng, Nhà nước. Cải cách chế độ tiền lương, bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, công chức viên chức. Biểu dương, tôn vinh những người gương mẫu, có nhiều cống hiến cho đất nước, phê phán lên án, xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi sai phạm.

(5) Về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

- Cần quán triệt, nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một bước tiến quan trọng trong quan điểm của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội; nhận thức sâu sắc về bản chất của dân, do dân, vì dân của Nhà nước, về tổ chức và phương thức hoạt động, quản lý đất nước và xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- Để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, những việc cần tiếp tục tập trung thực hiện là:

+ Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền là quản lý đất nước bằng pháp luật. Bởi vậy, việc quan trọng hàng đầu là phải xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật. Là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, pháp luật phải thể chế hóa quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của nhân dân đối với mọi mặt của đất nước, đối với tổ chức bộ máy nhà nước, đối với xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; nhân dân được tự do kinh doanh, phát huy tiềm năng của mình tham gia vào phát triển đất nước và được hưởng thành quả của sự phát triển. Luật  pháp phải tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân… thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế; không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

+ Đổi mới, hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động, hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Đối với Quốc hội, giảm tính chất cơ cấu, giảm đại biểu Quốc hội là cán bộ, công chức cơ quan hành pháp, nâng cao chất lượng và thẩm quyền của đại biểu Quốc hội, thẩm quyền của các Ủy ban, Hội đồng của Quốc hội, nhất là trong đề xuất các sáng kiến lập pháp, thẩm định các dự án luật, các chương trình, dự án lớn do Chính phủ trình, xem xét, đánh giá hoạt động của Chính phủ, các bộ, ngành, chất vấn, bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội phê chuẩn.

Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Chính phủ, các bộ, ngành, nhất là khắc phục tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu. Đổi mới quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực phù hợp với bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý bằng luật pháp, chính sách chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, quy chế, quy trình, định mức, không bằng mệnh lệnh hành chính, tôn trọng tính tự chủ của doanh nghiệp, các tổ chức, các chủ thể; bằng thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ luật pháp, chính sách của nhà nước.

Hoàn thiện các thể chế hình sự, dân sự, thủ tục tư pháp. Tổ chức cơ quan tư pháp theo cấp xét xử, không theo địa giới hành chính; phát triển các tổ chức hỗ trợ tư pháp. Bảo đảm tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án, Viện kiểm sát, bảo đảm quyền được bào chữa của bị can, bị cáo, tranh tụng tại tòa của các luật sư, của Hội thẩm nhân dân trong xét xử. Đổi mới tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc thù của đô thị, nông thôn, biển đảo. Đổi mới phân cấp, phân quyền, ủy quyền của Trung ương về những vấn đề lớn, quan trọng; nâng cao tính năng động, sáng tạo, trách nhiệm của chính quyền địa phương. Đổi mới việc phân vùng, thể chế liên kết vùng.

+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước liêm chính, có phẩm chất, năng lực, tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân cao. Phân biệt cán bộ lãnh đạo được Đảng giới thiệu để dân bầu và cán bộ, công chức quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ được bổ nhiệm, tiếp nhận qua thi tuyển, có tính chuyên nghiệp cao. Đổi mới công tác cán bộ phù hợp với từng loại cán bộ từ đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

(6) Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

- Hiện nay, đây là một trong những vấn đề cấp thiết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, để đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

- Những nội dung cần thực hiện để tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị:

+ Đổi mới bộ máy tổ chức của Đảng: Tổ chức đảng được tổ chức theo các cơ quan hành chính nhà nước. Trong một cơ quan hành chính nhà nước chỉ có một tổ chức đảng, vừa làm chức năng lãnh đạo, vừa quản lý đảng viên. Cơ quan lãnh đạo của tổ chức đảng là ban chấp hành, thường vụ, thường trực cấp ủy do bầu cử. Là Đảng cầm quyền, lãnh đạo của tổ chức đảng phải đồng thời là lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị (ở Trung ương, Tổng Bí thư là Chủ tịch nước, các đồng chí chủ chốt của Bộ Chính trị là Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội…; tương tự như vậy ở các địa phương). Ở vị trí nào, cán bộ lãnh đạo sử dụng cơ quan do mình đứng đầu tham mưu, giúp việc cho mình. Chỉ có một bộ phận nhỏ, một số ít đồng chí lãnh đạo chuyên trách công tác đảng. Cơ quan tham mưu, giúp việc cho cấp ủy đảng (ở Trung ương và địa phương) được tổ chức tinh gọn, chủ yếu trong các lĩnh vực của công tác xây dựng đảng: tư tưởng, tổ chức, kiểm tra (và văn phòng) chỉ có chức năng tham mưu cho cấp ủy đảng để cấp ủy đảng lãnh đạo, chỉ đạo, không có chức năng trực tiếp chỉ đạo các cơ quan nhà nước. Chỉ ở Trung ương, ngoài các cơ quan tham mưu về công tác xây dựng đảng, có cơ quan nghiên cứu chính sách để tham mưu về công tác xây dựng đảng, có cơ quan nghiên cứu, chính sách để tham mưu về các lĩnh vực kinh tế, xã hội.

Đối với bộ máy nhà nước: Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, đổi mới phương thức hoạt động, tinh gọn tổ chức đồng bộ ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nghiên cứu giảm số lượng, tăng chất lượng đại biểu Quốc hội, giảm cơ cấu, giảm đại biểu là cán bộ các cơ quan hành pháp, tăng số lượng đại biểu chuyên trách. Nâng cao vai trò của đại biểu Quốc hội; tổ chức lại, nâng cao chất lượng và vai trò của các ủy ban, hội đồng của Quốc hội. Đổi mới tổ chức, cách thức hoạt động của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Quốc hội. Tiếp tục kiện toàn bộ máy chính phủ tinh gọn, các bộ quản lý đa ngành (xem xét sáp nhập Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng và Bộ Giao thông), tập trung vào quản lý nhà nước, chuyển giao cho các tổ chức xã hội và để thị trường những chức năng, nhiệm vụ không nhất thiết có quản lý nhà nước phải thực hiện. Trên cơ sở đó, sắp xếp, tinh gọn tổ chức các bộ. Tiếp tục sáp nhập các đơn vị hành chính ở địa phương (từ xã, huyện, tỉnh) có quy mô quá nhỏ, dân số quá ít để giảm bớt đầu mối. Tổ chức chính quyền địa phương theo các mô hình chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo một cách phù hợp. Tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, không theo địa giới hành chính, tách hoạt động tố tụng với các hoạt động quản lý hành chính trong các tòa án. Xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp để tinh gọn tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp.

Đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội: Tổ chức lại tổ chức bộ máy theo hướng chỉ có ở Trung ương và cơ sở, không có tổ chức cấp huyện, cấp tỉnh theo địa giới hành chính, mà theo khu vực. Tinh gọn tổ chức các cơ quan tham mưu, giúp việc để phù hợp với cơ chế tự chủ của Mặt trận và các đoàn thể, khắc phục tình trạng “nhà nước hóa”, “hành chính hóa” ở các cơ quan này.

(7) Đổi mới  phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước

- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước là yêu cầu cấp thiết hiện nay để nâng cao chất lượng, hiệu lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước. Chất lượng, hiệu lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước không chỉ phụ thuộc vào nội dung lãnh đạo, quản lý mà còn phụ thuộc rất lớn vào phương thức lãnh đạo, quản lý. Phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước cần tiếp tục đổi mới đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- Đối với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cần phải:

+ Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng bằng Cương lĩnh, nghị quyết, đề ra chủ trương, đường lối định hướng cho hoạt động của Nhà nước và xã hội. Trước hết, phải nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Phải xác định đúng, trúng vấn đề, đánh giá đúng, sâu sắc tình hình, đề ra được những nhiệm vụ, giải pháp giải quyết có hiệu quả vấn đề đặt ra, đáp ứng đúng những vấn đề quan trọng, cấp bách của Đảng, của đất nước. Nghị quyết phải gọn, rõ, khoa học, khả thi. Phải đổi mới quá trình chuẩn bị đề án và dự thảo nghị quyết, chỉ thị. Các đồng chí bí thư cấp ủy, thường vụ cấp ủy phải tham gia trực tiếp, thảo luận, định hướng việc chuẩn bị. Không chỉ giao cho ban chỉ đạo với sự tham gia của các ban, ngành chuẩn bị. Đổi mới việc tổ chức hội nghị cấp ủy để thảo luận, thông qua nghị quyết theo hướng cung cấp đủ tài liệu có liên quan, thảo luận dân chủ để hoàn thiện, nâng cao chất lượng nghị quyết. Đổi mới cách tổ chức phổ biến, tuyên truyền, quán triệt nghị quyết trong Đảng và trong xã hội bằng nhiều hình thức, phù hợp với từng đối tượng, tích cực sử dụng các mạng thông tin vào việc này. Đổi mới cách thể chế hóa đúng đắn, kịp thời các chủ trương, nhiệm vụ nghị quyết đề ra thành luật pháp, chính sách, các văn bản pháp quy của Nhà nước để đưa nghị quyết của Đảng sớm đi vào cuộc sống. Đổi mới công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết và công tác tuyên truyền, biểu dương những cách làm hay, sáng tạo và những kết quả thực hiện nghị quyết.

+ Đổi mới phương thức lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng giới thiệu những đảng viên của Đảng có năng lực, phẩm chất để bầu vào vị trí lãnh đạo các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội. Xác định rõ trách nhiệm hàng đầu của các cán bộ, đảng viên này là thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách của Nhà nước; các chương trình hành động của Mặt trận, các đoàn thể và tuyên truyền, phổ biến, tổ chức thực hiện có kết quả chủ trương, đường lối đó trong thực tiễn. Đồng thời, Đảng tổ chức các cơ sở đảng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị. Các đảng viên trong tổ chức đảng gương mẫu, đi đầu và vận động cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị tham gia tích cực vào thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; nêu gương trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, học tập, nâng cao trình độ truyên môn nghiệp vụ, chấp hành kỷ luật, kỷ cương, phát huy sáng kiến, cải tiến để nâng cao chất lượng công việc…

+ Đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, cổ vũ phong trào thi đua, nêu gương những cách làm hay, những điển hình tiên tiến trong thực hiện nghị quyết của Đảng, giới thiệu những mô hình mới, có hiệu quả để nhân rộng… bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, như: bằng thông tin nội bộ, trong tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể; qua đội ngũ báo cáo viên; bằng báo chí, các  phương tiện thông tin phát thanh, truyền hình, các mạng xã hội…

- Đối với đổi mới phương thức quản lý của nhà nước, cần phải:

+ Xác định rõ, thực hiện đúng chức năng, phương thức quản lý của Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Chức năng của quản lý nhà nước là xây dựng, hoàn thiện thể chế, tạo khung khổ pháp luật, giữ ổn định kinh tế - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho sự hoạt động, phát triển mọi mặt, đối nội, đối ngoại của đất nước. Về phương thức, Nhà nước quản lý bằng pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các quy chế, quy trình, định mức và sử dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước, không can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào các hoạt động kinh tế - xã hội, không làm thay thị trường và xã hội ở những việc thị trường và xã hội có thể làm tốt hơn Nhà nước.

+ Tiếp tục tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, khắc  phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, tháo gỡ những vướng mắc cản trở sự phát triển, tạo động lực, phát huy tính năng động, sáng tạo của mọi người, mọi tổ chức xã hội; thu hút mạnh mẽ các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhất là các nguồn lực kinh tế của Nhà nước vào phát triển đất nước; gắn kết chặt chẽ, bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa.

+ Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm luật pháp, chính sách, các quy định của Nhà nước được thực hiện nghiêm túc, có kết quả. Tuyên truyền, biểu dương những điển hình tiên tiến, có cách làm hay, sáng tạo, có hiệu quả; tôn vinh những người có nhiều đóng góp, cống hiến cho đất nước. Đồng thời, uốn nắn những lệch lạc, đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, xử lý nghiêm những vi phạm nghiêm trọng, gây tổn thất cho đất nước. Đẩy mạnh việc sử dụng các công cụ, phương tiện, thiết bị hiện đại vào hoạt động quản lý để nâng cao hiệu quả quản lý./.

 

PV (nguồn: Theo Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.30/16-20 )

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết