1. Về đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề CNH HĐH đất nước được đặt ra từ nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã nêu chủ trương: “…công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại…”. Cương lĩnh sửa đổi bổ sung năm 2011 nêu mục tiêu “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” với phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu nêu trên là “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”.
Đại hội XIII đã nêu mục tiêu tổng quát “…đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ... phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”; mục tiêu cụ thể đến năm 2030: “Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”. Đại hội cũng nêu các phương hướng cơ bản thực hiện mục tiêu đề ra.
Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương có nhiệm vụ cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ để thực hiện các chủ trương đã nêu trong Cương lĩnh và nhất là tại Nghị quyết Đại hội XIII.
Đề án được xây dựng trong bối cảnh Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị nhiệm kỳ XII, XIII đã chỉ đạo nghiên cứu xây dựng đề án làm cơ sở ban hành một số nghị quyết quan trọng có liên quan đến CNH, HĐH đất nước. Ban chấp hành Trung ương đã ban hành các nghị quyết về tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; đổi mới doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế tư nhân; phát triển kinh tế tập thể... Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư...
Nghị quyết mới của Ban chấp hành Trung ương lần này nên tập trung vào các chủ trương, giải pháp lớn giải quyết những vấn đề quan trọng đang cản trở thực hiện CNH HĐH trong bối cảnh mới của Đất nước.
Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề CNH, HĐH. Tuy vậy, vẫn có nhiều vấn đề lý luận cần được làm rõ.
Thế giới đã trải qua thời gian dài tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện nay đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tuy vậy, theo UNIDO tới nay mới chỉ có 63 nước được coi là nước công nghiệp, chiếm chưa đến 20% dân số thế giới. Vậy thế nào là một nước công nghiệp và nội hàm của quá trình để tiến đến là một nước công nghiệp là gì? GS. TS. Trần Thị Vân Hoa cùng các cộng sự (2020) đã đề xuất Hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trước đó đã có một số tác giả đề xuất bộ tiêu chí với nội dung khác. Điểm chung là các công trình nghiên cứu, các bộ tiêu chí đều nêu về những chuyển biến cần có cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường trong quá trình CNH. Tuy vậy, ngày nay bối cảnh CNH đã có nhiều thay đổi, nhất là do tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và biến đổi khí hậu. Mặt khác, công nghiệp hóa được coi là một phần của quá trình hiện đại hóa. Công nghiệp hóa đòi hỏi phải có con người mới, tổ chức xã hội và cơ sở hạ tầng hiện đại tương ứng. Trong bối cảnh hiện nay, nội hàm công nghiệp hóa gần như tương đồng với nội hàm hiện đại hóa. Cần tập trung làm rõ những điểm mới trong nội hàm CNH HĐH trong bối cảnh mới trong giai đoạn từ nay đến năm 2045.
Về kinh tế, CNH trước hết là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phương pháp sản xuất, kinh doanh. Cốt lõi của quá trình công nghiệp hóa là phát triển công nghiệp. Tuy nhiên, ngay khái niệm công nghiệp cũng có nhiều thay đổi. Đa số coi công nghiệp chế biến, chế tạo (manufacturing) là ngành chủ lực, nhưng ngày càng xuất hiện nhiều ngành công nghiệp khác như công nghiệp văn hóa, giải trí, thể thao… Ngành nông nghiệp cũng đang từng bước được công nghiệp hóa, nhiều cơ sở chăn nuôi có trình độ công nghệ không khác nhiều so với các cơ sở sản xuất công nghiệp chính xác.
Về mặt công nghệ, công nghiệp thường gồm các ngành có sử dụng nhiều máy móc thiết bị, phần lớn là máy móc, thiết bị cơ khí, lao động được đào tạo, có kỹ năng. Sản phẩm công nghiệp là kết quả của sự thay đổi công năng của các vật tư đầu vào, thường là các loại vật chất. Ngày nay, các loại máy móc, thiết bị, kỹ năng, sản phẩm công nghiệp đã có rất nhiều thay đổi theo hướng máy móc không chỉ thay thế lao động cơ bắp của con người mà thay thế ngày càng nhiều hơn các kỹ năng mềm và trí tuệ của con người. Do vậy, sản phẩm công nghiệp cũng mang hàm lượng trí tuệ ngày càng cao hơn.
Về mặt xã hội, CNH dẫn đến không chỉ thay đổi cơ cấu lao động mà còn cả cấu trúc và các quan hệ xã hội, mức sống và lối sống của con người. CMCN 4.0 đã đem lại ngày càng nhiều những sự thay đổi sâu sắc về mặt xã hội.
Về môi trường, hơn 20 năm trước mới chỉ có một số tiếng nói lẻ loi về biến đổi khí hậu thì ngày nay sự phát triển công nghiệp phải hướng tới không chỉ tránh tàn phá tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường mà còn phải thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính. Yêu cầu mới có thể dẫn đến không chỉ thay đổi về công nghệ mà cả cơ cấu sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng sản phẩm công nghiệp.
2. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta và những vấn đề lớn đang đặt ra
Trong quá trình xây dựng các đề án trình BCH TW và Bộ Chính trị thời gian qua đã có đánh giá sâu sắc về tình hình phát triển công nghiệp và công nghiệp hóa các ngành kinh tế, việc nước ta tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nhiều vấn đề có liên quan; đề ra quan điểm, phương hướng và giải pháp cho giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Có thể nêu tổng hợp một số đánh giá chính như sau:
a. Về mặt được
(1) Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp. Một số ngành công nghiệp như: điện, điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông, chế tạo thiết bị năng lượng, dệt may, da giày, xây dựng… đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Công nghiệp trở thành động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế. Giai đoạn 2016-2020 bình quân hằng năm công nghiệp và xây dựng đóng góp 42,3% tăng trưởng của nền kinh tế so với 37% trong 10 năm trước đó, riêng năm 2020 đóng góp 53%. Tuy nhiên, CNH HĐH không chỉ bao gồm sự phát triển của ngành công nghiệp mà còn bao gồm sự chuyển biến trong nội bộ các ngành kinh tế và đời sống xã hội theo kiểu công nghiệp, hiện đại hóa. Trong nông nghiệp, nhiều hộ nông dân sản xuất hàng hóa quy mô lớn hơn đã từng bước áp dụng quy trình sản xuất theo kiểu công nghiệp, nhất là trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng cây trong nhà kính, nhà lưới...
(2) Nước ta đã bước đầu tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình chuyển đổi số diễn ra nhanh chóng, trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp ngày càng được nâng cao. Trong những năm qua, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt nam đã liên tục cải thiện từ thứ hạng 68/121 năm 2007 lên 55/137 năm 2017.
(3) Các ngành công nghiệp đã tạo ra ngày càng nhiều việc làm, thu nhập cho người lao động, đóng góp lớn nhất cho ngân sách nhà nước. Năm 2021 lao động có việc làm trong khu vực công nghiệp và xây dựng là 16,8 triệu người so với 10,6 triệu người năm 2010.
(4) Công nghiệp hóa gắn liền với đô thị hóa đóng vai trò nòng cốt thúc đẩy quá trình phát triển toàn diện kinh tế xã hội ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Các thành phố trực thuộc Trung ương và nhiều địa phương liền kề đã phát triển mạnh công nghiệp, có nguồn thu nân sách lớn nên đã có điều kiện đầu tư hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực khác. Tỉnh Đồng Nai, một địa phương sau thời gian tập trung phát triển công nghiệp đã quan tâm đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và trở thành tỉnh dẫn đầu về xây dựng nông thôn mới ở khu vực phía Nam.
b. Các tồn tại chính
(1) Nền công nghiệp nước ta thời gian qua phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững; nội lực của nền công nghiệp còn yếu, phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2021, các doanh nghiệp FDI chiếm 55% tổng giá trị sản phẩm công nghiệp và 73,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
(2) Tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn thụ động; trình độ công nghệ còn lạc hậu, chậm được đổi mới; chất lượng sản phẩm, năng suất lao động ngành công nghiệp còn thấp; phát triển công nghiệp chưa gắn kết chặt chẽ với các ngành kinh tế khác; còn quá chú trọng vào lao động giá rẻ, chưa tận dụng tốt được lợi thế trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng...Mặc dù chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt nam được cải thiện từ thứ 76 năm 2012 lên 44 năm 2021, trình độ khoa học công nghệ nói chung của quốc gia nhìn chung còn khoảng cách so với nhóm đầu trong khu vực Đông Nam Á, trừ một số lĩnh vực có tốc độ đổi mới công nghệ khá nhanh, như công nghệ thông tin, dầu khí, hàng không, tài chính - ngân hàng..., nhiều doanh nghiệp vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới.
(3) Hiệu quả hoạt động của đa số doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thấp, nhiều dự án công nghiệp quy mô lớn thua lỗ; hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong nước là doanh nghiệp vừa và nhỏ; việc cơ cấu lại các ngành công nghiệp thực hiện còn chậm; năng lực cạnh tranh, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu còn rất hạn chế, sản xuất công nghiệp chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; chưa có ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò dẫn dắt; nhiều ngành công nghiệp ưu tiên phát triển không đạt mục tiêu đề ra; công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, tỉ lệ nội địa hoá của các ngành công nghiệp ở mức thấp. Hiện nay tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc ngành chế tạo ô tô đạt khoảng 5-20%, điện tử 10%, da giầy 30%, dệt may 30%.
(4) Sự phát triển công nghiệp diễn ra không đồng đều giữa các vùng dẫn đến di dân tự phát cùng với nhiều hệ lụy về mặt xã hội. Trình độ tay nghề của đa số lao động còn thấp không đáp ứng kịp thời yêu cầu chuyển nhanh sang phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, chuyển đổi số. Năm 2021, lao động qua đào tạo được cấp bằng, chứng chỉ mới chỉ đạt 21%.
(5) Tình trạng ô nhiễm môi trường do phát triển công nghiệp ngày càng trầm trọng, một số nơi đã trở thành nguyên nhân gây ra bất ổn xã hội. Chưa chú trọng đúng mức đến yêu cầu thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững. Khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, năng lượng còn lãng phí, kém bền vững. Phát triển một số ngành công nghiệp dẫn đến tăng nhanh phát thải khí nhà kính.
c. Nguyên nhân của các tồn tại, yếu kém
Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:
(1) Nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa có nơi, có lúc còn chưa đầy đủ, bị ảnh hưởng bởi tư duy và cách tiếp cận kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, lợi ích cục bộ, tư duy nhiệm kỳ, chưa tạo được nhận thức chung và quyết tâm hành động thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.
(2) Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển công nghiệp còn thiếu tổng thể, đồng bộ; chưa có nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương chuyên đề về phát triển công nghiệp. Chính sách phát triển công nghiệp có nhiều nội dung chưa sát với thực tế, không phù hợp; chưa gắn kết chặt chẽ với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và lợi thế quốc gia; chưa xác định đúng vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp; thiếu chính sách đủ mạnh để tăng cường năng lực doanh nghiệp công nghiệp tư nhân; chưa tạo lập được môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi, minh bạch, ổn định, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng; chính sách huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực cho phát triển công nghiệp thiếu hiệu quả, chưa có bước đột phá. Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Chính sách khoa học và công nghệ chưa trở thành động lực quan trọng nhất cho phát triển nhanh và bền vững ngành công nghiệp. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chậm được đổi mới.
(3) Cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực chậm đáp ứng yêu cầu CNH HĐH, hệ thống logistics chậm phát triển, chi phí cao ảnh hưởng lớn đến sự phát triển và khả năng cạnh tranh của công nghiệp và nền kinh tế. Năm 2021, chi phí logistics tại Việt Nam chiếm khoảng 16,8% GDP giá trị hàng hóa trong khi mức chi phí này trên thế giới hiện chỉ khoảng 10,6%. Mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia còn nhiều thách thức; các nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu, phải nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn; một số chỉ tiêu bảo đảm an ninh năng lượng đang biến động theo chiều hướng bất lợi. Hiệu quả khai thác, sử dụng năng lượng còn thấp. Cơ sở hạ tầng ngành năng lượng còn thiếu và chưa đồng bộ.
(4) Sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc của nhiều cấp uỷ còn thụ động, thiếu quyết liệt. Quản lý của Nhà nước đối với một số lĩnh vực công nghiệp còn bất cập, chồng chéo, có lúc bị buông lỏng, chưa quản lý và giám sát tốt về năng suất, chất lượng và hiệu quả đầu tư trong công nghiệp.
3. Bối cảnh mới
Trong giai đoạn mới nước ta tiến hành CNH HĐH trong bối cảnh có nhiều nhân tố mới so với giai đoạn trước, chính là:
(1) Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trên cơ sở đó, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã xây dựng và triển khai thực hiện một số chính sách nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông. Cơ sở hạ tầng viễn thông được xây dựng khá đồng bộ. Kinh tế số được hình thành, phát triển nhanh, ngày càng trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế; xuất hiện ngày càng nhiều hình thức kinh doanh, dịch vụ mới, xuyên quốc gia, dựa trên nền tảng công nghệ số và Internet đang tạo nhiều cơ hội việc làm, thu nhập, tiện ích, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Việc xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số được triển khai quyết liệt, bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực.
Trong giai đoạn tới Đảng ta chủ trương chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như một yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Phải nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội thông qua nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, nhất là một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới. Chủ động phòng ngừa, ứng phó để hạn chế các tác động tiêu cực, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn, công bằng xã hội và tính bền vững của quá trình phát triển đất nước.
(2) Biến đổi khí hậu là quá trình khách quan đang diễn ra nhanh chóng. Việt nam là một trong những nước được dự báo sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Vấn đề được đặt ra là quá trình CNH HĐH vừa phải đảm bảo thích ứng với biến đổi khí hậu vừa phải đảm bảo thực hiện các cam kết của Việt Nam về giảm phát thải khí nhà kính. Đồng thời, phải thực hiện bảo vệ môi trường sinh thái, quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Về các vấn đề này Đảng ta có chủ trương được nêu rõ trong Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được coi là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia, giám sát của toàn xã hội.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng. Vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản. Vừa bảo đảm toàn diện, vừa phải có trọng tâm, trọng điểm; có bước đi phù hợp trong từng giai đoạn; dựa vào nội lực là chính, đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lực hỗ trợ và kinh nghiệm quốc tế.
Ứng phó với biến đổi khí hậu phải được đặt trong mối quan hệ toàn cầu; không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững. Phải tiến hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, tránh thiên tai là trọng tâm.
Tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc biệt quan trọng để phát triển đất nước. Tài nguyên phải được đánh giá đầy đủ các giá trị, định giá, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ; khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh tài nguyên. Chú trọng phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo, vật liệu mới, tái chế.
Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Tăng cường bảo vệ môi trường phải theo phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững. Đặt yêu cầu phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển; không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế.
(3) Môi trường quốc tế có nhiều thay đổi. Một mặt, quá trình toàn cầu hóa tiếp diễn; mặt khác, cạnh tranh địa chính trị dẫn đến cạnh tranh kinh tế, sử dụng các ngày càng nhiều hơn các chính sách kinh tế, nhất là thương mại để cạnh tranh. Vấn đề đặt ra là một mặt phải tranh thủ các cơ hội của hội nhập để phát triển thị trường, huy động vốn đầu tư, công nghệ mới và kỹ năng quản lý tiên tiến, mặt khác phải chủ động và tích cực nâng cao tính tự chủ của quốc gia để giảm thiểu tác động bất lợi của cạnh tranh địa chính trị cũng như các biến động bất thường khác trên thị trường quốc tế.
Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII đã nêu rõ quan điểm của Đảng về vấn đề này. Nước ta chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh; đồng thời coi chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạng tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, miền, khu vực trong nước. Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước. Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia.
Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
(4) Thế và lực của đất nước và nền kinh tế đã được tăng cường. Nhu cầu CNH HĐH như một động lực để phát triển toàn diện đất nước và mỗi địa phương trở nên bức thiết. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề mới phát sinh. Trước hết cần tiếp tục tập trung giải quyết việc làm và thu nhập cho lực lượng lớn lao động tăng thêm hằng năm và rút bớt lao động từ nông nghiệp; đồng thời cần có chính sách để đối phó với tình trạng già hóa dân số, tranh thủ giai đoạn dân số vàng để phát triển. Quá trình CNH HĐH cũng phải giải quết tốt hơn vấn đề về công bằng và an sinh xã hội, trong đó có vấn đề phát triển đồng đều giữa các vùng miền.
4. Quan điểm và mục tiêu
A- Quan điểm chỉ đạo
(1) Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ có tính chất chiến lược làm nòng cốt thúc đẩy quá trình quá trình phát triển toàn diện và bền vững kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao nhanh hơn đời sống của nhân dân, tính tự chủ và vị thế của quốc gia trên trường quốc tế, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa có quan hệ mật thiết. Công nghiệp hóa là động lực, hiện đại hóa vừa là mục tiêu vừa là điều kiện để tiến hành công nghiệp hóa.
(2) Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở nhận thức đầy đủ, tôn trọng, vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, phù hợp với các điều kiện phát triển của đất nước trong bối cảnh mới; bám sát, kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển công nghiệp và kinh nghiệm công nghiệp hoá của thế giới. Tận dụng tối đa lợi thế của nước đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng và lợi thế của nước đi sau, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để có cách tiếp cận một cách hợp lý trong phát triển các ngành công nghiệp.
(3) Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, được tiến hành ở mọi địa phương trên cơ sở phát huy sự tham gia rộng rãi của nhân dân và mọi thành phần kinh tế. Nhà nước giữ vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế cho phát triển công nghiệp, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh công nghiệp thuận lợi, ổn định, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất trong công nghiệp.
B- Mục tiêu
(1) Mục tiêu tổng quát
- Đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
- Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại.
(2) Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2030
- Tỉ trọng công nghiệp trong GDP đạt trên 40%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 30%, trong đó công nghiệp chế tạo đạt trên 20%.
- Tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%.
- Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp đạt bình quân trên 8,5%/năm, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt bình quân trên 10%/năm.
- Tốc độ tăng năng suất lao động công nghiệp đạt bình quân 7,5%/năm.
- Tỉ lệ lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đạt trên 70%.
- Xây dựng được một số cụm liên kết ngành công nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp trong nước có quy mô lớn, đa quốc gia, có năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Kinh tế số chiếm trên 30% GDP. Hoàn thành xây dựng Chính phủ số. Hình thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung; từng bước kết nối với mạng lưới đô thị thông minh trong khu vực và thế giới.
5. Định hướng và giải pháp chính
Báo cáo chính trị và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030 đã được thông qua tại Đại hội XIII của Đảng đã nêu khá cụ thể về phương hướng, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết của BCH TW lần này cần cụ thể hóa chủ trương và nêu các giải pháp khả thi để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đang đặt ra trong quá trình thực hiện, có tính tới bối cảnh mới trong giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
5.1. Phương hướng điều chỉnh phát triển các ngành công nghiệp
a. Về phát triển công nghiệp
Cần làm rõ thêm một số vấn đề cụ thể như sau:
- Về quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong lựa chọn ngành công nghiệp ưu tiên. Nhiệm vụ của nhà nước là sớm hoàn thiện thể chế kinh tế tạo điều kiện để thị trường phát triển thông suốt, lành mạnh, đưa ra các tín hiệu đối với các ngành có lợi thế để phát triển. Việc lựa chọn ngành ưu tiên để có ưu đãi phát triển trước hết cần hướng theo các tín hiệu thị trường, không làm méo mó thị trường dẫn đến kém hiệu quả chung trong nền kinh tế.
- Về kết hợp giữa phát triển theo chiều sâu với phát triển theo chiều rộng. Nước ta đang trong thời kỳ dân số vàng và thời kỳ này không kéo dài. Do vậy, trong 10-15 năm tới vẫn nên tiếp tục khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động để một mặt tận dụng lợi thế này, mặt khác tiếp tục hướng tới mục tiêu tạo nhiều việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, rút bớt lao động nông nghiệp năng suất thấp, cải thiện đời sống của nhân dân. Đồng thời, từng bước phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, giá trị gia tăng cao để nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế.
- Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới, quy luật chung là ở giai đoạn đầu, các nước đều tích lũy, huy động nguồn lực từ nông nghiệp, nông thôn để công nghiệp hóa, đô thị hóa. Sau đó từng bước thay đổi, lấy công nghiệp và đô thị hỗ trợ, lôi kéo phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nước ta đang trải qua giai đoạn đầu, chuyển sang giai đoạn sau của quá trình phát triển theo quy luật đó. Cần chú trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp như sản xuất vật tư nông nghiệp, chế biến nông lâm thủy sản, giảm thiểu phụ thuộc vào nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu trong nước về phân bón, thuốc thú y, bảo vệ tực vật, thiết bị nông nghiệp, phụ gia chế biến nông sản…, giúp giảm giá thành, nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nông lâm thủy sản vốn là thế mạnh của nước ta. Hiện nay, tỷ lệ nhập khẩu các loại vật tư này còn quá cao, có loại 70-90% như nguyên liệu làm thuốc bảo vệ thực vật, thiết bị cơ khí nông nghiệp, động cơ lắp trên tầu cá…
- Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số là xu thế của thời đại. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nói chung nhưng cần chú trọng, ưu tiên phát triển các ngành ứng dụng công nghệ số, hướng đến thực hiện mục tiêu Bộ Chính trị tại Nghị quyết 52-NQ/TW
- Nâng cao khả năng tự chủ của nền kinh tế. Trước hết cần giảm thiểu phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu và số ít thị trường xuất khẩu. Tận dụng tối đa các nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước. Phát triển mạnh năng lượng tái tạo để giảm thiểu nhập khẩu nhiên liệu, nhất là than đá. Tập trung nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu và năng lượng. Đa dạng hóa thị trường nhập khẩu nguyên, nhiên liệu cũng như xuất khẩu hàng hóa.
b. Về phát triển các ngành kinh tế khác theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Bản thân ngành nông nghiệp cũng như hầu hết ngành kinh tế phi công nghiệp khác đều phát triển theo hai hướng: phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp và phát triển ứng dụng các mô hình tổ chức và quy trình sản xuất kinh doanh theo kiểu công nghiệp. Trong nông nghiệp có các nhà máy công nghiệp chế biến, sản xuất vật tư nông nghiệp, chăn nuôi công nghiệp đang dần chiếm ưu thế, xuất hiện ngày càng nhiều các khu sản xuất cây trồng trong nhà kính, nhà lưới, trên thực tế là các nhà máy cây trồng. Xu hướng khác cũng khá phổ biến là các hộ sản xuất nhỏ cũng chuyển dần sang ứng dụng các quy trình sản xuất theo kiểu công nghiệp, nhất là các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm. Xu hướng này cũng nên được khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi. Các cơ sở sản xuất nhỏ có thể không tận dụng được hiệu quả kinh tế quy mô nhưng lại linh hoạt thích ứng với điều kiện địa phương để giảm chi phí, tạo nhiều việc làm và thu nhập cho những người nông dân không có điều kiện sản xuất công nghiệp quy mô lớn hoặc thoát ly nông nghiệp.
c. Về phân bổ không gian
Kết hợp giữa tập trung và phân tán. Hiện nay đang có xu hướng hình thành một số vùng phát triển công nghiệp xung quanh các đô thị lớn, phát triển các khu, cụm công nghiệp. Xu hướng này cho phép tăng tốc phát triển công nghiệp trong điều kiện khả năng đầu phát triển cơ sở hạ tầng còn hạn chế. Tuy nhiên, phương thức phát triển này lại có mâu thuẫn với chủ trương phát triển bao trùm, hài hòa về mặt xã hội. Về lâu dài cần từng bước điều chỉnh chính sách, nhất là trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để tất cả các địa phương trong cả nước có điều kiện tham gia vào quá trình CNH, HĐH phù hợp với điều kiện thực tế, không quá tập trung và tạo ra áp lực xã hội vào một số khu vực.
5.2. Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển công nghiệp
Tạo lập môi trường thuận lợi để thu hút và phát triển các doanh nghiệp công nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình CNH HĐH. Tới nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành trên 20 Nghị quyết, Kết luận có hiệu lực thi hành về các chủ trương chính sách có liên quan tới CNH, HĐH. Cả hệ thống chính trị đã tích cực triển khai thực hiện và đã đạt được những kết quả nhất định. Vấn đề chính đặt ra là cần phải thể chế hóa, cụ thể hóa đồng bộ và tổ chức thực hiện tốt hơn
Một số đạo luật cần phải được xem xét sớm sửa đổi để tháo gỡ những bất cập, cản trở quá trình CNH, HĐH như Luật Đất đai; Luật Điện lực, Luật Khoáng sản… Nhiều văn bản dưới luật quy định chồng chéo, mâu thuẫn, không phù hợp với thực tiễn cũng cần được nhanh chóng rà soát, sửa đổi. Có gợi ý cần thành lập Ban chỉ đạo về vấn đề này để đảm bảo sự sửa đổi được triệt để, đồng bộ, tránh ảnh hưởng tư duy, lợi ích cục bộ ngành, địa phương.
Cần tiếp tục nỗ lực cải các hành chính gắn với xây dựng chính quyền điện tử, số hóa, tự động hóa, đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, giảm thiểu công sức, thời gian, nguồn lực chi cho việc thực hiện các thủ tục hành chính.
Đẩy nhanh việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp thông qua việc triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII. Phát triển các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong nước thực sự trở thành một động lực quan trọng cho phát triển công nghiệp đất nước trên cơ sở triển khai thực hiện quyết liệt Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp hỗ trợ thuộc mọi thành phần kinh tế.
Nghiên cứu tiếp tục đổi mới chính sách đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Chuyển mạnh chính sách thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp từ số lượng sang chất lượng và có trọng tâm, trọng điểm, tạo sự kết nối giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước, tránh cạnh tranh làm thui chột các doanh nghiệp trong nước, triệt tiêu sản xuất của các hộ nông dân và kinh doanh nhỏ.
5.3. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
Cần xác định nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quan trọng hàng đầu để xây dựng và phát triển nền công nghiệp cạnh tranh quốc tế hiệu quả. Do vậy, cần nghiêm túc nghiên cứu, thực hiện cơ chế, chính sách phát triển nhân lực công nghiệp, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt là yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động công nghiệp cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề làm cơ sở định hướng cho hệ thống đào tạo. Hoàn thiện cơ chế quản lý hệ thống đào tạo phù hợp hơn với cơ chế thị trường, áp dụng rộng rãi các kinh nghiệm tiên tiến về đào tạo nhân lực của thế giới.
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách bảo đảm phúc lợi xã hội cho người lao động trong lĩnh vực công nghiệp, bao gồm cả chính sách về tiền lương, bảo hiểm, bảo hộ lao động theo nguyên tắc thị trường.
5.4. Chính sách khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo
Đảng ta đã có nhiều văn bản xác định rõ vai trò, vị trí, chủ trương, chính sách về phát triển khoa học công nghệ và đã tích cực triển khai thực hiện, đạt nhiều tiến bộ tích cực thể hiện thông qua thực tiễn trong nước và đánh giá quốc tế. Tuy nhiên, sự đổi mới và phát triển của khoa học công nghệ còn bất cập so với yêu cầu đổi mới và phát triển của Đất nước. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng tập trung vào 2 nguyên nhân chính là: i/ Cơ chế quản lý còn nhiều bất cập và chậm đổi mới, nhất là cơ chế tài chính, không chỉ trong khâu nghiên cứu mà cả chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghê; ii/ Đầu tư ngân sách còn quá thấp mặc dù có lúc chậm giải ngân kinh phí đã giao.
Đề nghị lần này Ban Chấp hành Trung ương có chỉ đạo đổi mới mạnh mẽ, toàn diện tạo điều kiện nâng cao nhanh trình độ khoa học công nghệ của quốc gia, trong đó đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ công nghệ của các tổ chức, các nhân trong nước. Cần thiết phải gấp rút điều chỉnh các quy định luật pháp về quản lý khoa học công nghệ, cơ chế, chính sách tài chính có liên quan có tham khảo kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới. Nhà nước có cách nhìn nhận phù hợp hơn về hiệu quả đầu tư cho khoa học công nghệ để mạnh dạn tăng đầu tư ngân sách cho khoa học công nghệ. Nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu quả cho cả xã hội của đầu tư cho khoa học công nghệ cao không thua kém mà trong nhiều trường hợp còn cao hơn đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Một công trình thủy lợi có thể giúp tăng năng suất cây trồng cho vài chục nghìn hộ nông dân, một giống cây trồng tốt cũng giúp tăng năng suất cây trồng nhưng cho số lượng hộ nông dân lớn hơn nhiều và giúp phát huy cao hơn năng lực của công trình thủy là một ví dụ.
5.5. Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu
Nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết là của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hạ tầng năng lượng và giao thông và viễn thông. Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực quốc gia. Chú trọng hơn tới phát triển hạ tầng phục vụ chuyển đổi số quốc gia; phát triển hệ thống logistics hiện đại.
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phải đi đôi với cơ chế quản lý, khai thác bền vững phù hợp với cơ chế thị trường, giảm thiểu sự bao cấp, trừ những trường hợp đảm bảo công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách huy động sự tham gia của nhân dân và doanh nghiệp tư nhân vào xây dựng và quản lý, vận hành cơ sở hạ tầng.
Chú trọng công tác quy hoạch đảm bảo sự phát triển cơ sở hạ tầng có tầm nhìn phù hợp, có trọng tâm trọng điểm, kết nối, thông suốt, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển liên kết vùng, tránh phân tán, dàn trải. Trước hết, cần ưu tiên đầu tư tháo gỡ ách tắc cho các trung tâm công nghiệp hiện có, phát triển năng động.
5.6. Chính sách khai thác tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu
Thời gian qua, Đảng ta đã có một số đổi mới trong quản lý tài nguyên thiên nhiên và đã tạo ra nhưng thay đổi quan trọng, tích cực trong quản lý đất đai, nguồn nước, rừng, biển, khoáng sản. Tuy vậy, vẫn còn nhiều bất cập. Hội nghị lần thứ V của BCH TW khóa XIII đã bàn và có quyết sách về đổi mới chính sách quản lý đất đai; Quốc hội đã sửa đổi luật về quản lý lâm nghiệp, thủy sản, tài nguyên nước, môi trường. Vấn đề chính cụ là phải cụ thể hóa và tổ chức thực hiện hiệu quả.
Cần tiếp tục rà soát, điều chỉnh chính sách quản lý khoáng sản theo hướng phù hợp hơn với cơ chế thị trường, đồng thời tính tới yêu cầu phát triển bền vững và đảm bảo công bằng xã hội.
Rà soát chiến lược phát triển công nghiệp và các ngành kinh tế xã hội đáp ứng đồng thời các yêu cầu bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính. Có chính sách phù hợp khuyến khích nhân dân và doanh nghiệp tham gia thực hiện cùng với Nhà nước, chủ yếu là các cơ chế thị trường. Chính sách có tính chất bao cấp thường ngắn hạn, thiếu nguồn lực nên thực hiện được rất ít. Chính sách giảm phát thải khí nhà kính chỉ thành công khi người dân và doanh nghiệp được hưởng lợi từ việc tham gia thực hiện các biện pháp đề ra. Nhà nước tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng công cộng, hỗ trợ phát triển nhân lực và khoa học công nghệ. Rà soát, sửa đổi các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường của các ngành công nghiệp; quy định rõ trách nhiệm bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất công nghiệp và có chế tài xử lý nghiêm vi phạm. Xây dựng chính sách khuyến khích phát triển mạnh ngành công nghiệp môi trường; đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường.
5.7. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ đảng và chính quyền về vai trò và nội dung của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xác định việc xây dựng và tổ chức thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nội dung lãnh đạo trung tâm của các cấp uỷ đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp. Thực hiện cơ cấu lại hệ thống quản lý công nghiệp từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tập trung, thông suốt, hiệu quả, có phân công, phân cấp rõ ràng. Thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương trong hoạch định và thực thi chính sách; khắc phục kịp thời tình trạng không thống nhất, thực thi kém hiệu quả các quy định pháp luật.
Mở rộng sự tham gia thiết thực, có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các đối tượng chịu tác động của chính sách vào quá trình hoạch định và giám sát thực thi chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kiên quyết chống lợi ích nhóm, quan hệ thân hữu, tham nhũng, lãng phí trong xây dựng và thực thi chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa./.
TS. Cao Đức Phát
Thành viên tiểu ban kinh tế, HĐLLTƯ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. năm 1991. dangcongsan.vn
2. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). dangcongsan.vn
3. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. chinhphu.vn
4. Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 6 tháng 6 năm 2013 của Ban chấp hành Trung ương khóa XII về chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng cường quả lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. dangcongsan.vn
5. Kết luận số 56-KL/TW ngày 23 tháng 8 năm 2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tai nguyên và bảo vệ môi trường. dangcongsan.vn
6. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ chính trị về hội nhập quốc tế. dangcongsan.vn
7. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. dangcongsan.vn
8. Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. dangcongsan.vn
9. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. dangcongsan.vn
10. GS. TS. Trần Thị Vân Hoa (Chủ biên): Hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020.
11. Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ. Báo cáo: Năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ đánh giá của nhà đầu tư nước ngoài và Báo cao năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của Diễn đàn Kinh tế tthees giới. Hà Nội, tháng 3 năm 2021.
12.WIPO. Global Innovation Index 2021: Tracking Innovation through the COVID-19 Crisis.
13. Lê Xuân Định. Tạo đột phá để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước nhanh, bền vững. Tạp chí công sản, Hà Nội, 2022.
14. Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Báo cáo thường niên về đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Hà Nội, 2021.