Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Ngày phát hành: 03/06/2019 Lượt xem 20229

 

1. Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa qua 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm tàu hộ vệ tên lửa Lý Thái Tổ. (Ảnh: TTXVN tháng 5-2016)

 

Tình hình thế giới, khu vực và trong nước từ năm 1991 đến nay biến đổi nhanh chóng, phức tạp; tác động sâu sắc đến nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặc biệt quan tâm bổ sung, phát triển tư duy lý luận, nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ và giải quyết mối quan hệ này phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.

a. Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò từng nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam

Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, có mối quan hệ chặt chẽ, tác động và chi phối lẫn nhau; song vị trí, vai trò của từng nhiệm vụ trong mối quan hệ này là khác nhau. Cương lĩnh 1991 xác định: “Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”[1]; “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và Nhà nước”[2]; “Sự ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng của quốc phòng - an ninh”[3].

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã bổ sung nhận thức mới về vị trí, vai trò của từng nhiệm vụ chiến lược và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này. Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải “kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược”, Đảng ta đã “đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”; đồng thời, “luôn coi trọng quốc phòng, an ninh”, “không lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh: Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn coi trọng quốc phòng - an ninh; coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng xác định rõ hơn vị trí, vai trò nền tảng của nhiệm vụ xây dựng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh”4. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực và đất nước, nhìn lại 30 năm đổi mới và tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI, tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã rút ra một số kinh nghiệm quan trọng; trong đó, kinh nghiệm thứ ba khẳng định: “gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”5.

Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh: bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong mối quan hệ không chỉ với phát triển kinh tế - xã hội mà còn đặt trong mối quan hệ với xây dựng Đảng, phát triển văn hóa, con người là phát triển tư duy lý luận về vị trí, vai trò của hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

b. Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược trong thực hiện mục tiêu, nhiệm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Tư duy lý luận của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thể hiện rõ sự gắn kết chặt chẽ giữa hai mặt tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đó là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nếu Cương lĩnh 1991 xác định mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”[4] thì đến Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta đã bổ sung, chỉ rõ nhận thức mới về mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng và an ninh là: Bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất ổn định chính trị - xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ gây tổn hại cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả mọi loại tội phạm, bảo đảm tốt trật tự, an toàn xã hội.

Tại Hội nghị Trung ương tám khoá IX, lần đầu tiên, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định rõ sáu nội dung: Một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; sáu là, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng được Đảng ta bổ sung, xác định cụ thể hơn trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011): “Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”[5].

Đến Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã bổ sung những nội dung mới vào mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”[6].

c. Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược trên các lĩnh vực cụ thể: kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh

Trong quá trình thực hiện Cương lĩnh 1991, Đảng ta luôn chú trọng phát triển tư duy lý luận, nhận thức mới về sự kết hợp giữa các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội nhằm cụ thể hóa mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng ta xác định: Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa phương. Đến Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta chỉ rõ: Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng trong việc qui hoạch và phát triển các vùng kinh tế, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu cầu bảo đảm quốc phòng - an ninh làm cơ sở cho những chủ trương cụ thể.

Đại hội lần thứ IX của Đảng đã bổ sung lĩnh vực an ninh trong mối quan hệ với kinh tế và quốc phòng, xác định chủ trương: Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Hội nghị Trung ương tám khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra yêu cầu phải thể chế hóa chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh: Xây dựng cơ chế phù hợp để thực hiện có hiệu quả việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế.

Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã bổ sung yếu tố xã hội trong nội hàm của sự kết hợp: Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước.

Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã kế thừa những quan điểm trên và khẳng định: “Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”[7].

Đến Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã bổ sung yếu tố văn hóa trong mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội”[8]. Đảng ta khẳng định yếu tố văn hóa là một thành tố của sự kết hợp, thể hiện sự phát triển tư duy lý luận, nhận thức mới của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

d. Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế

Quốc phòng, an ninh không chỉ có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế, văn hóa và xã hội, trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, quốc phòng, an ninh mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với đối ngoại. Nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng này, Cương lĩnh 1991 của Đảng xác định: Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Nghị quyết Trung ương tám khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra yêu cầu phải thể chế hóa chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại thành các văn bản pháp lý và xây dựng quy chế thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại và quy chế phối hợp quốc phòng, an ninh với đối ngoại.

Đại hội lần thứ X của Đảng xác định: Phối hợp chặt chẽ đối ngoại, quốc phòng và an ninh, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ hơn vấn đề: “Kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa, giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh”[9].

Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định chủ trương: "Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh và đối ngoại"[10]; đồng thời, xác định phương hướng, nhiệm vụ hoạt động đối ngoại trong tình hình mới: “Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;...”[11]. Điều đó đã thể hiện sự phát triển tư duy lý luận về mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Như vậy, qua 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, tư duy lý luận, nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã phát triển toàn diện và sâu sắc hơn, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới giành những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

 

 

 

2. Đánh giá việc kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược qua 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991

a. Thành tựu kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược

Sau 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, nhất là 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng.

Một là, ý thức về kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược ngày càng được nâng cao.

Nhận thức về kết hợp xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của từng cá nhân và từng tổ chức xã hội ngày càng được nâng lên rõ rệt. Cán bộ, đảng viên và phần lớn quần chúng nhân dân đều ý thức rõ sự cần thiết phải lấy xây dựng để bảo vệ, xây dựng là phương thức hữu hiệu để bảo vệ, trong xây dựng có bảo vệ, trong bảo vệ có xây dựng; không thể đối lập, tách rời hoặc coi nhẹ, xem thường một nhiệm vụ chiến lược nào. Bởi lẽ, xây dựng đất nước vững mạnh, kinh tế - xã hội phát triển bền vững, đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân ngày càng nâng cao, tình hình chính trị ổn định là tạo môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi để bảo vệ Tổ quốc. Đây là cơ sở, nền tảng vững chắc nhất để đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, văn hóa, xã hội; là tạo tiền đề vững chắc cho bảo vệ Tổ quốc từ bên trong, từ sớm, từ xa. Bảo vệ tốt là tạo môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi cho xây dựng; nhờ đó, bản thân lực lượng trực tiếp bảo vệ chủ động, tích cực tham gia xây dựng đất nước; tăng cư­ờng quốc phòng, an ninh. Đó phương thức tốt nhất để giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, tạo sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột vũ trang, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh, bền vững. Thực hiện giữ nước từ khi nước chưa lâm nguy, từ trong xây dựng thời bình. Chính vì vậy, trong Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chỉ rõ: “Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển của cách mạng nước ta”[12].  

Hai là, kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược được tiến hành đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Kết hợp giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại…

Trong đó, xây dựng và bảo vệ đường lối chính trị và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên cả diện rộng và chiều sâu; đồng bộ và toàn diện. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức cùng với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, nhân do dân và vì nhân dân được kết hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ chính trị nội bộ và đấu tranh phê phán quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cương lĩnh, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với xã hội.

 

 

Trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa đẩy mạnh phát triển kinh tế với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp kinh tế, xã hội, văn hóa với quốc phòng, an ninh và đối ngoại được thực hiện ngay từ khâu quy hoạch chiến lược, chương trình, dự án, đề án đến kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện trên thực tiễn, góp phần tăng cường sức mạnh khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) và xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cùng những giá trị, chuẩn mực văn hoá - xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống lại những quan điểm tư tưởng, những phản giá trị văn hoá, nhất là những tàn dư của chế độ phong kiến lạc hậu và sự xâm nhập các sản phẩm xấu độc của văn hóa “ngoại lai”, trái với những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, các biểu hiện, hành động phá hoại nền tảng xã hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần tạo sự đồng thuận xã hội trong các cộng đồng người Việt Nam ở trong nước cũng như ở nước ngoài.

Trong xây dựng, bảo vệ tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; xây dựng và bảo vệ các lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân được tiến hành đồng bộ, hiệu quả. Hoạt động đối ngoại được mở rộng trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nhĩa.

Sau 30 năm thực hiện Cương lĩnh, nhất là thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta đã đạt được những kết quả nổi bật. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc, liên hoàn; “thế trận lòng dân” được tăng cường; lực l­­ượng bảo vệ Tổ quốc được quy tụ, tập hợp, phát huy một cách đồng bộ, toàn diện hơn; lực lượng trên các hướng chiến lược được bố trí, điều chỉnh hợp lý; các công trình quốc phòng, an ninh được đầu tư xây dựng cơ bản, trong đó ưu tiên xây dựng thế trận ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo; triển khai xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững chắc, có hiệu quả, góp phần hoàn chỉnh thế trận của các quân khu và cả nước. Thế trận quốc phòng toàn dân ngày càng gắn bó chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong xây dựng, bố trí lực lượng và trong các hoạt động quốc phòng, an ninh nhân dân, tạo thành thế trận liên hoàn, vững chắc từ trung ương đến địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả quốc phòng, an ninh, cả lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân, tạo thành phong trào toàn dân bảo vệ Tổ quốc rộng khắp. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố, nhất là trên các địa bàn chiến lược quan trọng”[13].

Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được nâng cao không chỉ bằng sức mạnh quân sự mà còn kết hợp bởi sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân cùng với sức mạnh của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Đây là cơ sở quan trọng cho phép chúng ta giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n­­ước.

Thành tựu nổi bật trong thực tiễn kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị để phát triển đất nước; nhờ đó, đã làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiềm lực kinh tế của đất nước được tăng cường. Nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đánh giá: “Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[14], "Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững hòa bình, ổn định. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao"[15].  

b. Hạn chế của kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Thứ nhất, còn có biểu hiện nhận thức chưa đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở một bộ phận cán bộ, quần chúng nhân dân.

Trong quá trình tổ chức thực hiện Cương lĩnh, có lúc, có nơi còn biểu hiện tách rời giữa xây dựng và bảo vệ; chưa thấy rõ sự ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh; chưa giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế và lợi ích quốc phòng, an ninh; còn có biểu hiện tuyệt đối hóa nhiệm vụ xây dựng, coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ hoặc ngược lại. Thực tế chỉ ra rằng, một số cán bộ, đảng viên và một bộ phận nhân dân chưa nhận thức đúng bản chất và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ xây dựng và nhiệm vụ bảo vệ, nhất là bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới không chỉ là chống lại những nguy cơ xâm lược bằng vũ trang từ các thế lực bên ngoài, mà còn phải chống lại những nguy cơ nảy sinh từ bên trong như phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang... Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn còn biểu hiện lệch lạc khi coi bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ của riêng lực lượng vũ trang, chưa thấy hết vai trò, trách nhiệm công dân trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Không ít đơn vị kinh tế, doanh nghiệp không muốn thực hiện việc kết hợp giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quốc phòng và an ninh ở cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc”[16].

Thứ hai, việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, chưa đạt hiệu quả cao.

Việc quán triệt, triển khai thực hiện kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn chưa  chặt chẽ; có lúc, có việc còn tập trung chủ yếu cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chưa quan tâm đúng mức đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đủ mạnh để điều chỉnh, quản lý việc kết hợp giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong đó hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chồng chéo. Điều này đã được Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ ra: “Kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp ủy, chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể. Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa hoàn thiện”[17].

 Thứ ba, kết quả thực hiện kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược có mặt còn hạn chế, bất cập.

Thực tiễn kết hợp giữa xây dựng dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho thấy việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế còn những bất cập và hạn chế nhất định. Trong một số lĩnh vực, chúng ta chưa gắn chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc; giữa xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong một chiến lược tổng thể, thống nhất nhằm phát huy tối đa mọi tiềm năng, thế mạnh, mọi nguồn lực vốn có để tạo sức mạnh tổng hợp nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Một số hoạt động xây dựng, củng cố quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc đã làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại, việc thực hiện các dự án trọng điểm quốc gia làm ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại…, chưa được khắc phục triệt để.

c. Nguyên nhân thành tựu kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nguyên nhân khách quan 

Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới không chỉ tạo cơ hội cho nước ta thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng đối ngoại quốc phòng, an ninh. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ nói chung, khoa học, công nghệ quân sự nói riêng, đã tạo thuận lợi để nước ta vừa thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, vừa có điều kiện tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nguyên nhân chủ quan

Sự trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng như phát huy truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời phân tích, đánh giá đúng tình hình và đưa ra chủ trương, đường lối, chính sách kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phù hợp với thực tế đất nước, làm cơ sở cho quá trình tổ chức thực hiện hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược.

Công tác tuyên truyền, giáo dục của các cấp, các ngành, nhất là giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ý thức, trách nhiệm kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của cán bộ và nhân dân được quan tâm đúng mức, thực hiện có hiệu quả. Cùng với đó, là vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương cũng như mỗi tổ chức, cá nhân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc được quy tụ, tập hợp, khơi dậy và phát huy, góp phần tạo nên những thành tựu quan trọng trong kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược ở nước ta 30 năm qua.

d. Nguyên nhân hạn chế kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nguyên nhân khách quan

Do tác động, ảnh hưởng từ mặt trái của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường cùng với tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực và diễn biến phức tạp trên Biển Đông, … đã làm cho nhận thức, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, về kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược nói riêng, còn có những biểu hiện lệch lạc, hoài nghi, thiếu tin tưởng vào thắng lợi của đường lối đổi mới.

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và những thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là sự phát triển của internet và mạng xã hội để thực hiện âm mưu đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, điền cuồng chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho việc kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược mặc dù đạt được những thành tựu quan trọng, song cũng tồn tại không ít hạn chế, bất cập.

Nguyên nhân chủ quan

  • Do những hạn chế về nhận thức, năng lực tổ chức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có lúc chưa thật hài hòa, mềm déo cũng như công tác tuyên truyền, giáo dục nói chung, tuyên truyền, giáo dục về kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới nói riêng chưa có nhiều giải pháp mang tính đột phá nên hiệu quả thực hiện việc kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược chưa cao.

Cơ chế kết hợp giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cùng với hệ thống chính sách, luật pháp bảo đảm cho sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược chưa đầy đủ, chưa toàn diện, đồng bộ, còn chồng chéo và hiệu lực hạn chế; vai trò, trách nhiệm, năng lực trong quán triệt, triển khai thực hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược của một số tổ chức đảng; một số cơ quan, ban, bộ, ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lãnh đạo, chỉ đạo việc kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược có lúc, có thời điểm chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, tính thuyết phục còn thấp.

3. Những vấn đề đặt ra

Trong thực tế, xử lý mối quan hệ này hay vướng vào tình trạng cực đoạn nhấn mạnh một mặt, một chiều. Vấn đề đặt ra hai nhiệm vụ chiến lược đều quan trọng, song thực tế, khả năng đáp ứng nhu cầu giải quyết hài hòa mối quan hệ này còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Điều đó thể hiện:

Một là, chủ trương, đường lối của Đảng về khắc phục sự lạc hậu trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Đảng là hoàn toàn đúng đắn nhưng trên thực tế, nhận thức và giải quyết mối quan hệ này còn nhiều hạn chế, bất cập, còn có “điểm nghẽn”, chưa thông suốt.

Hai là, yêu cầu cần phải khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác tuyên truyền, giáo dục cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là rất cao, song trên thực tế, các điều kiện bảo đảm để khắc phục những hạn chế, bất cập còn có mức độ, gặp nhiều khó khăn.

Ba là, việc đề xuất các giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa luôn được Đảng đặt ra cấp bách, song trên thực tế, chưa có giải pháp hữu hiệu, mang tính đột phá để đủ sức tháo gỡ mọi khó khăn, vướng mắc; nhất là các giải pháp giải quyết khó khăn về cơ chế, chính sách, pháp luật có liên quan.

Bốn là, âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nhằm chống phá Đảng, phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam, xuyên tạc sự thật, quy kết những sai lầm, khuyết điểm của Đảng ta trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là rất nham hiểm, xảo quyệt nhưng việc tổ chức đấu tranh, phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch và những lệc lạc trong nhận thức về vấn đề này còn bộc lộ những hạn chế nhất định.

4. Bổ sung nhận thức mới và giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới

a. Bổ sung nhận thức mới về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Nhận thức và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Vì vậy, cần bổ sung nhận thức mới về giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0; việc bổ sung có thể trên 5 vấn đề sau:

Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời nhau

Trong Cương lĩnh 1991, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam"[18]. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh quan điểm trên và nêu rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”[19]. Như vậy, từ trước đến nay chúng ta đã và đang khẳng định: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là "hai nhiệm vụ chiến lược" của cách mạng Việt Nam.

Khẳng định như vậy là hoàn toàn đúng đắn nhưng trên thực tế, có lúc, có thời điểm chúng ta đã quá nhấn mạnh một nhiệm vụ chiến lược theo yêu cầu nhiệm vụ. Điều đó đã dẫn đến nhận thức tách rời giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Cần nhận thức cho đúng: xây dựng là một "nhiệm vụ chiến lược" và bảo vệ cũng là một "nhiệm vụ chiến lược". Hai nhiệm vụ chiến lược đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, quy định, ràng buộc lẫn nhau, không thể tách rời nhau mà luôn tạo điều kiện, là tiền đề cho nhau, thống nhất trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế, trong thực tiễn, do tình thế, yêu cầu nhiệm vụ bắt buộc, việc nhấn mạnh một nhiệm vụ nào đó là cần thiết nhưng không có nghĩa là xem thường, coi nhẹ nhiệm vụ chiến lược kia. Chúng ta cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc mối quan hệ biện chứng của hai nhiệm vụ chiến lược và khắc phục cho được những hạn chế, yếu kém trong thực tiễn kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ, giữa phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh.

Hai là, xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật cơ bản, bao trùm, xuyên suốt của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Cần phải khẳng định rõ ràng là xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật cơ bản, bao trùm xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Bởi lẽ, thực chất mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là cách biểu đạt khác của quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa: xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là quy luật vốn có, tất yếu khách quan trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Quy luật cơ bản xuyên suốt này chi phối tất cả các vấn đề khác, các quy luật khác của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hay nói cách khác, sự vận động, phát triển của các vấn đề khác, của quy luật khác, thực chất là nhằm thực hiện có hiệu quả quy luật này trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Ở đâu có hoạt động xây dựng thì ở đó có hoạt động bảo vệ và ngược lại, ở đâu có hoạt động bảo vệ, thì ở đó có hoạt động xây dựng.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là xây dựng các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển toàn diện, vững mạnh; đồng thời, phải có kế hoạch để bảo vệ các mặt cơ bản đó một cách toàn diện, đồng bộ, kiên quyết và thường xuyên. Đó là sự phản ánh kết quả cụ thể của việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Muốn bảo vệ không để đất nước đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa, trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa, thì phải chủ động xây dựng các yếu tố của chủ nghĩa xã hội, làm cho nó phát triển vững chắc, thể hiện rõ tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trước chủ nghĩa tư bản. 

Ba là, mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ bao trùm, chi phối tất cả các mối quan hệ lớn khác.

Cương lĩnh xây dựng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xếp mối quan hệ "xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa"[20] đứng vị trí thứ 6 trong 8 mối quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ. Đại hội lần thứ XII, Đảng ta xếp mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đứng thứ 7 trong hệ thống 9 mối quan hệ[21]. Xếp thứ tự như vậy phải chăng là không phù hợp với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của mối quan hệ này. Vì vậy, Đảng cần cân nhắc đặt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở vị trí đầu tiên trong các mối quan hệ lớn của cách mạng Việt Nam

Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ lớn chi phối các lĩnh vực của đất nước, chi phối các mối quan hệ khác. Tính chất bao trùm, xuyên suốt, chi phối của mối quan hệ này biểu hiện:

Thứ nhất, nó là mối quan hệ xuyên suốt thời kỳ quá độ  lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong khi đó, các mối quan hệ khác, trong sự so sánh với mối quan hệ này, dù chúng có nổi lên trong những thời điểm, giai đoạn cụ thể nào đó, nhưng thời gian không thể dài hơn, không mang tính chất xuyên suốt như mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ. Một mối quan hệ nào đó không chỉ vì nó nổi lên có tính chất cấp thiết trong giai đoạn cụ thể mà chúng ta lại xếp ở vị trí cao hơn, mang tính chất xuyên suốt, cơ bản hơn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ bao trùm, cho dù chúng ta có thể ưu tiên giải quyết chúng trong tình hình mới. Cần nhận thức rõ rằng, hiện nay dù có thể ưu tiên giải quyết mối quan hệ nào đó, nhưng điều đó rất khách quan là nhằm làm gắn bó chặt chẽ hơn, giải quyết thấu đáo hơn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thực tiễn.

Thứ hai, mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có mặt thẩm thấu vào trong nội dung của tất cả các mối quan hệ khác; đồng thời, nó quyết định, chi phối các mối quan hệ khác. Sự quy định, chi phối đó không những trong thời kỳ đổi mới mà trong toàn bộ tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cho dù mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa…là những mối quan hệ rất quan trọng và cơ bản. Nhưng các mối quan hệ này chủ yếu mang tính chất quan hệ từng mặt, từng góc độ của sự nghiệp đổi mới nhiều hơn. Chúng chưa mang đầy đủ các yếu tố của mối quan hệ xuyên suốt trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Hệ thống 9 mối quan hệ cơ bản mà Đại hội XII của Đảng đã nêu có quan hệ chặt chẽ với nhau, đòi hỏi đều phải được nhận thức đúng và giải quyết tốt trong thực tiễn. Giải quyết từng mối quan hệ cụ thể phải tuân theo yêu cầu và nhằm thực hiện tốt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện giải quyết các mối quan hệ khác, thực chất là thực hiện những nhiệm vụ đặt ra từ quy luật chung xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; là góp phần thực hiện thắng lợi, giải quyết thành công quy luật ấy trong thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Bốn là, bổ sung nhận thức về vị trí, vai trò của từng nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội trong tình hình mới. Cần khẳng định quan điểm: xây dựng là một phương thức hữu hiệu để bảo vệ, phát huy vai trò xây dựng để bảo vệ, nêu cao trách nhiệm mọi lực lượng trong bảo vệ, phát huy bảo vệ trong xây dựng; khắc phục tụt hậu về kinh tế, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống những biểu hiện “tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" trong nội bộ và tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng là những yêu cầu của cả bảo vệ và xây dựng trong tình hình mới.

Năm là, bổ sung nhận thức mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội trong tình hình mới. Trong văn kiện Đảng, cần cụ thể hóa hơn nữa nội dung mối quan hệ giữa xây xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong điều kiện tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp, chưa thể dự lường, v.v..

b. Giải pháp giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới

Thứ nhất, bám sát thực tiễn, tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ lớn, bao trùm. Giải quyết tốt mối quan hệ này là yếu tố quan trọng hàng đầu, bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, nhân tố quyết định là phải tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, từ các ban, bộ, ngành trung ương đến địa phương, cơ sở, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao chất lượng giáo dục quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Để nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quan điểm của Đảng về mối quan hệ này. Hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục phải phong phú, đa dạng, thiết thực và phù hợp với từng đối tượng.

Thứ ba, kịp thời thể chế hóa quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong chính sách, pháp luật của Nhà nước cho phù hợp với tình hình mới. Để hiện thực hóa quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, một trong những vấn đề đặt ra là thể chế hóa quan điểm của Đảng về mối quan hệ này thông qua hệ thống luật pháp, chế tài phù hợp nhằm giải quyết đúng đắn mối quan hệ này.

Thứ tư, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ phương châm: Lý luận phải gắn chặt với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng kịp thời và phục vụ có hiệu quả yêu cầu phát triển của đất nước; do đó, để phát triển tư duy lý luận về mối giữa xây dựng chủ nghĩa xội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận. Công tác này phải được các cấp, các ngành quan tâm đầu tư tương xứng về tổ chức, nguồn nhân lực và kinh phí bảo đảm.

Thứ năm, đẩy mạnh đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái và nhận thức lệch lạc về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Một trong những âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch là xuyên tạc, phủ nhận quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nhằm thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa " trong nội bộ. Đồng thời, có giải pháp khắc phục những nhận thức không đúng về mối quan hệ này, chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế, lợi ích kinh tế mà coi nhẹ nhiệm vụ tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc và ngược lại. Tình hình mới đang đặt ra cấp bách, đòi hỏi phải phát triển tư duy lý luận và tìm kiếm giải pháp hữu hiệu để giải quyết hiệu quả hơn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Tăng cường đấu tranh phê phán quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị và nhận thức lêch lạc của một số cán bộ, đảng viên, quần chúng về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một giải pháp cần có nội dung, hình thức mới./.

 

                                           Thiếu tướng,PGS.TS.NGND Nguyễn Bá Dương



[1],2,3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr. 10,11.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 82.

5 Sđd, tr. 17.

 

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr.11.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 81.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 147.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 82.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 149.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 139.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 149.

[11] Sđd, tr.153.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam- Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng kết - Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb CTQG, H. 2015, tr. 179.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 146.

[14] Sđd, tr. 146.

[15] Sđd, tr. 14-15.

[16] Sđd, tr. 147.

[17] Sđd, tr. 147.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 10.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 65.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG - ST, Hà Nội, 2011, tr.73.

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG - ST, Hà Nội, 2016, tr. 80.

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết