Đề tài "Mối quan hệ nhà nước và thị trường trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thực trạng, vấn đề và định hướng chính sách" . Mã số KX.04.12/16-20 do PGS. TS. Vũ Văn Hà làm Chủ nhiệm đã bảo vệ thành công xuất sắc. Dưới đây là một số kiến nghị của đề tài.
1. Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò Nhà nước và thị trường cũng như quan hệ Nhà nước - thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Chúng ta biết, mặc dù kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được Đảng ta xác định là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là đường lối chiến lược nhất quán, song trong thực tiễn cũng như ngay trong ý thức của không ít người kể cả cán bộ vẫn còn có tâm lý “trọng” Nhà nước, “nhẹ” thị trường. Trong tham mưu và xử lý các vấn đề thực tiễn vẫn có thiên hướng gia tăng sự can thiệp của Nhà nước, vì vậy tình trạng Nhà nước lấn át thị trường, can thiệp làm thay thị trường không phải là hiện tượng cá biệt. Hoặc có tình trạng, “sính” thị trường, buông lỏng, xem nhẹ vai trò của Nhà nước, dẫn đến tình trạng kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cung vượt cầu trong những thời điểm nhất định, thể hiện rõ nhất trong hoạt động sản xuất nông lâm, thủy sản. Do vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn về tầm quan trọng của xử lý hài hòa mối quan hệ Nhà nước - thị trường. Nhà nước và thị trường đều có vai trò của mình, chúng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, chứ không đối lập nhau. Nền kinh tế thị trường không thể phát triển hiệu quả khi thiếu vai trò của Nhà nước hay thiếu vai trò của thị trường. Cần tuyên truyền để nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xử lý tốt mối quan hệ này. Mục tiêu của Nhà nước là tạo điều kiện cho thị trường vận hành hiệu quả, và thị trường hiệu quả là minh chứng, là biểu hiện của Nhà nước hành động, hiệu lực. Cần xóa bỏ trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn xem trọng hay xem nhẹ, hoặc buông lỏng tách rời Nhà nước với thị trường. Chỉ khi phát huy tốt cả vai trò của Nhà nước và vai trò thị trường, mới có thể tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững nền kinh tế.
2. Tiếp tục nghiên cứu làm rõ những đặc trưng, những tiêu chí cơ bản của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây chính là cơ sở cho việc xử lý mối quan hệ Nhà nước - thị trường trong thực tiễn
Trong hơn 30 năm qua cùng với sự phát triển thực tế của kinh tế thị trường định hướng XHCN, về mặt lý luận, Đảng ta đã ngày một khái quát rõ hơn mô hình tổng quát nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; đồng thời có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, nhằm mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên cần làm rõ hơn những tiêu chí và đặc trưng kinh tế thị trường định hướng XHCN, bởi chính đây là cơ sở để xử lý tốt quan hệ Nhà nước và thị trường. Ngoài những đặc trưng chung, phổ quát của nền kinh tế thị trường, thì kinh tế thị trường định hướng XHCN có những đặc trưng gì khác biệt trên các phương diện sở hữu, quản lý và phân phối; cũng như trên khía cạnh chính trị ngoài việc Đảng lãnh đạo, Nhà nước XHCN quản lý thì còn đặc trưng gì, nhất là liên quan đến vai trò của các tổ chức chính trị -xã hội; hay trên khía cạnh xã hội ngoài việc gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, trong mỗi chính sách, thì còn đặc trưng gì? Ngay cả về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cũng cần được rõ hơn, trong đó cần xác định những lĩnh vực kinh tế then chốt mà Nhà nước cần nắm giữ, làm rõ hơn vai trò động lực kinh tế tư nhân - phải chăng kinh tế tư nhân là động lực dẫn dắt sự tăng trưởng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN…
Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các hoạt động kinh tế phải vận thành theo các quy luật của kinh tế thị trường hiện đại, đồng thời chịu chi phối bởi các quy luật của xã hội XHCN. Vậy mức độ, phạm vi đồng thời tác động của hai hệ thống quy luật này ra sao? Một hệ thống quy luật thúc đẩy sự tích lũy của cải vào giới giàu có, một hệ thống thúc đẩy sự phát triển hướng tới công bằng. Vậy cơ chế và nguyên tắc phối hợp tác động ở đây ra sao để chúng bổ sung cho nhau chứ không cản trở nhau.
3. Tiếp tục đổi mới vai trò, chức năng của Nhà nước phù hợp với điều kiện phát triển
Trong quá trình đổi mới, trong xử lý quan hệ Nhà nước- thị trường, chúng ta đã có nhiều đổi mới về vai trò, chức năng của Nhà nước theo hướng ngày càng phù hợp với thông lệ phổ biến của các nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới cũng như phù hợp với thực trạng trình độ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, cùng với từng bước phát triển của nền kinh tế - xã hội, cần có sự đổi mới hơn nữa trong chức năng của Nhà nước cũng như vai trò khu vực kinh tế nhà nước.
- Cần linh hoạt trong vai trò can thiệp của Nhà nước. Xu hướng chung là Nhà nước giảm can thiệp trực tiếp, chủ yếu thực hiện can thiệp gián tiếp để định hướng, thúc đẩy thị trường hiệu quả. Khi thể chế kinh tế đã được thiết lập, Nhà nước chỉ đóng vai trò như “trọng tài” hướng dẫn cuộc chơi. Nhà nước cần tập trung bảo đảm sự cạnh tranh một cách lành mạnh giữa các chủ thể trên thị trường trong khuôn khổ pháp luật. Vai trò của Nhà nước cần được thiết kế một cách phù hợp để bảo đảm “không ai bị ép buộc phải làm những gì mà pháp luật không đòi hỏi, và không ai bị cản trở việc thụ hưởng những quyền mà pháp luật đã ấn định”. Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển hiện nay, khi mà hệ thống thị trường của Việt Nam chưa phát triển đầy đủ và đồng bộ, Nhà nước cần can thiệp để tạo lập và thúc đẩy các thị trường mới, thị trường non yếu, bởi lẽ thị trường chỉ phát huy hiệu quả khi có sự phát triển đầy đủ, đồng bộ và thông suốt. Cần tiếp tục kiện toàn và đẩy mạnh đổi mới chức năng của Nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển, tập trung vào khắc phục khuyết tật thị trường trên mấy khía cạnh như: thứ nhất, xây dựng pháp luật, các quy định và quy chế điều tiết nhằm tạo nên một môi trường thuận lợi và hành lang an toàn cho sự phát triển có hiệu quả của các hoạt động kinh tế; thứ hai, tập trung vào ổn định và cải thiện các hoạt động kinh tế thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như: thuế, tài chính-tiền tệ, lãi suất,…từ đó hạn chế biên độ dao động chu kỳ kinh doanh, hạn chế thất nghiệp, lạm phát…; thứ ba, thông qua các công cụ điều tiết để tác động đến sự phân bổ nguồn lực; và thứ tư, thông qua quy hoạch và tổ chức thu hút các nguồn đầu tư vào kết cấu hạ tầng; xây dựng các chính sách, các chương trình tác động đến khâu phân phối lại thu nhập nhằm bảo đảm công bằng xã hội;
- Nói quan hệ Nhà nước – thị trường là nói chung, song trong thực tiễn xử lý quan hệ này phải hết sức cụ thể, gắn với vai trò (tư cách) Nhà nước thể hiện ra trong quan hệ với thị trường. Chẳng hạn Nhà nước với tư cách chủ thể quản lý phải tuân theo các quy luật quản lý nền kinh tế; hay Nhà nước với tư cách người mua trên thị trường thì phải tuân theo quy luật cung- cầu, quy luật giá trị; hoặc Nhà nước với tư cách bên cung (doanh nghiệp nhà nước) phải tuân thủ quy luật cạnh tranh…Rõ ràng cần có sự tách bạch vai trò của Nhà nước trong quan hệ cụ thể với thị trường, nếu không sẽ nhầm lẫn, một là làm thay, hai là buông lỏng, dẫn đến làm biến dạng các quan hệ, làm méo mó thị trường;
- Về vai trò khu vực kinh tế nhà nước cần được xác định cho hợp lý, phù hợp với năng lực thực tế. Hiện nay khu vực kinh tế nhà nước đang được ưu đãi sử dụng nguồn lực lớn nhưng hiệu quả thấp không tương xứng với mong muốn cũng như không tương xứng với chính các nguồn lực được tiêu dùng. Không những không đại diện được cho tính hiệu quả, không đủ năng lực dẫn dắt, mà vai trò chủ đạo càng không thể hiện nổi. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của doanh nghiệp Nhà nước, một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước đã chuyển từ vai trò chủ đạo sang vai trò công cụ chính sách (thuế và trợ cấp, hệ thống pháp luật, kinh tế nhà nước (trong đó có doanh nghiệp nhà nước), dự phòng chiến lược)...
.Trong xu hướng hiện nay đang đẩy mạnh cổ phần hóa, đầu tư trong khu vực nhà nước sẽ giảm tỷ trọng trong tổng đầu tư xã hội nói chung. Khu vực kinh tế nhà nước chỉ tập trung đầu tư giữ vững một số lĩnh vực then chốt liên quan đến an ninh quốc gia, còn ngay lĩnh vực hàng hóa công cũng nên mở rộng cho tư nhân tham gia cung ứng. Nhà nước chỉ cung ứng những gì mà cá nhân, tổ chức tư nhân chưa thể hoặc không thể cung ứng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
của quản lý nhà nước. Đó là xu thế chung trong các nền kinh tế thị trường hiện đại. Nói khu vực kinh tế nhà nước là chủ đạo không phải thể hiện ở doanh nghiệp nhà nước nhiều hay ít, tỷ trọng đóng góp GDP cao hay thấp, mà chính là, và quan trọng là ở chỗ, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cũng phát triển; và để bổ sung nguồn lực vật chất thì càng cần đẩy mạnh cổ phần hóa, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, chấm dứt các nguồn vốn nhà nước đầu tư không hiệu quả; mạnh dạn và tiên phong trong áp dụng công nghệ mới để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Việc phân bổ các nguồn lực công của Nhà nước phải tuân theo các tín hiệu của thị trường, bảo đảm minh bạch và hiệu quả. Do đó, cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại đầu tư công nhằm chuyển đổi và hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư công và chất lượng thể chế quản lý đầu tư công, thực hiện công khai, minh bạch thông tin và tăng cường công tác giám sát, đánh giá, kiểm tra, thanh tra trong quá trình đầu tư công…. Thực hiện tái cơ cấu để nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện các mô hình quản lý, giám sát doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước, xử lý dứt điểm các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước, các công trình nhà nước đầu tư kém hiệu quả, tiến tới đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp.
Khu vực kinh tế tư nhân đã và đang có sự năng động phát triển mạnh mẽ, sự đóng góp vào tăng trưởng ngày càng tăng theo tỷ trọng trong GDP và trong sử dụng nguồn nhân lực cũng như tính tiên phong trong triển khai, áp dụng công nghệ mới. Kinh tế tư nhân vận hành trong điều kiện xã hội có Đảng lãnh đạo, Nhà nước XHCN quản lý, tuân thủ hệ thống pháp luật nước nhà và nhiều chủ doanh nghiệp tư nhân là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy phải chăng nên xem đây là lực lượng chủ lực trong tăng trưởng GDP của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tiếp tục quán triệt tinh thần Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ, ngày 16-05-2016, về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.
– Nghị quyết xác lập 10 nguyên tắc để xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển.
- Tăng cường năng lực thích ứng của các cấp chính quyền đối với các mô hình và dạng thức kinh doanh mới và sự thay đổi của công nghệ. Đặc biệt, cách mạng công nghiệp 4.0 đã thâm nhập mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, từ những phương tiện đi lại qua các ứng dụng đặt xe di động như Grab và Uber, sống trực tuyến qua Twitter, Instagram và Facebook, đến đặt thức ăn trực tuyến qua Foodpanda… Các ví dụ điển hình của sự xuất hiện các dạng thức kinh doanh mới gắn với sự thay đổi công nghệ là sự xung đột lợi ích giữa nhóm taxi truyền thống với mô hình kinh doanh mới, giữa khách sạn truyền thống với các căn hộ dịch vụ cho thuê, hay cho thuê phòng qua trang mạng airbnb ở Việt Nam thời gian qua. Điều này đang đặt các cơ quan quản lý nhà nước trước sức ép phải lựa chọn một cơ chế thích hợp. Trước khi áp dụng khá phổ biến ở Việt Nam, các mô hình và dạng thức kinh doanh mới này đã xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới và cũng đã gây ra những tranh cãi gay gắt không chỉ trong cách thức cạnh tranh và mà còn nằm ở cách thức quản lý mô hình này. Đứng dưới góc độ lợi ích công cộng, cần có biện pháp kiểm soát để giảm thiểu các tác động bất lợi mà các phương thức kinh doanh mới nói trên có nguy cơ gây ra. Trong một nền kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của công nghệ, sự xuất hiện của các phương thức kinh doanh mới dựa trên công nghệ mới là điều tất yếu, và việc chấp nhận các phương thức mới này đúng với tính chất của nó dường như cũng là điều tất yếu. Điều này đặt ra yêu cầu bảo đảm và tăng cường năng lực thích ứng của chính quyền đối với các mô hình và dạng thức kinh doanh mới và sự thay đổi của công nghệ. Sự thích ứng này cần được thực hiện với việc cải cách toàn diện cả 3 nhóm chỉ số gồm: Hạ tầng viễn thông (TII), nguồn nhân lực (HCl) và dịch vụ công trực tuyến (OSI).
4. Cần thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của hệ thống thị trường, hướng tới thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường quyết định phân bổ các nguồn lực là một quy luật. Bởi lẽ thông qua sự vận động của thị trường, các nguồn lực sẽ được dịch chuyển đến nơi, mà ở đó sản xuất có lợi nhất, với chi phí nguồn lực ít nhất mà đạt hiệu quả cao nhất. Và chính thị trường sẽ thông tin cho doanh nghiệp, sản xuất cái gì và sản xuất cho ai là hiệu quả. Cũng chính thị trường, dưới tác động của quy luật lợi nhuận bình quân sẽ làm cho quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong hoạt động kinh doanh được cân bằng. Hơn nữa với thước đo cung - cầu, thị trường sẽ điều tiết các nguồn lực để hạn chế, hay gia tăng sản xuất đáp ứng cung cầu; và trong quá trình sản xuất, dưới tác động của quy luật cạnh tranh buộc các chủ thể trên thị trường phải tìm cách giảm giá thành, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường.
Nhà nước nên khuyến khích hành vi cạnh tranh lành mạnh và trừng phạt những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Điều này có nghĩa là, thay vì việc đặt ra những quy định mang tính bắt buộc doanh nghiệp phải giảm giá hàng hóa, dịch vụ hoặc nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, trong nhiều trường hợp, Nhà nước chỉ cần đặt các doanh nghiệp vào vị thế phải cạnh tranh lành mạnh với nhau là đủ. Điều này cũng đúng kể cả trong trường hợp có một hoặc một vài doanh nghiệp lớn, vượt trội trên thị trường thì áp lực cạnh tranh từ các doanh nghiệp nhỏ hơn cũng khiến các doanh nghiệp lớn không thể đứng yên tại chỗ mà phải thường xuyên thay đổi, cải tiến để duy trì thị phần, tạo chỗ đứng, vị trí vững chắc trên thị trường. Kiểm soát có hiệu quả hành vi độc quyền, hành vi lạm dụng vị thế thống lĩnh thị trường trong kinh doanh. Giải quyết kịp thời các khiếu nại đối với các vụ việc lạm dụng vị thế độc quyền, vị thế thống lĩnh thị trường, tập trung hóa kinh tế, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Do vậy trong nền kinh tế thị trường XHCN, theo quy luật chung, cần khẳng định, thị trường đóng vai trò quyết định trong phân bổ các nguồn lực.
Vấn đề là làm cho thị trường thực sự phát huy vai trò quyết định trong phân bổ các nguồn lực (gắn liền phát huy vai trò nhà nước). Muốn vậy cần tạo lập hệ thống thị trường đồng bộ và hiện đại. Nhà nước không chỉ quản lý giám sát thị trường, tạo lập luật chơi công bằng, minh bạch, mà cần tham gia thúc đẩy sự phát triển của hệ thống thị trường. Để các thị trường phát huy được tốt chức năng vốn có của mình các thị trường cần được tạo điều kiện và cơ chế phát triển ngày càng đồng bộ và đầy đủ. Do vậy phải tạo lập nguồn lực, điều kiện cơ chế, chính sách cho phát triển đồng bộ các loại thị trường (hàng hóa - dịch vụ, sức lao động, bất động sản, tiền tệ, khoa học - công nghệ), nhất là thúc đẩy các loại thị trường phát triển phù hợp với tiêu chí thị trường hiện đại, vượt lên các giới hạn của trình độ thị trường hiện nay. Trong đó chú trọng đến các thị trường đặc biệt hoặc các yếu tố của từng loại thị trường đòi hỏi Nhà nước phải đổi mới căn bản tư duy, tầm nhìn cũng như phương thức can thiệp để sớm hình thành đồng bộ, hiện đại hóa, phù hợp với thông lệ quốc tế, có khả năng dẫn dắt và tạo đột phá cho đổi mới mô hình tăng trưởng. Hệ thống thị trường này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự chủ kinh doanh (sản xuất cái gì, bao nhiêu, cho ai…), cạnh tranh công bằng, hàng hóa và các yếu tố thị trường được dịch chuyển tự do, người tiêu dùng cũng được tự do lựa chọn hàng hóa - dịch vụ đáp ứng nhu cầu. Nói cách khác, trong hệ thống thị trường này, thị trường sẽ quyết định sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực.
5. Đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trên thị trường phát huy vai trò, hiệu quả
- Môi trường kinh doanh ngày càng tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức tiếp tục đặt ra như trình tự thực hiện phức tạp, một số thủ tục hành chính còn thiếu các bước để thực hiện, còn thiếu các mốc thời gian trong việc thực hiện các thủ tục hành chính, tiêu chí để cơ quan nhà nước xem xét giải quyết thủ tục hành chính còn chưa rõ ràng… Nhiều luật có nhiều vướng mắc đến thời điểm hiện nay như Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Bộ luật dân sự, Bộ luật hàng hải, Bộ luật Lao động, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Hải quan, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Quản lý thuế, Luật Kế toán, Luật Thuế Giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây cũng là các luật điều chỉnh trực tiếp nhiều loại thị trường. Các bất cập từ các luật này có thể chia thành các nhóm: các vấn đề về tiếp cận đất đai, về tiếp cận vốn, về tiếp cận thị trường, về thủ tục, điều kiện kinh doanh, về hợp đồng lao động, tiền lương, lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam… Vì vậy, cần có cơ chế kiểm soát hiệu quả các quy định về thủ tục hành chính trong các văn bản quy phạm pháp luật để hạn chế tình trạng bất cập ở trên, tiếp tục thực hiện các hoạt động cải cách thủ tục hành chính một cách đồng bộ, triệt để giữa các cơ quan nhà nước, từ trung ương đến địa phương; tiếp tục hoàn thiện các luật có quy định liên quan nhiều nhất và có nhiều vướng mắc nêu trên… Đồng thời, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020; Đề án tăng cường năng lực đội ngũ công chức chuyên trách cải cách hành chính; Đề án đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện cơ chế một cửa liên thông, kết nối điện tử, đơn giản thủ tục và rút ngắn thời gian cấp phép xây dựng và các thủ tục liên quan; đăng ký quyền sở hữu và sử dụng tài sản.
- Chính quyền các địa phương cần tiếp tục tăng cường công khai, minh bạch thông tin trên trang web của địa phương, đặc biệt là việc đăng tải đầy đủ các thông tin như các quy hoạch, kế hoạch phát triển của địa phương, các dự án đầu tư công, đấu thầu, các dự án kêu gọi đầu tư, các dự án đối tác công tư. Những thông tin về phản hồi, đánh giá, phản ánh vướng mắc kiến nghị, khiếu nại của doanh nghiệp cũng cần được chú ý đăng tải, ví dụ đánh giá mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp về các thủ tục hành chính của địa phương.
- Bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật, loại bỏ sự chồng chéo trong hệ thống pháp luật, tránh tình trạng văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thấp hơn lại trái với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Một thực tế ở nước ta là trong không ít trường hợp, một vấn đề không được quy định đồng nhất trong nhiều văn bản khác nhau. Môi trường pháp luật về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay là một hệ thống khá phức tạp với nhiều văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hành chính do các Bộ, cơ quan và các chính quyền địa phương ban hành. Điều này dẫn tới sự thiếu minh bạch trong hệ thống văn bản pháp luật. Những thay đổi khó dự đoán trước của hệ thống pháp luật cũng là vấn đề có tác động tiêu cực đến sự phát triển hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Sự thiếu thống nhất và thiếu đồng bộ này đã gây ra không ít khó khăn cho cả cơ quan áp dụng pháp luật lẫn các đối tượng áp dụng, nhất là khi các khái niệm về luật chung, luật riêng, luật chuyên ngành vẫn chưa được định nghĩa trong văn bản quy phạm pháp luật. Vấn đề này hoàn toàn có thể xử lý có hiệu quả nếu bảo đảm công tác rà soát pháp luật được thực hiện một cách chuyên sâu và bài bản.
- Cần thực hiện cải cách một cách đồng bộ và toàn diện đối với lĩnh vực tư pháp bao gồm: thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp; rút ngắn thời gian, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án; hỗ trợ hoạt động của tòa án, cơ quan thi hành án, thừa phát lại, luật sư; phát triển về số lượng và chất lượng quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản tại địa phương; công khai thông tin đầy đủ, kịp thời về đội ngũ luật sư, quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trên địa bàn; nâng cao tính chuyên nghiệp trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, phá sản doanh nghiệp; công khai các hoạt động giải quyết vụ án của tòa án và công khai các bản án.
- Cùng quá trình thể chế hóa, ban hành các quy định pháp luật, là cần phải tăng cường công tác giám sát, kiểm tra đối với việc ban hành và thực thi Luật của các Bộ, tránh tình trạng không thực hiện hoặc “bỏ quên” các quy định của Luật. Kiểm soát chặt chẽ quá trình xây dựng văn bản pháp luật, kể cả khâu thực thi các văn bản này, đồng thời thực hiện tốt công tác tham vấn ý kiến khi xây dựng văn bản pháp luật. Việc kiểm soát nguy cơ nhũng nhiễu, tiêu cực ngay trong quá trình xây dựng pháp luật là hoàn toàn có thể thực hiện được thông qua các quy định chặt chẽ, không tạo cơ hội cho sự tùy tiện trong quản lý nhà nước đối với thị trường, và tránh những quy định tạo ra sự xung đột lợi ích của chủ thể quản lý nhà nước – điều này đòi hỏi một cơ chế độc lập trong xây dựng pháp luật.
6. Cần gắn kết chặt chẽ, phối hợp giải quyết mối quan hệ đồng thời giữa nhà nước - thị trường và xã hội
Khi giải quyết mối quan hệ nhà nước - thị trường trên thực tế không thể tách rời với xã hội, do vậy cần gắn kết chặt chẽ, phối hợp giải quyết mối quan hệ đồng thời giữa nhà nước - thị trường và xã hội. Cần phát huy vai trò, chức năng của thành tố xã hội trên cơ sở luật hóa. Hiện chúng ta chưa có luật về hội, cho nên hoạt động của các tổ chức xã hội còn hạn chế, thụ động. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, xã hội có vai trò không thể thay thế, và vai trò này sẽ ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của Nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường. Trong thực tiễn phát triển thành công của các nền kinh tế trên thế giới đều có đóng góp của thành tố xã hội, ví dụ Hàn Quốc, từ chỗ gạt bỏ vai trò của thành tố xã hội, đến chỗ thừa nhận và sự tham gia ngày càng hiệu quả vào kỳ tích phát triển của đất nước này. Trong điều kiện của ta để phát huy vai trò chức năng của thành tố xã hội cần: 1- Thực sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội trong thực tiễn phát triển nền kinh tế; 2-Tạo lập đầy đủ cơ chế bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân, nâng cao khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Thực hiện tốt và hiệu quả Quy chế Dân chủ ở cơ sở qua đó thực sự phát huy vai trò, trách nhiệm của người dân; 3- Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, nghiên cứu tổng kết nhân rộng mô hình các tổ tự quản khu dân cư; 4- Đẩy nhanh hơn quá trình xây dựng và thông qua Luật về hội và hiệp hội, tạo cơ sở pháp lý cho phát huy ngày càng hiệu quả vai trò của thành tố xã hội trong mối quan hệ với Nhà nước và thị trường; 5- Tăng cường vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp với vai trò làm cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Hiệp hội doanh nghiệp có nhiều ưu thế trong việc xác lập cơ chế đối thoại trực tiếp giữa chính quyền và doanh nghiệp như: hiệp hội doanh nghiệp có thể giữ bí mật về tên doanh nghiệp cụ thể đã nêu ý kiến; hiệp hội doanh nghiệp có thể giúp bổ sung các dẫn chứng, lập luận để tăng tính thuyết phục của ý kiến góp ý; hiệp hội doanh nghiệp có thể giúp tổ chức các cuộc họp hoặc hội nghị, hội thảo, tọa đàm… với cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật nhằm truyền đạt ý kiến một cách trực tiếp hơn đến cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Và chúng tôi kiến nghị:
Một là, bổ sung vào Văn kiện mối quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội là một trong những mối quan hệ lớn và quan trọng, đây là mối quan hệ thứ chín (so với 8 mối quan hệ trước đây). Giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ tạo động lực cho phát triển, là chìa khóa để giải quyết sự phát triển cân bằng; là cốt lõi của quá trình cải cách thể chế kinh tế;
Hai là, đề nghị sử dụng khái niệm xã hội dân chủ hoặc khái niệm xã hội dân sự.
Bấy lâu nay ta e ngại sử dụng khái niệm xã hội dân sự. Điều này xuất phát từ ít nhất 2 lý do:
1- Xem xã hội dân sự gắn liền với CNTB. XHDS nằm ngoài quyền lực nhà nước (thậm chí có người còn hiểu đối lập Nhà nước), nên nếu có XHDS sẽ có nguy cơ mất sự tập trung, thống nhất về quyền lực;
2- Thực tế trong bối cảnh hiện nay, các thế lực phản động lợi dụng cái gọi là XHDS, hình thành các NGO, bên cạnh các tác dụng tích cực, chúng lợi dụng tuyên truyền chống phá, cung cấp cơ sở vật chất cho các thế lực chống đối làm mất ổn định xã hội. Vì vậy, xin đề nghị 2 phương án:
Phương án 1: sử dụng khái niệm xã hội dân chủ. Xã hội dân chủ đi liền với Nhà nước pháp quyền và thị trường định hướng XHCN. Có người dùng xã hội công dân, tuy nhiên khái niệm xã hội công dân lại chưa phản ánh được bản chất dân chủ, mở rộng các cơ hội và điều kiện của mọi thành phần, mọi người dân và tổ chức tham gia đóng góp cho sự phát triển. Tuy nhiên khi sử dụng khái niệm xã hội dân chủ cần hiểu đó không chỉ là cơ chế mà còn là thiết chế, có các bộ phận cấu thành;
Phương án 2: sử dụng khái niệm xã hội dân sự. Khi sử dụng khái niệm này cần làm rõ nội hàm XHDS. Điều chúng ta có thể thấy là, XHDS, giống như KTTT, không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, mà XHDS đó là một bước tiến của loài người trong tổ chức của cộng đồng bên cạnh sự tiến bộ của các thiết chế Nhà nước ngày càng hợp lý (Nhà nước từ cai trị sang phục vụ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân…), còn xã hội cũng hình thành một loại các thiết chế xã hội đa dạng phù hợp với xu thế phát triển mà Mác đã từng đề cập đến là: Nhà nước sẽ nhỏ đi và xã hội sẽ lớn lên. Vai trò của tự quản trong cộng đồng mạnh lên là một chặng đường thăng tiến đáng kể của nhân loại. Vai trò tự quản ấy chính là nằm ở các tổ chức xã hội với các thiết chế riêng cùng với Nhà nước, đó là các bộ phận hợp thành XHDS. Hơn nữa chúng ta cũng cần hiểu là, trong XHDS, các bộ phận cấu thành khi muốn được hình thành và thể hiện vai trò thì cần có được sự chấp thuận của nhà nước. Và về bản chất XHDS là đóng góp vào sự phát triển chung, đó là vì con người.
Ba là, đẩy mạnh quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó sớm thể chế hóa vai trò, chức năng của các tổ chức xã hội. Điều này cũng đã được văn kiện Đại hội IX nêu ra, nhưng cho đến nay chưa thực hiện được. Việc ban hành Luật về hội sẽ tạo dư địa cho các tổ chức xã hội phát huy năng lực, khai thác các nguồn lực trong xã hội đóng góp vào sự phát triển chung.
7. Về quan điểm và cơ chế xử lý mối quan hệ Nhà nước-thị trường
Quan hệ Nhà nước và thị trường là mối quan hệ xuyên suốt và cơ bản trong mọi nền kinh tế thị trường. Cần có cái nhìn toàn diện trong xử lý mối quan hệ này. Cho dù thể hiện dưới mối quan hệ nào thì trong quá trình xử lý, nguyên tắc cao nhất vẫn là bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc. Đây chính là thước đo, tiêu chí cao nhất để quyết định. Nói cách khác mục đích không phải là nhà nước nhiều hay thị trường nhiều, mà là tính hiệu quả, là lợi ích trong sự phát triển quốc gia dân tộc.
Như vậy nhà nước hay tư nhân, đầu tư trong nước hay đầu tư nước ngoài nếu có lợi cho quốc kế dân sinh đều được khuyến khích phát triển và ngược lại nếu tổn hại đến quốc gia dân tộc thì rất khoát từ chối.
Cần thể chế hóa vai trò, chức năng Nhà nước-thị trường-xã hội, đồng thời hình thành cơ chế tương tác hiệu quả giữa các thành tố này. Cụ thể, cần tập trung, tiếp tục hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; thể chế hóa quyền tự do kinh doanh; xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về thị trường hàng hoá, dịch vụ; thể chế hóa, tạo khung pháp lý cho việc xây dựng và vận hành thị trường các yếu tố sản xuất; thể chế cho cải thiện môi trường đầu tư; thể chế cho phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất, phát triển và đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... Đồng thời, cần hoàn thiện thể chế trong quá trình trao đổi, phân phối vừa bảo đảm tính ngang giá, vừa tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh. Đặc biệt chú ý, cần thể chế hóa, tạo dư địa cho các tổ chức xã hội phát huy mạnh mẽ năng lực của mình trong quan hệ với Nhà nước và thị trường. Tất nhiên không nên Nhà nước hóa tất cả các tổ chức xã hội, như vậy vừa tạo gánh nặng cho ngân sách và cũng không phát huy được tính năng động sáng tạo của các tổ chức này.
Hình thành cơ chế tương tác hiệu quả giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Cơ chế này phải dựa trên nguyên tắc phục tùng lợi ích phát triển chung của toàn xã hội. Nhà nước chỉ can thiệp trong các trường hợp thị trường thất bại. Như vậy đặt ra yêu cầu là rà soát các quy chế, quy định trong lĩnh vực điều hành của nhà nước, xóa bỏ các can thiệp không cần thiết, làm sai lệch hoặc méo mó thị trường, và đương nhiên bổ sung các quy định, để có can thiệp phù hợp kịp thời, tránh bỏ qua các cơ hội, hoặc không bao quát hết vai trò của Nhà nước, tránh xung đột lợi ích giữa các chủ thể trên thị trường. Trong cơ chế này, Nhà nước, xã hội và doanh nghiệp hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật với tư cách là các chủ thể trên thị trường. Gắn liền với đó là tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nhất là phương thức lãnh đạo phát triển kinh tế, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, tinh giản và nâng cao chất lượng, hiệu quả bộ máy, biên chế trong cơ quan nhà nước, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.
Với ý nghĩa như trên, một cơ chế cần được xác lập trong xử lý quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, thị trường phân bổ và xã hội giám sát, bổ sung. Trong cơ chế này Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua đường lối, Nhà nước thực hiện vai trò quản lý, tạo lập khuôn khổ pháp lý và môi trường tăng trưởng là chính, thị trường phát huy vai trò trong huy động và phân bổ nguồn lực; xã hội thực hiện vai trò giám sát cả Nhà nước và thị trường, đồng thời bổ khuyết, khắc phục những trường hợp bị thị trường gạt bỏ hoặc Nhà nước không bao phủ hết./.
PV (nguồn: Theo Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.12/16-20 )