Thứ Sáu, ngày 05 tháng 12 năm 2025

Góp ý Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Cần tiếp tục giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội

Ngày phát hành: 05/12/2025 Lượt xem 23

 

Quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội là mối quan hệ lớn, cơ bản, đòi hỏi phải giải quyết hài hòa trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam luôn coi việc nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi. Những năm đổi mới cho thấy, khi ba “trụ cột” này được kết hợp hài hòa, nền kinh tế không chỉ tăng trưởng nhanh mà còn giữ được ổn định, gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường niềm tin và đồng thuận xã hội. Chính vì vậy, Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng tiếp tục nhấn mạnh việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ này. Cụ thể Dự thảo nêu: “giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội, khẳng định vai trò quyết định của thị trường trong huy động và phân bổ các nguồn lực cho phát triển.

 

 

Việc tiếp tục nhấn mạnh mối quan hệ này, đặc biệt khẳng định vai trò của thị trường trong huy động, phân bổ các nguồn lực cho phát triển là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với quy luật phát triển của kinh tế thị trường. Điều này thể hiện trên các phương diện chính sau:

 

1. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội có vai trò rất quan trọng đối với phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế.

 

Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ góp phần tạo sự vận hành hài hòa, ổn định và bền vững của nền kinh tế. Trong cơ chế thị trường, thị trường giữ vai trò quyết định trong phân bổ nguồn lực thông qua tín hiệu giá cả và cạnh tranh. Khi thị trường vận hành minh bạch, có trật tự, các nguồn lực sẽ được dịch chuyển đến nơi có hiệu quả sử dụng cao nhất, góp phần nâng cao năng suất và tạo động lực tăng trưởng. Tuy nhiên, bản thân thị trường luôn tồn tại những khiếm khuyết như độc quyền, thông tin bất đối xứng, các tác động ngoại vi tiêu cực hay xu hướng phân hóa xã hội. Vì vậy, Nhà nước phải đóng vai trò kiến tạo phát triển và điều tiết vĩ mô. Nhà nước lập và thực thi khung pháp lý minh bạch, ổn định; bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; bảo vệ quyền tài sản; can thiệp khi thị trường thất bại; định hướng ưu tiên phát triển phù hợp mục tiêu dài hạn của quốc gia. Nhà nước không thể can thiệp hành chính quá mức làm méo mó tín hiệu thị trường, nhưng cũng không thể “buông lỏng” để thị trường tự phát, dẫn đến bất ổn và xung đột lợi ích. Bên cạnh đó, xã hội - bao gồm người dân, cộng đồng, các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp, báo chí, truyền thông - giữ vai trò giám sát, phản biện, kiểm soát quyền lực và củng cố các chuẩn mực đạo đức trong hoạt động kinh tế. Xã hội giúp phát hiện, cảnh báo những lệch lạc, lạm dụng trong quản lý và kinh doanh; bảo vệ nhóm yếu thế; kịp thời kiến nghị hoàn thiện chính sách. Khi xã hội được tạo điều kiện tham gia quản trị, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của Nhà nước và doanh nghiệp đều được nâng lên.

 

Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực. Hiệu quả phân bổ nguồn lực là yếu tố then chốt quyết định năng suất, tăng trưởng và tính bền vững của nền kinh tế. Trong kinh tế thị trường, nguồn lực chủ yếu được phân bổ thông qua giá cả và cạnh tranh; do đó, thị trường là “bàn tay vô hình” đưa vốn, lao động, đất đai, công nghệ đến nơi có hiệu suất cao nhất. Tuy nhiên, nếu thiếu thể chế và thiết kế chính sách đúng đắn, thị trường dễ rơi vào độc quyền, “xin - cho”, thao túng, gây méo mó phân bổ nguồn lực. Trong bối cảnh đó, Nhà nước có vai trò bảo đảm luật chơi minh bạch và công bằng. Thông qua pháp luật, chính sách và năng lực thực thi, Nhà nước bảo vệ quyền tài sản, chống độc quyền, kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, giảm chi phí giao dịch, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh. Khi Nhà nước chuyển mạnh sang vai trò kiến tạo, khuyến khích đổi mới sáng tạo, khơi thông các nguồn lực xã hội, thì nguồn lực tư nhân và xã hội mới phát huy đầy đủ. Cùng với đó, xã hội tham gia phản biện chính sách, giám sát thực thi, phát hiện các bất cập trong phân bổ nguồn lực, thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và quản lý bền vững tài nguyên. Nhờ đó, các lệch lạc, lãng phí, thất thoát, lợi ích nhóm bị hạn chế.

 

Thứ ba, giải quyết tốt mối quan hệ này chính là cơ chế bảo đảm gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội là định hướng cơ bản của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thị trường có vai trò thúc đẩy tăng trưởng thông qua cơ chế cạnh tranh, sáng tạo và phân bổ nguồn lực hiệu quả, từ đó, mở rộng sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, nếu phó mặc cho thị trường, nguy cơ gia tăng bất bình đẳng, phân hóa giàu - nghèo là điều khó tránh khỏi. Do đó, Nhà nước phải chủ động thiết kế và vận hành hệ thống chính sách phân phối và phân phối lại. Thông qua chính sách thuế, chi tiêu công, an sinh xã hội, trợ giúp người yếu thế, đầu tư vào giáo dục, y tế, phúc lợi cơ bản… Nhà nước bảo đảm mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận dịch vụ thiết yếu, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, nhóm dân cư. Đồng thời, Nhà nước duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo vệ tiền lương thực tế của người lao động. Xã hội, thông qua các tổ chức đoàn thể, cộng đồng, tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ, báo chí, mạng xã hội… vừa tham gia giám sát thực thi chính sách, vừa tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ, tương trợ, từ thiện, khuyến học, chăm lo nhóm yếu thế. Tiếng nói phản biện xã hội giúp chính sách phát triển mang tính nhân văn, thực chất, hạn chế mặt trái của thị trường và những sai lệch trong tổ chức thực hiện.

 

Thứ tư, giải quyết tốt mối quan hệ này thực chất cũng là phát huy năng lực của các thành tố, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Năng lực cạnh tranh quốc gia ngày càng phụ thuộc không chỉ vào chất lượng điều hành kinh tế, mà còn vào hiệu quả vận hành của thị trường và sức mạnh nội sinh của xã hội. Thị trường là môi trường thúc đẩy cạnh tranh, đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số; doanh nghiệp buộc phải nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ để tồn tại và phát triển. Một thị trường minh bạch, cạnh tranh bình đẳng sẽ hình thành hệ sinh thái kinh doanh năng động, qua đó trực tiếp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nhà nước giữ vai trò tạo dựng nền tảng cạnh tranh thông qua thể chế, hạ tầng và các yếu tố nền tảng khác. Đó là cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng quản trị công; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại; ưu tiên giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao; phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, xây dựng chính phủ số, kinh tế số. Khi thể chế thông thoáng, chi phí tuân thủ giảm, niềm tin của nhà đầu tư tăng, cả doanh nghiệp trong nước lẫn FDI đều có động lực gắn bó, mở rộng đầu tư. Xã hội, với hệ thống các tổ chức nghề nghiệp, viện trường, trung tâm nghiên cứu, báo chí, cộng đồng doanh nghiệp, lực lượng trí thức,… tạo nên “nguồn lực mềm” cho cạnh tranh. Văn hóa học hỏi, tinh thần khởi nghiệp, đạo đức kinh doanh, ý thức thượng tôn pháp luật, năng lực liên kết cộng đồng… là những yếu tố xã hội quan trọng góp phần nâng cao sức cạnh tranh, hình ảnh và uy tín quốc gia.

 

Thứ năm, giải quyết hài hòa mối quan hệ này chính là tạo cơ sở bảo đảm an sinh và ổn định xã hội. An sinh và ổn định xã hội là nền tảng không thể thiếu của phát triển bền vững. Thị trường tạo ra việc làm, thu nhập, cơ hội làm ăn cho đại bộ phận người dân. Khi doanh nghiệp phát triển, môi trường kinh doanh thuận lợi, người dân có sinh kế vững vàng, đời sống vật chất được cải thiện, cơ sở an sinh “tự nhiên” của xã hội được củng cố. Tuy nhiên, cơ chế thị trường cũng làm nảy sinh nhiều rủi ro về thất nghiệp, thu nhập bấp bênh, đứt gãy sinh kế khi có các cú sốc kinh tế, dịch bệnh, thiên tai. Vì thế, Nhà nước phải xây dựng và vận hành hệ thống an sinh xã hội đa tầng, bao trùm và bền vững, bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội, chính sách giảm nghèo bền vững, các chương trình mục tiêu cho vùng khó khăn, nhóm yếu thế. Đồng thời, Nhà nước cần chủ động can thiệp khi thị trường biến động mạnh, triển khai các gói hỗ trợ phù hợp để tránh “sốc” xã hội, ngăn ngừa đổ vỡ niềm tin. Xã hội, với truyền thống tương thân tương ái và mạng lưới các tổ chức đoàn thể, tổ chức cộng đồng, quỹ xã hội - từ thiện, đóng vai trò bổ sung và lan tỏa các giá trị nhân văn. Các hoạt động cứu trợ, hỗ trợ khẩn cấp, chăm lo người nghèo, người yếu thế, khuyến học, khuyến tài,…góp phần lấp đầy những “khoảng trống” mà Nhà nước và thị trường chưa bao phủ, đồng thời làm tăng tính gắn kết, cố kết xã hội.

 

2. Những kết quả quan trọng trong giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội trong những năm qua

 

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, khẳng định vai trò “Nhà nước kiến tạo phát triển”. Từ sau Hiến pháp năm 1992 và đặc biệt là Hiến pháp 2013, Việt Nam từng bước thừa nhận và bảo hộ đầy đủ hơn quyền sở hữu, quyền kinh doanh hợp pháp, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp, đầu tư, đất đai, ngân sách, cạnh tranh, giá, bảo hiểm, an sinh xã hội… được sửa đổi, bổ sung nhiều lần theo hướng thu hẹp dần cơ chế “xin - cho”, chuyển sang cơ chế đăng ký - minh bạch - hậu kiểm; mở rộng quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; khẳng định rõ nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật. Kết quả là môi trường kinh doanh cải thiện rõ rệt. Số lượng doanh nghiệp tăng rất nhanh, nếu đầu những năm 1990 mới chỉ có vài chục nghìn doanh nghiệp, thì đến những năm gần đây, Việt Nam đã có hàng trăm nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó khu vực tư nhân trong nước chiếm đa số. Điều này cho thấy môi trường thể chế đã tạo thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp tham gia thị trường. 

 

Nhờ đổi mới tư duy từ “Nhà nước bao cấp, can thiệp trực tiếp” sang “Nhà nước kiến tạo, điều tiết vĩ mô”, Việt Nam đã duy trì khá tốt ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh biến động phức tạp của kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm duy trì ở mức tương đối cao so với mặt bằng khu vực, bình quân giai đoạn 2021-2025 là 6,3%; lạm phát nói chung được kiểm soát, tránh được các cú sốc siêu lạm phát như thời kỳ trước đổi mới; nợ công được quản lý trong ngưỡng an toàn theo các chuẩn mực quốc tế; dự trữ ngoại hối tăng lên, tạo “vùng đệm” cho chống chịu rủi ro. Những kết quả đó phản ánh vai trò điều tiết, dẫn dắt của Nhà nước trong việc thiết kế và điều hành chính sách tài khóa - tiền tệ, chính sách giá, và các công cụ quản lý vĩ mô khác, đồng thời vẫn dành dư địa cho thị trường vận hành linh hoạt.

 

Thứ hai, phát triển thị trường và khu vực tư nhân, nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ Nhà nước - thị trường đã góp phần giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất và hình thành khu vực kinh tế tư nhân năng động. Nhiều nghiên cứu và báo cáo chính thức cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân (bao gồm hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần không có vốn chi phối của Nhà nước…) đã đóng góp một tỷ trọng lớn trong GDP (thường khoảng trên dưới 40%), và ngày càng gia tăng về quy mô. Khu vực này tạo ra phần lớn việc làm mới cho xã hội, hấp thụ hàng triệu lao động mỗi năm, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế biến - chế tạo, dịch vụ, thương mại, xây dựng, du lịch…. Một số tập đoàn tư nhân lớn đã hình thành và có vai trò dẫn dắt trong các ngành như bất động sản, hàng không, bán lẻ, viễn thông, nông nghiệp công nghệ cao. Đây là minh chứng sinh động cho việc tập trung khu vực nhà nước sang việc tôn trọng và khuyến khích khu vực tư nhân, để thị trường thực sự trở thành động lực phân bổ nguồn lực, với Nhà nước giữ vai trò “trọng tài”, “thiết kế luật chơi”.

 

Thứ ba, phát triển các loại thị trường, như: thị trường hàng hóa, vốn, lao động, khoa học - công nghệ. Hệ thống bán lẻ, siêu thị, thương mại điện tử phát triển mạnh, cạnh tranh gay gắt hơn, người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn. Bên cạnh tín dụng ngân hàng, thị trường chứng khoán, trái phiếu, thị trường bất động sản… từng bước mở rộng, tạo kênh huy động vốn đa dạng cho doanh nghiệp. Việc dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ diễn ra mạnh mẽ, góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội. Thị trường khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo bước đầu hình thành, với sự tham gia của doanh nghiệp, viện trường, quỹ đầu tư. Mặc dù còn nhiều hạn chế, song việc phát triển các loại thị trường này cho thấy vai trò của thị trường trong phân bổ nguồn lực ngày càng được phát huy, trong khuôn khổ pháp luật do Nhà nước ban hành và chịu sự giám sát của xã hội.

 

Thứ tư, ngày càng có sự gắn bó giữa tăng trưởng với tiến bộ, công bằng xã hội và an sinh xã hội. Đây là một trong những kết quả nổi bật khi giải quyết mối quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội tại Việt Nam. Nhờ tăng trưởng kinh tế kết hợp với chính sách phân phối và phân phối lại của Nhà nước, Việt Nam là một trong những nước được quốc tế đánh giá cao về thành tựu giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 4,4% năm 2021 xuống còn 1,3% năm 2025. Thu nhập bình quân đầu người tăng lên nhiều lần so với thời kỳ đầu đổi mới, đưa Việt Nam từ nhóm nước có thu nhập rất thấp trở thành nước có thu nhập trung bình cao với GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD. Kết quả này thể hiện vai trò của thị trường trong tạo việc làm, thu nhập; vai trò của Nhà nước trong ban hành chính sách giảm nghèo, đầu tư hạ tầng vùng khó khăn, hỗ trợ tín dụng ưu đãi, dạy nghề, y tế, giáo dục cho người nghèo; đồng thời vai trò của xã hội trong các hoạt động từ thiện, quỹ khuyến học, phong trào “Ngày vì người nghèo”, các chương trình an sinh cộng đồng. Bên cạnh đó an sinh xã hội và dịch vụ công cơ bản được mở rộng. Diện bao phủ bảo hiểm y tế, với tỷ lệ người dân có thẻ bảo hiểm y tế ngày càng tăng, hiện chiếm đại đa số dân số; phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội cho người yếu thế; đầu tư mạnh vào giáo dục phổ cập, y tế cơ sở, hạ tầng thiết yếu cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Trong quá trình này, thị trường dịch vụ (y tế, giáo dục tư, dịch vụ chăm sóc…) cũng phát triển, tạo sự lựa chọn đa dạng hơn cho người dân. Cùng lúc đó, các tổ chức xã hội, các tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ, quỹ xã hội – từ thiện tham gia tích cực, hỗ trợ Nhà nước chăm lo nhóm yếu thế.

 

Thứ năm, năng lực cạnh tranh và hội nhập được nâng cao, gắn với vai trò của xã hội và truyền thông. Trong quá trình đổi mới, Việt Nam chủ động tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương, gia nhập WTO, ký kết nhiều FTA thế hệ mới. Kết quả là, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng rất nhanh, nhiều năm đạt mức rất cao so với quy mô nền kinh tế; Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, đặc biệt trong các ngành điện tử, dệt may, da giày, nông sản chế biến.

 

Nhà nước mở cửa thị trường, đàm phán FTA, cải cách thể chế theo cam kết quốc tế. Thị trường và doanh nghiệp tận dụng cơ hội để mở rộng sản xuất, nâng chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu. Xã hội - đặc biệt là hệ thống hiệp hội ngành nghề, viện nghiên cứu, báo chí - đóng vai trò truyền thông, cung cấp thông tin, tư vấn chính sách, bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp và người lao động trong tiến trình hội nhập.

 

Vai trò ngày càng rõ của xã hội trong giám sát, phản biện, bảo vệ lợi ích công. Trong nhiều vụ việc liên quan đến môi trường, tài nguyên, dự án BOT giao thông, quy hoạch đô thị… có thể thấy vai trò giám sát xã hội ngày càng nổi bật. Người dân, báo chí, mạng xã hội, các tổ chức xã hội đã tham gia phản ánh, lên tiếng, kiến nghị điều chỉnh các chính sách hoặc dự án có dấu hiệu bất hợp lý, ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng. Cơ chế tiếp dân, đối thoại, tham vấn được chú trọng hơn, buộc các cơ quan nhà nước, chủ đầu tư phải lắng nghe, giải trình, điều chỉnh một số nội dung (giảm phí, điều chỉnh vị trí trạm thu phí BOT, xem xét lại tác động môi trường…).

 

3. Một số hạn chế và vấn đề đặt ra trong giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội

 

Trong quá trình đổi mới và phát triển, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng trong giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém và những thách thức mới, phức tạp đặt ra.

 

a) Về hạn chế

 

- Về hạn chế trong giải quyết mối quan hệ này, nhìn từ phía vai trò nhà nước có thể thấy: Một là, chức năng quản lý của Nhà nước vẫn còn tình trạng “vừa làm trọng tài, vừa làm người chơi”. Ở nhiều lĩnh vực, Nhà nước vẫn can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất - kinh doanh thông qua doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn, tổng công ty; trong khi đó chức năng kiến tạo, định hướng, xây dựng thể chế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng lại chưa thật sự phát huy đầy đủ. Điều này dẫn đến xung đột lợi ích tiềm ẩn, dễ nảy sinh cơ chế “xin - cho”, đặc quyền, đặc lợi, làm méo mó tín hiệu thị trường. Hai là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đồng bộ, chất lượng xây dựng và thực thi pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, thiếu ổn định, hay thay đổi, làm tăng chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp và người dân. Nhiều quy định còn mang nặng tư duy quản lý “tiền kiểm”, can thiệp vi mô, trong khi cơ chế “hậu kiểm”, giám sát tuân thủ, xử lý vi phạm chưa đủ mạnh. Điều này làm hạn chế tính năng động, sáng tạo của thị trường và xã hội. Ba là, năng lực quản trị công, điều hành chính sách còn bất cập. Ở không ít nơi vẫn tồn tại tình trạng kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương thiếu chặt chẽ, dẫn đến cát cứ, “lợi ích ngành”, “lợi ích địa phương”. Quá trình tổ chức thực thi chính sách nhiều khi chậm, thiếu thống nhất, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước và làm suy giảm niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào thể chế.

 

- Hạn chế từ phía thị trường và khu vực doanh nghiệp: Một là, thị trường phát triển chưa thật sự đầy đủ, đồng bộ và minh bạch. Nhiều loại thị trường quan trọng như thị trường vốn dài hạn, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường lao động chất lượng cao, thị trường bất động sản… vận hành chưa thông suốt, thiếu công khai, minh bạch, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền, liên kết “ngầm” giữa một số doanh nghiệp với bộ phận cán bộ công quyền, “sân sau”, “lợi ích nhóm” vẫn tồn tại, gây tổn hại đến hiệu quả phân bổ nguồn lực. Hai là, khu vực kinh tế tư nhân - một động lực được Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV khẳng định là quan trọng nhất của nền kinh tế - vẫn còn quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh hạn chế, dễ tổn thương trước biến động. Nhiều doanh nghiệp thiếu tầm nhìn chiến lược, ít đầu tư bài bản cho khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, quản trị hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao. Tâm lý kinh doanh “ngắn hạn”, thiên về tận dụng kẽ hở chính sách, thậm chí lợi dụng lỏng lẻo trong quản lý nhà nước vẫn còn tồn tại ở một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp. Điều này làm suy giảm khả năng vươn lên, tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

 

Ba là, đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của không ít doanh nghiệp chưa được coi trọng đúng mức. Một số doanh nghiệp còn vi phạm pháp luật về thuế, môi trường, lao động; chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá, gây bức xúc xã hội và ảnh hưởng đến niềm tin đối với cơ chế thị trường. Các chuẩn mực về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, quản trị doanh nghiệp tốt mới chỉ được chú ý ở một bộ phận ít doanh nghiệp lớn, chưa lan tỏa mạnh trong toàn bộ khu vực tư nhân.

 

- Hạn chế trong phát huy vai trò của xã hội có thể nhận thấy: Một là, vai trò của xã hội, đặc biệt là các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các thiết chế tự quản cộng đồng trong tham gia hoạch định, phản biện và giám sát chính sách chưa được phát huy đầy đủ. Nhiều chủ trương đã nhấn mạnh vai trò “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nhưng trên thực tế, cơ chế và điều kiện để người dân, các tổ chức xã hội thực hiện vai trò này vẫn còn hạn chế, thông tin chưa đầy đủ, kênh tham vấn chưa rộng mở, năng lực phản biện còn yếu. Hai là, mức độ liên kết, hợp tác, tin cậy giữa Nhà nước - doanh nghiệp - các tổ chức xã hội còn chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Trong nhiều trường hợp, xã hội mới đóng vai trò “phản ứng” sau khi chính sách đã ban hành, chưa được tham gia sâu từ khâu xây dựng chính sách. Một bộ phận người dân còn tâm lý trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, thiếu chủ động tìm kiếm cơ hội trên thị trường và tham gia vào các hoạt động xã hội. Ba là, năng lực, tính chuyên nghiệp của một phân khúc trong hệ thống báo chí, truyền thông, mạng xã hội cũng còn hạn chế, dẫn đến tình trạng thông tin thiếu kiểm chứng, thiên lệch, giật gân, cực đoan. Điều này có thể làm méo mó nhận thức xã hội về vai trò của Nhà nước, thị trường, tạo ra tâm lý hoài nghi, mất lòng tin hoặc cực đoan hóa vấn đề, gây khó khăn cho việc xây dựng đồng thuận xã hội trong hoạch định và thực thi chính sách.

 

 b) Một số thách thức

 

Trong bối cảnh mới, để tăng trưởng hai con số, việc giải quyết tốt mối quan hệ này đứng trước nhiều bài toán khó. Chẳng hạn, làm thế nào để Nhà nước thực sự chuyển mạnh sang vai trò kiến tạo phát triển, phục vụ người dân và doanh nghiệp, thay cho tư duy quản lý bao cấp, can thiệp hành chính trực tiếp? Hay làm thế nào để thị trường vận hành đầy đủ, minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, song vẫn bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, không để ai bị bỏ lại phía sau? Cũng như, để xã hội - với hạt nhân là người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, cộng đồng - được trao đủ quyền, đủ thông tin và đủ năng lực để tham gia thực chất vào quá trình xây dựng, thực thi, giám sát chính sách?

 

Trả lời những câu hỏi đó đòi hỏi không chỉ điều chỉnh, hoàn thiện thể chế, mà còn là sự chuyển biến mạnh mẽ về tư duy phát triển, về phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức quản lý của Nhà nước, văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp và ý thức công dân, trách nhiệm xã hội của mỗi người. Đó chính là thách thức đồng thời cũng là cơ hội để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện mô hình phát triển, xây dựng một mối quan hệ hài hòa, năng động giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong giai đoạn phát triển mới.

 

 

4. Đề xuất, góp ý

 

Để tiếp tục giải quyết đúng đắn mối quan hệ này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một trong những vấn đề quan trọng là phải xác định đúng vai trò của các thành tố.

 

Về vai trò của thị trường, Đại hội XIII, xác định: “Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém”[1]. Đến Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV đã khẳng định thị trường có vai trò quyết định trong huy động và phân bổ các nguồn lực cho phát triển. Đây là luận điểm then chốt và là bước tiến mới trong nhận thức lý luận của Đảng ta. Về lý luận và thực tiễn phát triển của các nền kinh tế thị trường trên thế giới đều khẳng định vai trò quyết định của thị trường trong huy động và phân bổ các nguồn lực cho phát triển. Nơi nào sử dụng nguồn lực có hiệu quả, thị trường sẽ điều tiết dòng chảy tới, ngược lại nơi nào sử dụng kém, lợi nhuận không cao, nguồn lực tất yếu sẽ không hướng tới. Khẳng định vai trò quyết định của thị trường đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các chủ thể kinh tế, đồng thời giảm thiểu sự can thiệp hành chính trực tiếp vào cơ chế vận hành khách quan của giá cả, của thị trường, của lợi ích và rủi ro.

 

Đi liền với khẳng định vai trò thị trường, Dự thảo văn kiện nên chăng xác định rõ hơn vai trò của thành tố xã hội, trên cơ sở đó thể chế hoá thành luật và các quy định. Hiện chúng ta chưa có luật về hội, cho nên hoạt động của các tổ chức xã hội còn hạn chế, thụ động. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, xã hội có vai trò không thể thay thế, và vai trò này sẽ ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của Nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường. Cho nên cùng với xác định vai trò quyết định thị trường trong huy động và phân bổ các nguồn lực cho phát triển, xin đề xuất cần khẳng định rõ vai trò xã hội là đối tác, đối ứng của Nhà nước và thị trường để tham gia khắc phục khiếm khuyết của thị trường cũng như những hạn chế của nhà nước từ việc thiếu thông tin thị trường, hoặc tình trạng quan liêu của bộ máy hành chính làm méo mó thị trường, đẩy chi phí lên cao và trong không ít trường hợp trục lợi, lợi ích nhóm làm gia sự bất bình đẳng. Xã hội với vai trò đối tác, đối ứng sẽ tham gia giám sát, hỗ trợ và bổ sung góp phần khắc phục, hạn chế bất bình đằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội. Do vậy đề nghị bổ sung vào mệnh đề về giải quyết mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội về vai trò xã hội như sau: vai trò đối tác, đối ứng, tham gia giám sát, cùng kiến tạo tiến trình phát triển của xã hội. Thể hiện như sau: “giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội, khẳng định vai trò quyết định của thị trường trong huy động, phân bổ các nguồn lực cho phát triển và vai trò đối tác, đối ứng, tham gia giám sát, cùng kiến tạo tiến trình phát triển của xã hội”.

 

 PGS.TS. Vũ Văn Hà,

Thư ký khoa học HĐLLTW



[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 131

 

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, https://chinhphu.vn/toan-van-du-thao-cac-van-kien-dai-hoi-xiv-cua-dang, ngày 16/11/2025
  2. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, H. 2021
  3. Vũ Văn Hà: Về mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội thời gian qua. https://hdll.vn/, ngày 27/5/2019
  4. Đoàn Minh Huấn: Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội - Những vấn đề đặt ra cho phát triển xã hội số theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, https://tapchicongsan.org.vn/, ngày 12/4/2023
  5. Vũ Văn Hà, Đoàn Minh Huấn (chủ biên): Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN- Thực trạng, vấn đề và định hướng chính sách, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, H. 2020.

 



[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 131

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết