Đại hội X, Đảng ta đã xác định: “Nghiên cứu, tổng kết, tiếp tục làm rõ quan điểm về Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền làm cơ sở đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng một cách cơ bản, toàn diện”[1]. Đại hội XI, trong phương hướng, giải pháp xây dựng Đảng những năm tới, Đảng ta tiếp tục xác định: “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền”[2]. Đại hội XII, trên cơ sở tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta khẳng đinh: “Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên”. Nghiên cứu làm rõ các vấn đề Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền trong giai đoạn hiện nay là vấn đề hết sức cần thiết, làm cơ sở cho Đảng ta tiếp tục đổi mới về nội dung, phương thức lãnh đạo.
Đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo là phạm trù thuộc khoa học Chính trị. Mặc nhiên vậy, song tới nay không phải đã hết những ý kiến khác nhau thậm chí trái chiều nhau. Bài viết góp phần tạo nên sự thống nhất về nhận thức tạo cơ sở cho hành động đúng đắn và sáng tạo trong đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong thời kỳ mới.
1. Đảng chính trị (political party)
Trong lịch sử, sự ra đời của đảng chính trị (ĐCT) gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp và sự hình thành nhà nước. Điều đó có nghĩa là, chỉ khi cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến giai đoạn cao, đấu tranh chính trị, đảng chính trị mới xuất hiện.Và, đương nhiên nó cũng chỉ tồn tại trong điều kiện xã hội còn giai cấp. Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, ĐCT ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống tổ chức quyền lực, thực hiện các hoạt động tập hợp, tổ chức lực lượng những người cùng chính kiến, quan điểm để đấu tranh vì mục tiêu giai cấp, giành quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực đó cho các lợi ích của giai cấp. Ngày nay, các đảng chính trị phát triển với nhiều hình thức, ở khắp các quốc gia trên thế giới. Tương ứng với cơ cấu giai cấp của nó, các đảng chính trị có thể là đảng tư sản, đảng vô sản, đảng nông dân, đảng địa chủ, đảng tiểu tư sản, cũng có thể là liên minh giai cấp (giữa tư sản và địa chủ…). Khái niệm ĐCT, tùy vào những cách tiếp cận khác nhau, có những quan niệm khác nhau.
Nhà Đảng học người Pháp M. Duverger, tiếp cận từ góc độ tranh cử, giành chính quyền, cho rằng đảng chính trị là tổ chức của những người tự nguyện, được lập ra để tranh cử vào các cơ quan công quyền[3]. Tác giả cuốn Từ điển Chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, Jay M. Shafrits tiếp cận từ góc độ quyền lực công, cho rằng ĐCT là tổ chức tìm cách nắm quyền lực chính trị bằng cách bầu thành viên của mình vào các cơ quan nhà nước, nhờ đó tư tưởng chính trị của họ được phản ánh trong chính sách công cộng[4]
Từ điển Bách khoa Triết học Liên Xô, tiếp cận từ góc độ giai cấp, định nghĩa: ĐCT là một tổ chức chính trị thể hiện những lợi ích của một giai cấp, hay một tổ chức xã hội, liên kết những đại diện ưu tú nhất của giai cấp để lãnh đạo giai cấp đạt tới mục đích, lý tưởng nhất định.
Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: đảng là một nhóm người kết lại với nhau để hoạt động với những mục đích nhất định; là tổ chức chính trị đại diện và đấu tranh vì quyền lợi của một giai cấp, một tầng lớp xã hội[5].
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định ĐCT là đội tiên phong của một giai cấp (hay một tầng lớp) nào đó, được tổ chức dựa trên nền tảng hệ tư tưởng nhất định, hoạt động theo điều lệ, cương lĩnh, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng xác định.
Trong xã hội hiện đại, tương ứng với cơ cấu giai cấp, có thể có mô hình một đảng, hai đảng hoặc đa đảng, tuy nhiên về thực chất, ĐCT luôn mang bản chất giai cấp. Chính vì vậy, khi đánh giá về ĐCT, không nên chỉ căn cứ vào tên gọi hay cương lĩnh chính trị của nó mà phải nghiên cứu hành động thực tế của các đảng. Như Lênin đã chỉ rõ “Để nhận rõ được cuộc đấu tranh của các đảng, thì không nên tin ở lời nói, mà nên nghiên cứu lịch sử thực sự của các đảng, nghiên cứu chủ yếu là việc họ làm, chứ không phải những lời nói về bản thân họ, xem họ giải quyết các vấn đề chính trị như thế nào, xem thái độ họ như thế nào trong những vấn đề có liên quan đến lợi ích thiết thân của các giai cấp khác nhau trong xã hội: địa chủ, tư bản, nông dân, công nhân…”[6]
ĐCT là một dạng đặc biệt của tổ chức xã hội. Nó khác với các hiệp hội, liên đoàn hay các nghiệp đoàn xã hội ở cách thức tổ chức và đặc biệt là cách thức hoạt động và mục tiêu đậm tính chính trị- đoạt, sử dụng quyền lực chính trị, tập trung ở quyền lực nhà nước.
Trong xã hội đương đại, ĐCT không chỉ đơn thuần đấu tranh để tham gia vào việc thể hiện các quan điểm chính trị mà còn đấu tranh để giành quyền đại diện cho người dân, trước hết trong cơ quan lập pháp, quốc hội. Thông thường, các ĐCT đều giành quyền lực thông qua việc bỏ phiếu của người dân. Trách nhiệm của ĐCT đối với người dân thể hiện qua việc thực hiện các cam kết mà ĐCT đã đưa ra trong chiến dịch tranh cử. Ý chí của người bỏ phiếu có ý nghĩa rất quan trọng đối với một ĐCT. Cũng với ý nghĩa này, có thể xem chính trị đảng phái là cơ cấu chính trị trong đó nhiều đảng tranh giành quyền lãnh đạo chính quyền nhà nước một cách hòa bình với nhau thông qua bầu cử. Trong các nước tư sản, hình thái chủ yếu của chính trị đảng phái là có chế độ nội các nghị viện và chế độ tổng thống. Để bảo đảm cho Quốc hội và các Đảng được điều hành ổn định, điều quan trọng là sự bảo đảm tự do về chính trị, ngôn luận, lập hội, bầu cử công bằng và giảm bớt những căng thẳng trong nội bộ xã hội. Các ĐCT luôn là trung tâm cho các cuộc thảo luận và tranh luận về việc đổi mới nền chính trị cũng như thực hiện các thay đổi chính trị. Các lợi ích cho chính thể sẽ được tìm thấy qua các quyết sách sáng suốt của ĐCT cầm quyền. Những lợi ích như vậy, không chỉ tìm thấy trong đảng cầm quyền mà còn ở trong các các ĐCT đối lập. Theo quan niệm của các nhà tư tưởng phương Tây, trong một thể chế dân chủ, đảng đối lập thường có chức năng như là một “cơ quan giám sát” đối với các chính sách của chính phủ hoặc cho các lựa chọn chính trị trong tương lai. Các ĐCT đối lập thường là đối thủ đáng ngại cho đảng cầm quyền, nhưng chính vì vậy, sự tồn tại của các đảng đối lập là hết sức cần thiết trong một thể chế dân chủ.
Từ tất cả sự phân tích trên có thể đưa ra một quan niệm chung về ĐCT như sau:Đảng chính trị (hay còn gọi là chính đảng), là một tổ chức chính trị đại diện của một giai cấp, một lực lượng xã hội, có (hoặc không có) tư cách pháp nhân, gồm những người có cùng chứng kiến, tự nguyện tham gia hoạt động liên tục, nhằm thực hiện mục tiêu giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Nói cách khác, ĐCT là tổ chức chính trị bao gồm những người tự nguyện, có cùng chính kiến, đại diện và bảo vệ lợi ích của một giai cấp, một tầng lớp xã hội, hoạt động chủ yếu vì mục tiêu giành quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực đó nhằm thực hiện lý tưởng của giai cấp.
Trong các nền chính trị đa đảng, tuỳ theo tương quan lực lượng và năng lực chủ quan của mỗi đảng, các ĐCT có thể là đảng cầm quyền, liên minh cầm quyền hoặc ở vị trí đối lập (không cầm quyền), thậm chí ở vị trí bất hợp pháp.
Để thực hiện mục tiêu của mình nhất là với đảng cầm quyền, ĐCT phải thực hiện các hoạt động theo chức năng là tập hợp, giáo dục cử tri, người dân tham gia vào đời sống chính trị; lựa chọn để cung cấp nguồn nhân lực cho bộ máy chính quyền nhà nước và hoạch định đường lối, chính sách quốc gia nhằm duy trì sự thống trị về chính trị và thực hiện lợi ích của giai cấp.
ĐCT là vấn đề trọng tâm của hệ thống chính trị. Tuy nhiên, quyền lực chính trị của ĐCT xét ở góc độ nào đó chỉ là “quyền lực tư” của giai cấp, nhóm xã hội, không phải là “quyền lực công”, không phải là quyền lực nhà nước. Chừng nào mà ĐCT trở thành đảng cầm quyền thì quyền lực của nó được chuyển hóa thành “quyền lực công” hay quyền lực nhà nước và có tính quyết định đối với toàn xã hội.
2. Đảng lãnh đạo(Party leadership)
Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng và dẫn đắt hành vi của cá nhân hay nhóm người nhằm hướng tới mục tiêu của tổ chức. Nói cách khác, lãnh đạo là việc đề ra mục tiêu, dẫn dắt, động viên, truyền cảm hứng cho mọi thành viên trong tổ chức nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Nhiệm vụ lãnh đạo có thể thuộc một người hoặc một tổ chức.
- Đảng lãnh đạo là khái niệm chỉ chức năng, chức năng lãnh đạo của tổ chức đảng, khác với chức năng quản lý (kiến tạo) của Nhà nước, hoặc chức năng tập hợp quần chúng của các đoàn thể chính trị- xã hội.
- Khái niệm Đảng lãnh đạo các nhà kinh điển Mác-Lênin nêu ra vào những năm cuối của thế kỷ XIX, khi cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản đã chuyển sang giai đoạn “tự giác”, đấu tranh chính trị, đòi hỏi phải có lực lượng dẫn đường. Bởi vậy, khái niệm “Đảng lãnh đạo” được hiểu là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống áp bức bóc lột thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân để có được sự đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của đại đa số nhân dân lao động đối với Đảng của giai cấp công nhân. V.I.Lênin khẳng định: “Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên phong của mình, tức đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Nhưng sự đồng tình và ủng hộ đó không thể có ngay được và không phải do những cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khăn, gian khổ mới giành được. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản để giành lấy sự đồng tình, để giành lấy sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động không phải kết thúc khi giai cấp vô sản đã cướp được chính quyền. Sau khi giành được chính quyền, cuộc đấu tranh đó vẫn tiếp tục như trước, có điều là với hình thức khác mà thôi”[7]
Với Hồ Chí Minh, cùng với việc khẳng định vai trò quyết định của Đảng cách mạng, “Cách mạng trước hết phải Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”[8], Người còn chỉ rõ thực chất của sự lãnh đạo: : “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và làm cho tốt”[9]; “Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”[10]
Có thể hiểu khái niệm Đảng lãnh đạo như sau:
Thứ nhất, “Đảng lãnh đạo” là một khái niệm chỉ chức năng của tổ chức đảng - chức năng lãnh đạo, đó là sự tác động, gây ảnh hưởng của Đảng (qua các tổ chức đảng và đảng viên) đối với quần chúng nhân dân và xã hội hướng quần chúng nhân dân đến việc thực hiện mục tiêu mà Đảng đã đề ra.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo là một khái niệm chỉ phương thức hoạt động của một tổ chức chính trị tuyệt đối không sử dụng phương thức “cai trị” của tổ chức công quyền, dù tổ chức chính trị ở vị thế không cầm quyền hay cầm quyền.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo là khái niệm để chỉ một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị nhằm đoạt và sử dụng quyền lực nhà nước.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo là khái niệm chỉ tất cả các cán bộ của Đảng ở bất kỳ cấp nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân.
Để xác lập và duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng chính trị, đòi hỏi đảng phải là đội tiên phong cả cả về lý luận, thực tiễn tổ chức và hoạt động tạo nên sức mạnh quyền uy của Đảng được nhân dân tôn vinh, tin tưởng, ủng hộ và đi theo. Và, khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng phải luôn xứng đáng với vị thế, tư cách cầm quyền một cách chính đáng.
3. Đảng cầm quyền (Ruling party)
Đảng cầm quyền là khái niệm chỉ vị thế, tư cách chính trị cầm quyền của Đảng chính trị sau khi giành được chính quyền nhà nước, thực hiện sự lãnh đạo chủ yếu bằng quyền lực của bộ máy công quyền để phục vụ cho lợi ích của nhân dân.
Thuật ngữ “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra từ trước Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, khi cho rằng: “bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đứng ra nắm toàn bộ chính quyền”.
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga, ngày 27-3-1922, lần đầu tiên V.I. Lê-nin đưa ra khái niệm “Đảng cộng sản cầm quyền” có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền, làm cho mọi hoạt động của chính quyền được thực hiện theo Cương lĩnh chính trị của Đảng và phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động. Nói cách khác, Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo xã hội trong điều kiện có chính quyền, lãnh đạo chủ yếu bằng bộ máy công quyền để phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động.
Đảng cầm quyền là khái niệm dùng để phân biệt về vị thế, tư cách chính đảng của đảng chính trị đã nắm được chính quyền so với thời kỳ trước khi nắm chính quyền và so với các đảng khác chưa hoặc không nắm được chính quyền.
Khái niệm Đảng cầm quyền được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng(cầm quyền tuyệt đối, nắm được toàn bộ nhà nước) là sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với toàn xã hội, làm cho xã hội vận động theo quỹ đạo mà Đảng chính trị mong muốn; theo nghĩa hẹp (cầm quyền không tuyệt đối, chỉ nắm được cơ quan hành pháp) là Đảng chính trị trực tiếp nắm giữ được cơ quan hành pháp để duy trì, áp đặt ý đồ chính trị của Đảng đối với xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng và củng cố Đảng, coi đó là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và của mỗi đảng viên chân chính. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là hệ thống các quan điểm lý luận mang bản chất cách mạng, khoa học và sáng tạo về Đảng và công tác xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, cách mệnh “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt…Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ mục đích của Đảng cầm quyền: “không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của tổ quốc và của nhân dân”. Theo Hồ Chí Minh, là Đảng Cộng sản cầm quyền, Đảng phải hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trong bản Di chúc lịch sử, Người đã khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Và Người cũng đã căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.”
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng được Đại hội X của Đảng thông qua cũng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”. Khái niệm “Đảng cầm quyền” là để chỉ vị thế, tư cách chính đáng của Đảng khi Đảng đã giành được chính quyền, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội chủ yếu bằng quyền lực của bộ máy công quyền và bằng sự gương mẫu của đội ngũ đảng viên.
Thuật ngữ “đảng cầm quyền” được sử dụng tương đồng với các thuật ngữ như “đảng chấp chính” hay “đảng nắm chính quyền”…
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền.
Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan hệ của Đảng với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng viên..
Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo, can thiệp vào chính quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách, kế hoạch… và tổ chức nhân dân thực hiện. Thực chất của Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và bằng sức mạnh của quyền lực công (công quyền, không phải quyền lực riêng của Đảng- tư quyền) tổ chức, tập hợp, hướng dẫn, tạo động lực cho nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng cầm quyền đã đề ra. Nghĩa là Đảng can thiệp về phương diện chính trị một cách chính đáng vào Nhà nước, để Nhà nước được tổ chức và vận hành vì mục đích của Đảng cầm quyền, thống nhất với lợi ích của nhân dân.
Trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo, sau khi nắm chính quyền, Đảng có nguy cơ sai lầm về đường lối và suy thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần phải chiến thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của một Đảng cầm quyền.
Trong xã hội dân chủ, đảng cầm quyền là đảng giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh; đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt trong hệ thống quyền lực nhà nước để kiểm soát quá trình hoạch định và thực thi chính sách công; đảng lãnh đạo những người của đảng trong hệ thống quyền lực nhà nước thực hiện mục tiêu của đảng thông qua chính sách của nhà nước.
Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, Đảng cầm quyền là đảng đã giành được chính quyền và thực hiện quyền lãnh đạo về mặt chính trị đối với nhà nước và xã hội, chủ yếu bằng sức mạnh của quyền lực công thực hiện Cương lĩnh phát triển đất nước của đảng cầm quyền, phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền và vì lợi ích quốc gia, dân tộc mà đảng cầm quyền và nhà nước đó đại diện.
Đảng cầm quyền là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị và là hệ quả hoạt động tất yếu của các lực lượng chính trị ở các quốc gia và theo đó, nó là hiện tượng phổ biến trên thế giới hiện nay. Tại không ít các nước trên thế giới, các chính đảng - nhờ có chiến lược, phương thức hoạt động phù hợp - đã là đảng cầm quyền trong thời gian khá dài, đồng thời đã đóng góp quan trọng trong việc chấn hưng đất nước.
Tuy có sự khác biệt giữa đảng cầm quyền trong một hệ thống chính trị đa đảng với đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị có một đảng duy nhất cầm quyền, song giữa hai hệ thống cầm quyền vẫn có điểm chung đó là đảng cầm quyền phải có năng lực cầm quyền. Theo các tác giả của đề tài cấp nhà nước Mã số: KX.10.04, do GS.TS Đỗ Hoài Nam làm chủ nhiệm cho rằng, năng lực cầm quyền của Đảng cầm quyền được thể ở 3 yếu tố quan trọng nhất:
1) Có lý luận cầm quyền đúng.
2) Có Cương lĩnh cầm quyền phù hợp, được số đông trong xã hội ủng hộ và thực hiện.
3) Có bộ máy cầm quyền và đội ngũ cán bộ cầm quyền giỏi. Tất nhiên, vẫn còn những ý kiến khác nhau, song đã là đảng cầm quyền tất yếu phải bảo đảm cầm quyền một cách chính đáng có khả năng tạo dựng niềm tin của Đảng đối với quần chúng nhân dân bằng cả lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động, từ đó tạo nên sức mạnh quyền uy của Đảng được nhân dân ủng hộ và đi theo.
Trong một xã hội có nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp, có thể có nhiều đảng phái, trong đó có đảng cầm quyền, đảng không cầm quyền. Ở mỗi nước, căn cứ vào những điều kiện lịch sử cụ thể, trong từng giai đoạn nhất định, tùy theo tương quan lực lượng mà có thể một đảng cầm quyền hay liên minh hai hoặc nhiều đảng cầm quyền. Đối với các nước theo chế độ đa đảng, khái niệm đảng cầm quyền gồm hai trường hợp.
Thứ nhất: một đảng duy nhất cầm quyền khi đảng đó chiếm đa số trong nghị viện, có quyền lập chính phủ (trong nhiệm kỳ của Quốc hội, nghị viện).
Thứ hai: một số đảng liên minh cầm quyền lập nên chính phủ liên hợp với một đảng làm nòng cốt.
Các nước XHCN đều có một đảng cộng sản cầm quyền mặc dù có nước vẫn duy trì chế độ đa đảng như Trung Quốc, ngoài Đảng cộng sản là Đảng chấp chính còn có 8 đảng phái dân chủ tham chính nhưng vẫn chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.Việt Nam, Cu Ba hiện nay chỉ có một Đảng cộng sản duy nhất là đảng cầm quyền. Dù ở các nước theo chế độ một đảng hay đa đảng thì đảng cầm quyền vẫn là đảng lãnh đạo chính quyền, chi phối chính quyền, chủ yếu bằng sức mạnh của quyền lực công để lãnh đạo toàn xã hội, làm cho các hoạt động của bộ máy chính quyền thể hiện và thực hiện tư tưởng, đường lối của đảng, phục vụ cho giai cấp, tầng lớp mà đảng đó đại diện.
4. Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền
Về thực chất, quan hệ giữa đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền, như trên đã phân tích được phân biệt ở vị thế, tư cách, nội dung và phương thức lãnh đạo
- Về vị thế, Đảng cầm quyền là khái niệm để phân biệt với đảng chưa hoặc không cầm quyền; đồng thời để phân biệt với chính đảng cầm quyền ở giai đoạn chưa cầm quyền. Trong các nước thực hiện chế độ đa đảng; vị thế của đảng cầm quyền khác hẳn với đảng không cầm quyền hoặc đảng đối lập. Đảng cầm quyền được “áp đặt” chủ trương, đường lối, tất nhiên là chính đáng buộc nhà nước phải tuân thủ. Đảng cầm quyền được sử dụng sức mạnh của bộ công quyền, trong đó công quyền và cả sức mạnh của “tư quyền- quyền lực của đảng” để thực hiện chủ trương, đường lối chính trị. Ngược lại, đảng không cầm quyền chỉ với tư cách là đảng chính trị gây áp lực đối với đảng cầm quyền để điều chỉnh chủ trương, chính sách hoặc phương thức hiện thực hóa chủ trương chính sách và chỉ có tư cách bình đẳng một cách tương đối trong cạnh tranh bầu cử.
- Về tư cách, đảng cầm quyền có đủ tư cách để can thiệp vào bộ máy công quyền để buộc bộ máy công quyền thực hiện định hướng chính trị thông qua cơ chế “pháp luật hóa và chính sách hóa”. Còn đảng không nắm quyền chỉ có thể gây áp lực trong khuôn khổ pháp luật có tư cách bình đẳng trong tranh cử. Tất nhiên trong chế độ đa đảng, trừ đảng liên minh, còn các đảng khác được xem là đảng đối lập thì tư cách của các đảng đối lập là thuộc loại “yếu thế”
- Về nội dung lãnh đạo, đảng cầm quyền thực hiện lãnh đạo trên các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại, nói chung là thực hiện sự lãnh đạo toàn diện, còn đảng không cầm quyền, kể cả đảng cầm quyền ở giai đoạn trước cầm quyền thì chỉ được lãnh đạo nội dung chính trị và chừng mực gây áp lực trên các lĩnh vực khác.
- Về phương thức lãnh đạo, đảng cầm quyền sử dụng tất cả sức mạnh có thể để thực hiện sự lãnh đạo toàn diện, trong đó sức mạnh của quyền lực công, công quyền, quyền lực nhà nước; còn đảng không cầm quyền chỉ được sử dụng “quyền lực tư, quyền lực của đảng đối với đội ngũ đảng viên” để thực hiện sự lãnh đạo. Tất nhiên, giữa đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo, không cầm quyền đều được sử dụng “quyền lực tư” những chỉ có đảng cầm quyền mới được sử dụng và chủ yếu sử dụng quyền lực công, quyền lực nhà nước, quyền lực đối với toàn xã hội để thực hiện sự lãnh đạo. Đương nhiên hiệu quả và khả năng sử dụng công quyền đến đâu còn tùy thuộc vào tính chính đáng vào năng lực cầm quyền của đảng cầm quyền. Năng lực cầm quyền của đảng cầm quyền lại tùy thuộc vào khả năng tạo dựng niềm tin của Đảng đối với quần chúng nhân dân bằng lý luận tiên phong và thực tiễn tổ chức và hoạt động khoa học, sáng tạo, tuân thủ pháp luật vì hạnh phúc của nhân dân, từ đó tạo nên sức mạnh quyền uy của Đảng được nhân dân ủng hộ và đi theo./.
GS,TS. Dương Xuân Ngọc
Nguyên Phó Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 306.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 255
[3] Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2011), Đảng Cộng sản cầm quyền, nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb CTQG, H. tr.25.
[5]Đại từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Văn hóa – Thông tin, H, tr. 586
[6] V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 1 tr.355
[7] 3. V.I.Lênin: Toàn tập, t. 39, NXB Tiến bộ, Mat-xcơ-va, 1979, tr. 251.
[8] Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội, 2000, tập 2, tr.267-268.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 12, tr. 222.
[10] . Hồ Chí Minh. Sđd, t. 10, tr. 323