Thứ Tư, ngày 22 tháng 10 năm 2025

Một số kết quả nghiên cứu của đề tài “Về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trong giai đoạn mới” ​

Ngày phát hành: 21/10/2025 Lượt xem 35

 

Đề tài  “Về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trong giai đoạn mới” mã số KX.04.12/21-25 do PGS.TS  Trương Hồ Hải, Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm đã bảo vệ thành công xuất sắc. Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu của đề tài.

 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội (Ảnh tư liệu)

 

I. Những vấn đề mới của đề tài

 

1. Về lý luận và thực tiễn  

 

Đề tài đã tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; làm rõ sự phát triển, những bài học thành công, những hạn chế; từ đó đề xuất cơ sở khoa học để hoàn thiện cơ bản hệ thống lý luận về giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; phục vụ xây dựng các văn kiện Đại hội XIV của Đảng

 

Đề tài đã đi sâu làm rõ những vấn đề lý luận chủ yếu trong giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là một trong những mối quan hệ lớn trong tiến trình cách mạng Việt Nam, thể sự tác động qua lại giữa Đảng, Nhà nước, Nhân dân, theo đó, Đảng giữ vai trò, thực hiện chức năng lãnh đạo, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, Nhân dân giữ vai trò chủ thể quyền lực và thực hiện quyền làm chủ, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ vừa là quan hệ mang tính chính trị vừa là quan hệ mang tính pháp lý. Là mối quan hệ đa chiều, biện chứng chặt chẽ, tương hỗ, kiểm soát, tác động qua lại lẫn nhau của ba thành tố Đảng - Nhà nước - Nhân dân; là cơ chế hoạt động chung của hệ thống chính trị Việt Nam. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là mối quan hệ gắn bó thống nhất vì mục tiêu, lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 

 

Chỉ khi Đảng lãnh đạo cầm quyền thì mới xây dựng được chính quyền của Nhân dân, Nhà nước mới thực sự là của Nhân dân. Nhà nước chính là công cụ chủ yếu để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhân dân làm chủ vừa là mục tiêu cao nhất của quan hệ tổng thể trên vừa là thành tố có sự tác động trở lại đối với Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý.

 

Đảng lãnh đạo, cầm quyền luôn có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Cả về phương diện lý luận và thực Đảng lãnh đạo, cầm quyền luôn là “hạt nhân chính” của hệ thống chính trị và xã hội. Nhà nước luôn là chủ thể rất quan trọng trong sự vận hành của hệ thống chính trị và xã hội, là chủ thể trung tâm và quan trọng nhất của hệ thống quản trị quốc gia. “Nhân dân làm chủ” có tầm quan trọng đặc biệt, tầm quan trọng đặc biệt ở đây được biểu hiện chủ yếu ở quyền lực của Đảng và Nhà nước đều có nguồn gốc từ Nhân dân, Nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực chính trị, chủ thể cao nhất của mọi quyền lực, chủ thể uỷ quyền cho Đảng và cho Nhà nước, do vậy, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là sự phái sinh từ quyền lực Nhân dân, phải nhân danh Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân mà phục vụ. Nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm của mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.

 

Giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ để bảo đảm tốt hơn quyền lợi của nhân dân, bảo đảm thắng lợi các mục tiêu của cách mạng Việt Nam, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương xã hội. Mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Kiểm soát quyền lực nhất là kiểm soát quyền lực trong Đảng trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

 

2. Kết quả, bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra

 

2.1. Thành tựu

 

- Về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ

Về chủ thể nhân dân, Cương lĩnh năm 1991 đã khẳng định: Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lợi thuộc về nhân dân. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), văn kiện Đại hội XII và XIII của Đảng nhận thức rõ hơn về chủ thể nhân dân.

 

Về chủ thể Nhà nước: Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản.

 

Về chủ thể Đảng: Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

- Về sự nhịp nhàng, khoa học, dân chủ, hợp pháp

 

Một là, về mối quan hệ của Đảng với Nhà nước và nhân dân, Cương lĩnh năm 1991 chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.

 

Hai là, về mối quan hệ của Nhà nước với Đảng và nhân dân, Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan luật pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của nhà nước. Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân”.

 

Ba là, về mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước: Nhân dân làm chủ được xác định là mục tiêu cao nhất trong hoạt động của Đảng và Nhà nước. Quyền lực của Đảng và quyền lực của Nhà nước đều bắt nguồn, ra đời, tôn trọng và phát triển từ quyền lực của nhân dân.

 

2.2. Hạn chế

 

- Về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ

Bộ máy cơ quan Đảng và Nhà nước còn cồng kềnh, chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ.

 

Bộ máy nhà nước còn nhiều hạn chế trong tổ chức và hoạt động dẫn đến tình trạng giảm sút hiệu lực, hiệu quả quản lý, làm phương hại trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đặc biệt, tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, xem thường kỷ cương phép nước trong bộ máy nhà nước chưa được đẩy lùi đang là nguy cơ tiếp tục gây ảnh hưởng xấu tới mối quan hệ giữa Nhà nước và Nhân dân và với Đảng.

 

- Về sự nhịp nhàng, khoa học, dân chủ, hợp pháp

 

Việc thể chế hoá chủ trương hay các quy định về nhân dân thực hiện quyền làm chủ (nhất là dân chủ trực tiếp) trong văn kiện của Đảng, trong Hiến pháp thành các đạo luật và các văn bản pháp quy chưa kịp thời và chưa có tính hệ thống. Nhận thức về mối quan hệ này vẫn còn những điểm chưa rõ. Chưa có nhận thức thống nhất và rõ ràng giữa Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo. Chưa nhận thức đầy đủ và phân biệt rõ ràng quyền lãnh đạo và quản lý. Nguyên tắc “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” được ghi nhận trong Cương lĩnh năm 2011 và Hiến pháp năm 2013, nhìn chung chưa được nhận thức sâu sắc, đầy đủ.

 

Pháp luật về thực hiện dân chủ có một số bất cập, chưa đồng bộ. Một số quy định cụ thể về trưng cầu, lấy ý kiến cộng đồng hay tập hợp, lấy ý kiến của các cá nhân tiêu biểu; về hoạt động giải trình của cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên; về đối thoại giữa nhân dân với chính quyền; về tiếp nhận những ý kiến thông qua dư luận xã hội… Nhiều quy định về giám sát nhân dân còn tồn tại ở dạng quy chế, có giá trị pháp lý không cao. Thậm chí, một số quy định về giám sát nhân dân trong các văn bản pháp luật cũng đang mâu thuẫn với nhau hoặc thiếu tính khả thi.

 

- Về phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tính hiệu lực, hiệu quả

 

Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý nhân dân làm chủ chưa có cơ chế để người dân trực tiếp quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước mà chủ yếu thực hiện bằng cơ chế dân chủ đại diện.

Nhân dân với tư cách là toàn dân “chưa được Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, toàn dân chưa được phúc quyết về Hiến pháp do Hiến pháp và pháp luật chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể.

 

2.3. Bài học kinh nghiệm

 

Một là, việc giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ phải sớm nghiên cứu xây, hoàn thiện cơ chế tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào quá trình xây dựng và ban hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

 

Hai là, việc giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ luôn luôn giữ vững và phát huy quan điểm của Chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những giá trị phổ biến về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân trên thế giới.

 

Ba là, việc giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ phải luôn giữ vai trò Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước, nhân dân làm chủ, nguyên tắc Đảng lãnh đạo bằng quan điểm, đường lối chính trị.

 

Bốn là, việc giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ phải luôn luôn chú trong đến việc  bảo vệ quyền công dân, bảo vệ quyền con người.

 

Năm là, việc giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ phải luôn chú trọng xây dựng đội ngũ đảng viên có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới.

 

2.4. Những vấn đề đặt ra

 

Thứ nhất, về nhận thức mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.

Cần nhận thức, làm rõ về thể chế pháp quyền (hay còn gọi rõ là Thể chế dân chủ pháp quyền). Phân định rõ khái niệm về “Nhà nước pháp quyền” và “Thể chế pháp quyền”; xây dựng Thể chế pháp quyền là phải xây dựng đồng bộ NNPQ, xã hội pháp quyền, và con người - công dân pháp quyền; nhận thức rõ, đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng kiến trúc thượng tầng theo các nguyên tắc pháp quyền của NNPQXHCN, với nền tảng cơ sở hạ tầng vận động theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Nhận thức rõ vai trò của từng thành tố: về vị trí, vai trò của Đảng trong thể chế dân chủ, pháp quyền; Nhận thức về NNPQ; Nhận thức về vai trò chủ thể - quyền làm chủ của nhân dân

 

Thứ hai, về mặt thực tiễn thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý -Nhân dân làm chủ”. Trong các văn kiện của Đảng từ nhiều nhiệm kỳ đều chỉ rõ, tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế, từ khâu nhận thức, cụ thể hóa chủ trương đường lối đến thực thi cụ thể. Chưa cụ thể hóa và thể chế hóa đầy đủ, đồng bộ cơ chế mang tính pháp lý, công khai, minh bạch, trong đó thể hiện rõ mối tương quan về quyến hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình trong mối mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trong các cấp, các ngành, các lĩnh vực; chưa quy định cụ thể, đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ về quyền, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của tổ chức đảng, nhất là các cấp ủy và cá nhân người đứng đầu; cơ chế, thiết chế kiểm soát quyền lực trong đảng chưa được hoàn thiện; Hệ thống pháp luật cách tiếp cận xây dựng và nội dung trong không ít trường hợp chưa thể hiện rõ, đầy đủ các nguyên tắc dân chủ pháp quyền; Nguyên tắc kiểm soát quyền lực trong thể chế dân chủ pháp quyền chưa được chế định đầy đủ, đồng bộ thành các thiết chế, cơ chế ở các cấp, các lĩnh vực; chưa chế định được đầy đủ, đồng bộ cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng gắn với kiểm soát quyền lực trong Nhà nước và kiểm soát quyền lực từ phía xã hội, nhân dân...

 

Thứ ba, Đảng cần có sự khẳng định dứt khoát, rõ ràng về sự lựa chọn và chấp nhận một số nguyên tắc pháp quyền phù hợp với Việt Nam, từ đó hình thành chủ thuyết đầy đủ về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

Thứ tư, pháp luật về lĩnh vực dân chủ của nhân dân đối với thực thi quyền hành pháp còn nhiều bất cập. Quy định pháp luật về bảo đảm quyền dân chủ của Nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động lấy ý kiến nhân dân, tiếp nhận ý kiến phản ánh của cộng đồng dân cư, địa phương ở các đơn vị hành chính lãnh thổ chưa đầy đủ và đồng bộ.

 

2.5. Dự báo các yếu tố tác động đến giải quyết tốt mối quan hệ giữa đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý ở việt nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045

 

-Sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Cuộc cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang tác động đến mọi khía cạnh của đời sống hàng ngày, hàng giờ ở Việt Nam hiện nay, vì vậy, trong giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.

 

-Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, dân tộc hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Khát vọng của dân tộc Việt Nam là đất nước phồn vinh, hùng cường, thịnh vượng, người dân hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc trong khu vực và thế giới. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, trở thành chủ trương lớn của Đảng. Trong đó Đảng ta xác định phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phấn đấu đến năm 20301 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 20452 trở thành nước phát triển, thu nhập cao” .

 

Việc khơi dậy khát vọng cống hiến của đội ngũ cán bộ công chức, đảng viên, các cơ quan của Đảng, cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội đặt ra những yêu cầu đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, trong đó: (1) Các cơ quan của Đảng từ trung ương tới địa phương, các đảng bộ trong từng cơ quan đơn vị cần dựa trên chủ chương, định hướng phát triển đất nước để đưa ra tầm nhìn và sứ mệnh rõ ràng để tạo động lực cho đội ngũ, cán bộ đảng viên đồng thời truyền cảm hứng cho họ để cùng chung tay thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước; (2) Xây dựng môi trường làm việc tích cực trong từng cơ quan, đơn vị: Tạo ra một môi trường làm việc hoặc sinh hoạt nơi mà mỗi người cảm thấy mình có giá trị và có thể đóng góp là việc làm hữu ích để khơi dậy khát vọng cồng hiến cho mỗi cán bộ, đảng viên; (3) Xây dựng chuẩn mực văn hóa đề cao giá trị cống hiến: Công nhận và tôn vinh những đóng góp, dù nhỏ hay lớn, để khuyến khích tinh thần cống hiến trong mọi người.

 

2.6. Quan điểm, phương hướng giải quyết tốt mối quan hệ giữa đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ở Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045

 

-Quan điểm giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045

+ Kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội trong xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hiện có hiệu quả cao mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam.

+ Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, bản chất của Đảng, Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hiện có hiệu quả cao mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam.

+ Bảo đảm mối quan hệ hữu cơ, máu thịt giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam.

+ Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam.

 

- Phương hướng giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.

+ Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hiện có hiệu quả cao mối quan hệ với Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ ở Việt Nam.

+ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hiện có hiệu quả cao mối quan hệ với Đảng lãnh đạo và Nhà nước làm chủ ở Việt Nam.

+ Bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thực sự của Nhân dân trong mối quan hệ với Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý ở Việt Nam.

 

II. Một số đề xuất, kiến nghị

 

1.Nhận thức rõ hơn về yếu tố tác động

 

* Các yếu tố chính trị:

- Các yêu cầu mới đối với mô hình và con đường phát triển của các quốc gia, quản trị quốc gia

 

- Những yêu cầu từ chuyển đổi số quốc gia, phát triển chính phủ số đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

- Những yêu cầu từ phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

- Những yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

- Những yêu cầu sắp xếp, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

- Những yêu cầu từ giải quyết mối quan hệ giữa “thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

* Các yếu tố kinh tế

- Xu hướng và đặc trưng phổ quát của phát triển kinh tế thị trường; toàn cầu hoá, khu vực hoá;

 

- Những yêu cầu từ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam.

 

- Những yêu cầu từ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hiệu quả đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

- Những yêu cầu từ phát triển nền kinh tế số, xã hội số đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

* Các yếu tố xã hội

- Các thách thức phát triển của đất nước: nguy cơ tụt hậu; ô nhiễm môi trường; phát triển thiếu bền vững, bao trùm; chênh lệch phát triển và khoảng cách giàu nghèo;…

 

- Cách mạng công nghiệp lần thứ tư;

 

- Các vấn đề khác của thế giới: an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, phát triển bền vững…

 

- Những yêu cầu từ bảo đảm và phát triển quyền con người đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

* Các yếu tố văn hoá

- Các yêu cầu về xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

- Các yêu cầu về xây dựng văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật, văn hoá pháp quyền đối với giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

2. Kiến nghị

 

2.1. Tiếp tục nghiên cứu, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi chủ thể trong mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam.

 

Một là, tiếp tục nghiên cứu, làm rõ nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.

 

Để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trước hết phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị được thực hiện thông qua tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của Đảng, do đó phải đổi mới bộ máy của Đảng và đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.

 

Nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.

 

Đảng cầm quyền là Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chi phối toàn bộ hệ thống chính trị, vì vậy phải đổi mới phương thức lãnh đạo, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo trong hệ thống tổ chức của Đảng; đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở; tiếp theo là đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước.

 

Hai là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội.

 

Trong cấu trúc hệ thống chính trị, Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị - thành tố trung tâm của hệ thống chính trị. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được thực hiện đồng thời với đổi mới kinh tế. Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật theo các nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để Nhân dân kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, nhất là hoạt động lập pháp của Quốc hội. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của Nhân dân. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.

 

Ba là, phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của Nhân dân.

 

2.2. Xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam trong thực tiễn

 

Mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng vừa mang tính độc lập, vừa mang tính phụ thuộc lẫn nhau. Tính độc lập của Nhà nước thể hiện ở chỗ, Nhà nước trước hết là một tổ chức công quyền, Nhà nước là của Nhân dân; quyền lực của Nhà nước khác với quyền lực của Đảng; pháp luật với tư cách một phương tiện quản lý riêng có của Nhà nước gắn liền hữu cơ với Nhà nước. Tính phụ thuộc lẫn nhau thể hiện ở chỗ, Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải theo đúng định hướng chính trị của Đảng; nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước, về bản chất, là sự cụ thể hóa, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành pháp luật, chính sách và hiện thực hóa quan điểm, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Mặt khác, tính phụ thuộc lẫn nhau còn thể hiện ở chỗ, uy tín chính trị của Đảng, quyền lực chính trị của Đảng đối với xã hội chỉ được khẳng định và nâng cao khi tổ chức bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trong sạch, hoạt động có hiệu quả; và ngược lại, để có Nhà nước mạnh, Nhà nước lý tưởng, quan điểm và đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước phải đúng đắn, thích ứng với yêu cầu thực tiễn trong nước và phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.

 

Trong quan hệ với Nhân dân, Đảng với tư cách lãnh đạo, nhưng Đảng không có mục đích tự thân, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài phấn đấu cho lợi ích của Nhân dân. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhân dân là nhằm thực hiện những công việc của chính bản thân quần chúng Nhân dân, là “lấy tài dân, sức dân để làm những công việc có lợi cho dân”. Sự lãnh đạo của Đảng hướng tới đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân.

 

Đảng lãnh đạo Nhân dân không phải bằng mệnh lệnh hành chính, áp đặt, mà bằng việc thức tỉnh, thuyết phục, thu phục, động viên và tổ chức, hướng dẫn Nhân dân thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, nhằm mang lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho Nhân dân; Đảng lãnh đạo Nhân dân là nhằm định hướng, dẫn dắt và tạo động lực để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Đảng lấy uy tín của mình là một Đảng có “đạo đức và văn minh” để thuyết phục quần chúng Nhân dân đi theo và đồng tình thực hiện các cương lĩnh, đường lối của Đảng. Sức mạnh và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhân dân phụ thuộc vào mối liên hệ của Đảng với Nhân dân, phụ thuộc vào niềm tin và sự đồng tình ủng hộ của Nhân dân đối với Đảng. Đảng không thể hoàn thành sứ mệnh của mình, không thể thực hiện được mục tiêu, lý tưởng của mình, không thể giữ vững được quyền lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội, nếu không có sự tin tưởng ủng hộ của Nhân dân.

 

Về quan hệ giữa Nhân dân làm chủ với Đảng lãnh đạo. Đây là mối quan hệ giữa hai chủ thể quyền lực khác nhau. Nhân dân với tư cách chủ thể quyền lực tối cao của đất nước, Nhân dân ủy quyền cho Đảng lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước và xã hội. Nhân dân là lực lượng vật chất to lớn, không có Nhân dân, Đảng không có lực lượng để lãnh đạo; Nhân dân là cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng. Quyền làm chủ của Nhân dân tỷ lệ thuận với quyền lãnh đạo chính trị của Đảng. Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng có ý nghĩa quyết định và là thước đo uy tín, hiệu quả lãnh đạo chính trị của Đảng.

 

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thực thể quyền lực được Nhân dân ủy quyền, đó là quyền lực quản lý. Các cơ quan Nhà nước được Nhân dân trao quyền thông qua việc cử những người đại diện cho mình đảm nhiệm các công việc nhà nước. Sức mạnh của Nhà nước, kể cả sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước cũng là từ Nhân dân mà ra. Quyền lực Nhà nước là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực Nhân dân.

 

Điều lệ của Đảng là đạo luật mang tính nền tảng và là đạo luật cơ bản nhất của Đảng. Hiện nay, những quy định về quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chưa rõ ràng, dẫn đến việc không kiểm soát được quyền lực trong Đảng. Để khắc phục tình trạng này, điều mấu chốt là bổ sung, hoàn thiện Điều lệ Đảng.

 

- Quy định rõ nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương; của Bộ Chính trị; của Tổng Bí thư. Chỉ có quy định thật rõ ràng, minh bạch, công khai nhiệm vụ, quyền hạn, và trách nhiệm như nêu trên thì mới có thể kiểm soát quyền lực ở những cơ quan cao nhất của Đảng.

 

2.3. Tiến hành tổng kết, sửa đổi Hiến pháp, trên cơ sở đó rà soát sửa đổi hệ thống văn bản pháp luật, chú trọng văn bản liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, chính quyền địa phương tạo cơ sở pháp lý hoàn thiện hơn về giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Quốc hội.

 

Các cơ quan của Quốc hội (UBTVQH, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội) nâng cao “chất lượng giám sát của mình theo hướng chuyên nghiệp, có trọng tâm, trọng điểm, chuyên sâu. Để xây dựng Quốc hội hoạt động thường xuyên, liên tục, chuyên nghiệp, cần phải tăng tỷ lệ chuyên trách lên trên 40%: “Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ít nhất là bốn mươi phần trăm tổng số đại biểu Quốc hội” (theo khoản 2 Điều 23 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2020), vì hiện nay đại biểu Quốc hội khóa XV hoạt động chuyên trách mới chỉ đạt tỷ lệ 38,67%[1]; đồng thời, phải “giảm mạnh số lượng các đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm các chức vụ ở lãnh đạo, quản lý ở chính quyền địa phương”, bởi nếu không có sự phân công lao động quyền lực một cách rõ ràng sẽ dẫn đến sự “phân thân” trong vai trò của đại biểu Quốc hội: “vừa là đại biểu Quốc hội, vừa là người làm việc trong cơ quan thực hiện quyền hành pháp ở địa phương. Điều này làm cho chức năng giám sát quyền lực của các cơ quan Quốc hội đối với chính quyền địa phương khó có thể thực hiện được một cách hiệu quả”[2].

 

Cần đổi mới bầu cử đại biểu Quốc hội nhằm bảo đảm đại biểu Quốc hội thực sự là người đại diện tiêu biểu, có kiến thức, có năng lực, tận tụy phục vụ nhân dân. Hạn chế đại biểu từ khối hành pháp nhằm bảo đảm chất lượng hoạt động cũng như tính khách quan trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Cần tăng cường số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách, dần dần tiến tới toàn bộ đại biểu Quốc hội phải hoạt động chuyên trách. Hoạt động đại biểu trở thành một nghề. Điều này góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp, trình độ chuyên môn của đại biểu Quốc hội.

 

Tăng cường số kỳ họp của Quốc hội trong một năm từ hai kỳ thành 3 kỳ, 4 kỳ. Về lâu dài, cần chuyển Quốc hội bán chuyên thành Quốc hội chuyên nghiệp hoạt động thường xuyên. Việc Quốc hội sang hoạt động thường xuyên sẽ góp phần nâng cao vai trò của các ủy ban của Quốc hội, bảo đảm cho các ủy ban của Quốc hội là những cỗ máy lập pháp hoạt động thường xuyên, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội.

 

Quốc hội nghiên cứu để xây dựng thiết chế thanh tra quốc hội nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền hành pháp, khắc phục tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” như mô hình thanh tra nhà nước hiện nay. Đây là “cơ quan giám sát chuyên trách trực thuộc Quốc hội, với nhiệm vụ chính là giúp Quốc hội tiến hành các cuộc điều tra làm rõ trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý đối với những quan chức cấp cao ở Trung ương và trong bộ máy hành chính khi họ có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc các chuẩn mực đạo đức công vụ và những vụ việc gây bức xúc trong dư luận; để khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố và truy tố những đối tượng này trước Tòa án tối cao”[3]. Để bảo đảm thanh tra quốc hội hoạt động hiệu quả cần trang bị cho cơ quan này những thẩm quyền đặc biệt như: “có quyền tuyệt đối trong việc tiếp cận mọi thông tin của nhà nước, buộc các cơ quan có liên quan phải hợp tác để giải quyết vấn đề, tiến hành các biện pháp để ngăn chặn hành vi vi phạm hoặc phục vụ cho công tác thanh tra, điều tra; được áp dụng các biện pháp đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ; có quyền điều tra, khởi tố các vụ án hành chính và tham nhũng. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo, cơ quan này phải có trách nhiệm hướng dẫn và giúp đỡ những người khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”[4].

 

Kiểm toán nhà nước cần tiếp tục phát huy vai trò kiểm soát quyền hành pháp thông qua nâng cao chất lượng nhằm kiểm soát chặt chẽ hoạt động thu chi ngân sách nhà nước, quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của các chủ thể thực hiện quyền hành pháp; tăng cường kiểm toán chuyên đề giúp cơ quan kiểm toán “đi đến cùng” vấn đề xã hội quan tâm, người dân bức xúc để tìm rõ nguyên nhân, quy rõ trách nhiệm, làm cơ sở để cơ quan chức năng xử lý những sai phạm của cá nhân, tổ chức. Trong đó, Kiểm toán nhà nước tiếp tục ưu tiên các chuyên đề kiểm toán có quy mô lớn, phạm vi rộng; lựa chọn chủ đề, chuyên đề liên quan đến các vấn đề “nóng” tại địa phương để kiểm toán nhằm đánh giá toàn diện công tác quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, từ đó đi sâu phân tích, đánh giá hiệu quả chính sách kinh tế - tài chính để giúp Quốc hội, Chính phủ có cơ sở hoàn thiện chính sách, khoản lấp các lỗ hổng trong cơ chế, chính sách về tài chính công và quản lý công sản.

 

Xây dựng cơ quan bảo vệ Hiến pháp chuyên trách. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XII, XIII đều đề ra chủ trương “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Theo tinh thần đó, Hiến pháp và các luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở nước ta đã hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của VBQPPL. Tuy nhiên lại chưa có thiết chế riêng để giám sát tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành. Trong khi đó, hoạt động lập pháp là chức năng quan trọng hàng đầu của Quốc hội. Giám sát hoạt động của Quốc hội trước tiên là giám sát hoạt động lập pháp, tức là giám sát các đạo luật do Quốc hội ban hành xem có vi hiến hay không. Mục đích của giám sát Hiến pháp là làm cho các đạo luật và các điều ước quốc tế do Quốc hội phê chuẩn không trái với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất của pháp luật và quyền con người, quyền công dân. Thiết chế đó có thể là cơ chế tập trung như Tòa Hiến pháp (hay Ủy ban giám sát Hiến pháp) do Quốc hội thành lập nhưng độc lập với Quốc hội, hoặc là cơ chế phi tập trung (có thể xem xét giao Tòa án tối cao đảm nhận nhiệm vụ này) nhằm kiểm tra tính hợp hiến của một đạo luật trước khi Chủ tịch nước công bố hoặc sau khi các đạo luật đưa vào áp dụng mà phát hiện có vi phạm Hiến pháp thì thiết chế này có quyền phán quyết về vi phạm đó. Tòa án Hiến pháp hay Ủy ban giám sát Hiến pháp (hoặc Tòa án tối cao) khi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp chính là kiểm soát của tư pháp đối với lập pháp. Thiết chế này cũng cần xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các VBQPPL dưới luật để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

 

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Chính phủ.

 

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Thích ứng với yêu cầu phát triển mới của đất nước trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số. Phục vụ tốt hơn người dân và doanh nghiệp theo phương châm "Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ". Chính phủ cần “thực hiện nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cơ quan có liên quan phối hợp thực hiện; từng bước xóa bỏ cơ chế phối hợp liên ngành, gắn với việc xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu” . Điều này tạo cơ chế pháp lý rõ ràng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, giúp cơ quan chuyên trách dễ dàng trong việc kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc thực hiện quyền hạn của các chủ thể này, qua đó góp phần “tăng cường kiểm soát quyền lực bên trong mỗi cơ quan và giữa các cơ quan nhà nước, giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa các cơ quan trong cùng một cấp chính quyền” .

Chính phủ cần tiếp tục thực hiện việc tinh gọn đầu mối, giảm trung gian. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ, ngành, tránh chồng chéo. Phân định rõ thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tút ngắn, đơn giản hóa quy trình, thủ tục hành chính. Ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ số, chính quyền số. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức: Tuyển dụng, sử dụng và đánh giá công chức theo vị trí việc làm và kết quả đầu ra; Đẩy mạnh tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ và văn hóa liêm chính trong đội ngũ cán bộ.

 

Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân

 

Đẩy mạnh cải cách thể chế tư pháp theo hướng hoàn thiện việc sắp xếp bộ máy tư pháp, phân rõ chức năng, quyền hạn và chế độ quản lý của cơ quan tư pháp; bảo đảm cho cơ quan toà án xét xử và cơ quan kiểm sát căn cứ vào pháp luật thực hiện quyền hạn của mình một cách độc lập, công khai và minh bạch; tăng cường công tác giám sát tư pháp, trừng trị những biểu hiện tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp.

 

Tiếp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của toà án theo chủ trương mới của Đảng và Nhà nước, trong đó tổ chức cơ sở đảng trong toà án được thiết kế theo ngành dọc; xây dựng mô hình tổ chức hệ thống Tòa án theo hướng bỏ Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt. Theo đó, mô hình tổ chức hệ thống Tòa án gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tòa án nhân dân khu vực; Tòa án quân sự trung ương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực.

 

Tòa án nhân dân tối cao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn giám đốc việc xét xử của các Tòa án; tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; phát triển án lệ,…; Thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật các Tòa án nhân dân; Thực hiện nhiệm vụ phúc thẩm các vụ án hình sự mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị.

 

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn: Thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực; Thực hiện nhiệm vụ phúc thẩm vụ án, vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực bị kháng cáo, kháng nghị; Thực hiện nhiệm vụ sơ thẩm vụ án hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt từ trên 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; vụ án hình sự nghiêm trọng, phức tạp khác. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm Ủy ban Thẩm phán, các Tòa chuyên trách, bộ máy giúp việc.

 

Tòa án nhân dân khu vực: Cơ cấu lại các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương thành Tòa án nhân dân khu vực.

 

Nghiên cứu giảm số lượng hội thẩm trong hội đồng xét xử sơ thẩm. Nếu có hội thẩm tham gia thì chỉ cần 01 người (trong Hội đồng xét xử có 3 thành viên) hoặc 2 người (trong Hội đồng xét xử có 5 thành viên), còn lại là thẩm phán chuyên nghiệp. Điều đó đã có trong thực tế khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 (Điều 17) và Pháp lệnh giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 (Điều 16) quy định trong Hội đồng xét xử chỉ có 01 Hội thẩm và có 2 thẩm phán.

 

Thứ tư, đối với chính quyền địa phương

 

Xây dựng mô hình chính quyền địa phương ở cấp tỉnh và cấp xã phải gồm HĐND và UBND; đơn vị hành chính đặc biệt chỉ có uỷ ban hành chính (uỷ ban hành chính đặc khu).

Quy định rõ hơn về tổ chức và hoạt động của HĐND xã. Thực tế ở nhiều địa phương cho thấy, HĐND cấp cấp xã hoạt động còn hình thức, kém hiệu quả và thường bị UBND xã cùng cấp chi phối, vì thế cần quy định thêm thẩm quyền cho HĐND, trong đó thực hiện đồng bộ mô hình Bí thư Đảng uỷ kiêm Chủ tịch HĐND xã, việc thực hiện mô hình này sẽ đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND xã, sẽ gắn được chức năng kiểm tra, kiểm soát của Đảng với chức năng giám sát của HĐND xã, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả của tổ chức Đảng và HĐND trên địa bàn xã.

 

Hoàn thiện cơ sở pháp lý để nhân dân trực tiếp bầu Chủ tịch UBND cấp xã. Việc mở rộng và phát huy dân chủ trực tiếp là xu hướng khách quan của tiến bộ xã hội, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi nước ta đang trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Thực tiễn đã khẳng định tính tất yếu của công cuộc xây dựng CNXH, vì mục tiêu của CNXH không gì khác hơn là giành dân chủ cho mọi tầng lớp nhân dân, khẳng định quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Dân chủ trực tiếp khơi nguồn sáng tạo về trí tuệ và huy động sức mạnh to lớn về vật chất và sức lao động của toàn xã hội cho sự phát triển của đất nước. Từ đó đặt ra những yêu cầu mới về mở rộng dân chủ XHCN. Chính vì thế, việc nhân dân trực tiếp bầu và bãi nhiệm người đứng đầu cơ quan chính cấp xã (Cấp cơ sở) là hướng đi phù hợp với xu thế mở rộng dân chủ trực tiếp hiện nay. Thực tiễn trên thế giới, cơ chế dân bầu trực tiếp Chủ tịch UBND cấp cơ sở hiện đã là xu hướng phổ biến trên thế giới.

 

Thứ năm, về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam

 

Bổ sung thêm “dân quyết” trong cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” để hình thành cơ chế “dân biết, dân bàn, dân quyết, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

 

Rà soát sửa đổi chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp; cơ quan chuyên trách của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp; Xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp...

 

Thứ sáu, tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng.

 

Tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng là một yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn, minh bạch, hiệu quả, phòng chống tha hóa quyền lực và suy thoái tư tưởng chính trị. Xây dựng, bổ sung các quy định chặt chẽ về trách nhiệm, thẩm quyền, giới hạn quyền lực của các chức danh lãnh đạo trong Đảng. Quy định rõ cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm đối với các hành vi lạm quyền, lợi dụng chức vụ. Nâng cao vai trò của các cơ quan kiểm tra, giám sát của Đảng như Ủy ban Kiểm tra các cấp. Áp dụng công nghệ thông tin để giám sát hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cá nhân giữ chức vụ trong Đảng. Phát huy vai trò giám sát của đảng viên, tổ chức đảng cơ sở; tạo điều kiện để đảng viên phản ánh, góp ý, tố giác tiêu cực. Phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí trong việc phản ánh tiêu cực, hành vi lạm quyền. Bảo vệ người tố cáo, khuyến khích nhân dân tham gia phát hiện, phản ánh các biểu hiện vi phạm đạo đức, nguyên tắc tổ chức của Đảng...

 

Thứ bảy, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

Quán triệt sâu sắc và thực hành triệt để quan điểm Dân là gốc. Phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Đẩy nhanh hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới, trong đó thể chế chính trị giữ vai trò then chốt, định hướng; thể chế kinh tế là trọng tâm; thể chế trên các lĩnh vực khác là quan trọng. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, mở rộng không gian phát triển; thực hiện mô hình hệ thống chính trị 3 cấp, chính quyền địa phương 2 cấp.

 

Thứ tám, tiến hành xem xét sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị trong kỷ nguyên mới.

 

PV (Nguồn: Theo Báo cáo chắt lọc kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.12/21-25)

 


[1] Lê Anh: Tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách - hướng tới Quốc hội hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=83260, ngày 17-12-2023.

[2] Trương Hồ Hải, Đặng Viết Đạt: Hoàn thiện cơ chế pháp lý phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 2-2021, tr.119.

[3] Đặng Viết Đạt: Kiểm soát quyền hành pháp ở địa phương Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.108.

[4] Đặng Viết Đạt: Kiểm soát quyền hành pháp ở địa phương Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội, tr.108.

 


 

 

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết