Sự phát triển toàn diện về nhận thức, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân quan 40 năm đổi mới là đòi hỏi khách quan của công cuộc xây dựng CNXH và BVTQ Việt Nam XHCN trong bối cảnh cách mạng KH&CN hiện đại, toàn cầu hóa và HNQT
Mục tiêu xây dựng nền QPTD nhằm xây dựng nền quốc phòng là tự vệ, phòng thủ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội XHCN, nền văn hóa, bảo vệ công cuộc đổi mới, lợi ích quốc gia dân tộc, vị thế, uy tín quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước và hội nhập quốc tế thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH và BVTQ Việt Nam XHCN.
Quan điểm xây dưng nền QPTD là: Sức mạnh phòng thủ đất nước là sức mạnh tổng hợp (SMTH). Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của khối đại đoàn kết toàn dân; kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong xây dựng nền QPTD, nền ANND, Đảng ta xác định, xây dựng sức mạnh tổng hợp nền QPTD, nền ANND về chính trị, tư tưởng, KT-XH, VH, QP, AN, đối ngoại; của khối đại đoàn kết dân tộc, của cả hệ thống chính trị Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; lấy xây dựng, phát triển “nội lực bên trong là nhân tố quyết định, nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”[1]. Sẵn sàng đánh thắng mọi loại hình chiến tranh xâm lược, mọi hoạt động phá hoại, xâm phạm, nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến”[2]; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và phát triển. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Thực hiện chính sách bốn không: “không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”[3] trên tinh thần Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy, thành viên tích cực, trách nhiệm trong cồng đồng quốc tế.
Nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ được bao đảm toàn diện về tiềm lực, lực lượng và xây dựng thế trận QPTD.
Xây dựng tiềm lực quốc phòng là toàn bộ các hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong động viên và phát huy mọi nguồn lực ở trong nước và ngoài nước nhằm tăng cường sức mạnh QPTD, bảo vệ Tổ quốc cả ở thời bình và thời chiến. Từ nhận thức đó, Đảng ta xác định, xây dựng tiềm lực QPTD phải toàn diện; kết hợp chặt chẽ các tiềm lực chính trị, tinh thần; kinh tế, văn hóa, xã hội; KH-CN; đối ngoại và quân sự, an ninh trong một thể thống nhất. Các tiềm lực đó được xây dựng từ thời bình, chuyển hóa năng động, có hiệu quả khi có chiến tranh.
Xây dựng lực lượng QPTD toàn dân, tập trung củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Chú trọng xây dựng các lực lượng chuyên trách, lực lượng kiêm nhiệm và lực lượng rộng rãi trong các cấp, các ngành, các lĩnh vực, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và điều kiện của từng vùng, miền, địa phương trên cả nước. Xây dựng LLVT nhân dân (Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và dân quân tự vệ) tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, với Đảng, Nhà nước; là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền QPTD, nền ANND, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển, lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự.
Xây dựng thế trận QPTD trong thời bình, vận hành có hiệu quả khi có chiến tranh. Tập trung xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; Kết hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với QP, AN và giữa QP, AN với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại; Xây dựng quân khu vững mạnh toàn diện, hợp thành thế phòng thủ đất nước; Xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc; xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận ANND. Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống.
Giải pháp xây dựng nền QPTD bảo đảm đồng bộ, thống nhất, nhất quán. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QPAN, nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân, cả hệ thống chính trị về thực hiện nhiệm vụ tăng cường, củng cố QP, AN, bảo vệ Tổ quốc; kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, KH-CN với tăng cường, củng cố QP, AN; xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, tăng cường nguồn lực, tạo cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại cho lực lượng Quân đội và Công an; nâng cao chất lượng LLVT nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ cả thời bình và khi có chiến tranh; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động tạo môi trường hòa bình, ổn định cho xây dựng, củng cố QP, AN, bảo vệ Tổ quốc Việt nam XHCN trong tình hình mới.
Trong từng giải pháp, đã xác định cụ thể, rõ ràng các cách thức, biện pháp thực hiện; có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng về trách nhiệm của các lực lượng, các thành phần trong xây dựng nền QPTD. Đồng thời, có chính sách để tạo động lực cho các tổ chức, lực lượng trong tổ chức thực hiện. Để xây dựng nền QPTD, nền ANND, đáp ứng yêu cầu BVTQ, với tư duy mới được thể hiện ở Chiến lược BVTQ trong thời kỳ mới.
40 năm qua, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương đã phát huy sức mạnh tổng hợp, huy động hiệu quả các nguồn lực xây dựng, củng cố nền QPTD vững mạnh, góp phần tăng cường tiềm lực QPAN trong tình hình mới.
Hệ thống pháp luật, các chiến lược, đề án về quân sự, QP, AN đã được ban hành và triển khai thực hiện đồng bộ các chiến lược quan trọng; chủ động đánh giá đúng tình hình, dự báo chiến lược, đề xuất nhiều chủ trương, chiến lược, giải pháp phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ BVTQ, như: Chiến lược BVTQ, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia… Các nghị quyết đã được phổ biến, quán triệt, thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho các ban, bộ, ngành, địa phương, đơn vị thực hiện.
Chủ động điều chỉnh quy hoạch tổng thể về bố trí quốc phòng; hoàn chỉnh các phương án sơ tán các ban, bộ, ngành Trung ương phù hợp với tác chiến khi có tình huống và phù hợp với Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự Việt Nam. Đồng thời, kết hợp có hiệu quả QP, AN với kinh tế, văn hóa - xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng trên 3 vùng chiến lược và chủ trương về dân sự hóa Quần đảo Trường Sa.
Xây dựng "thế trận lòng dân" làm nền tảng phát huy sức mạnh của cả dân tộc. “Tiềm lực QP, AN được tăng cường; thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận QPTD và thế trận ANND, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm”[4] được củng cố gắn liền với quy hoạch tổng thể của quốc gia, của các địa phương, theo hướng kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ, kết hợp kinh tế với QP, AN và QP, AN với kinh tế; bảo đảm an ninh kinh tế, văn hóa và xã hội, coi trọng an ninh chính trị nội bộ. Tích cực xây dựng hệ thống chính trị các cấp vững mạnh, nhất là cấp cơ sở ở các địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Phong trào toàn dân tham gia củng cố QPAN được đẩy mạnh và ngày càng có hiệu quả. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, không để xảy ra biến động chính trị, giải quyết kịp thời, hiệu quả các hoạt động gây rối, bạo loạn ở một số địa bàn trọng điểm.
Thế trận QPTD, thế trận ANND được quan tâm xây dựng, triển khai chặt chẽ và thống nhất; thực hiện có hiệu quả việc điều chỉnh chiến lược về bố trí thế trận, tạo thế chiến lược BVTQ. Xây dựng nền QPTD, nền ANND trên các nội dung: Xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng vững chắc phát huy sức mạnh của toàn dân tộc; nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị. Phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn dân tộc, các tầng lớp nhân dân đã nêu cao ý thức xây dựng QPTD, nền ANND theo chức năng, nhiệm vụ, thực hiện quyền và nghĩa vụ BVTQ. Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Công an trong tổ chức phòng thủ dân sự. Xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận ANND tạo thành thế liên hoàn, vững chắc, phát huy được sức mạnh của các lực lượng, kết hợp các hình thức hoạt động vũ trang và phi vũ trang, tạo được khả năng cơ động linh hoạt, độc lập và phối hợp tác chiến.
Triển khai thực hiện tốt việc xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc. Các nội dung về kinh tế, văn hóa, xã hội, KH-CN, chính trị-tinh thần của khu vực phòng thủ đã được dần cụ thể hóa trong thực tiễn, được chú trọng quan tâm, tạo nên sự vững mạnh cho các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, thế trận phòng thủ quân khu, tạo nên thế trận QPTD, thế trận ANND gắn với thế trận lòng dân vững chắc. Hệ thống các công trình quốc phòng, phòng thủ dân sự, đường giao thông huyết mạch của cả nước và của từng tỉnh, thành phố được mở rộng; hệ thống cảng biển, sân bay, kho tàng được được nâng cấp và xây dựng mới vừa đáp ứng yêu cầu về KT-XH trong thời bình vừa phục vụ QP, AN khi xảy ra các tình huống về QP, AN.
Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP, AN trên cơ sở Luật giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2013 ngày càng được triển khai rộng rãi, tổ chức thực hiện có nền nếp, hiệu quả. Hội đồng giáo dục QP, AN được kiện toàn ở các cấp và hoạt động có hiệu quả; ban hành hệ thống văn bản của các bộ, liên bộ, các ngành triển khai thực hiện Luật Giáo dục QP, AN, Nghị định 13/NĐ-CP của Chính phủ; biên soạn hệ thống giáo trình, tài liệu... Trên cơ sở đó, nâng cao ý thức trách nhiệm và tính tự giác trong thực hiện nhiệm vụ QP, AN phù hợp với điều kiện sống, học tập, làm việc của mỗi người dân.
Sự phối hợp giữa quân đội và công an theo Quyết định 107/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện nhiệm vụ QP, AN, Nghị định số 77/NĐ-CP và nay là Nghị định số 03/2019/NĐ-CP về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng được tăng cường ở tất cả các cấp và có hiệu quả thiết thực. Thực hiện có hiệu quả điều chỉnh chiến lược về bố trí thế trận; gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, tạo nên thế trận QPTD kết hợp với thế trận ANND ngày càng vững chắc. Chủ động, tích cực phối hợp chỉ đạo xây dựng kế hoạch, chuẩn bị chu đáo lực lượng, phương tiện, thực hiện tốt nhiệm vụ ứng phó với các tình huống an ninh phi truyền thống.
Cơ chế lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với QP, AN được xây dựng và vận hành có hiệu quả; sự kết hợp giữa quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH với củng cố QP, AN trong cả nước, từng địa phương và một số địa bàn chiến lược chặt chẽ hơn. Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị-xã hội trong thực hiện nhiệm vụ QP, AN được xác định rõ hơn, hiệu quả hoạt động của thực hành các cơ chế lãnh đạo về quốc phòng, quân sự có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào củng cố QP, AN và xây dựng khu vực phòng thủ ở từng địa phương trong cả nước.
Thực hiện việc rà soát, bổ sung các nội dung lãnh đạo về QPAN, cơ chế hoạt động và trách nhiệm phối hợp của từng cấp, từng ngành, từng địa phương liên quan đến hoạt động QPAN, đặc biệt khi xử trí các tình huống phức tạp. Phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các ngành, các địa phương triển khai nhiều biện pháp chủ động phòng ngừa và tích cực tiến công làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”; ngăn chặn, xử lý đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả các tình huống. Quan tâm củng cố, xây dựng cả về số lượng, chất lượng cho cơ quan, cán bộ làm công tác tham mưu, giúp việc về công tác QP, AN cho cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, các địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, xay dựng nền QPTD còn một số tồn tại, hạn chế, khó khăn.
Nhận thức về xây dựng nền QPTD, nền ANND; thế trận QPTD với thế trận ANND của một số cán bộ, đảng viên trong các cấp, các ngành chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với củng cố QPAN, bảo vệ Tổ quốc. Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ và nhân dân chưa nhận thức rõ về mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ với bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ; về đối tác, đối tượng, về hợp tác và đấu tranh quốc phòng chưa theo kịp sự phát triển của tình hình. Nhận thức của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là học sinh, sinh viên, của các cấp, các ngành về xây dựng tiềm lực QPAN có lúc, có nơi chưa đầy đủ, ở một số địa bàn còn có những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội. Sự phối hợp giữa AN và QP trong việc giải quyết một số vấn đề cụ thể thiếu chặt chẽ. Trong xây dựng, củng cố quốc phòng còn những vấn đề bất cập QPAN chưa được tăng cường đúng mức, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu chưa cao. “Kết hợp giữa phát triển kinh tế với bảo đảm QP, AN trên một số lĩnh vực, địa bàn chưa thực sự nghiêm túc, chặt chẽ, hiệu quả”[5].Thế trận QPTD gắn với thế trận ANND có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, đồng bộ; nhận thức về xây dựng thế trận lòng dân BVTQ xã hội chủ nghĩa còn có mặt hạn chế. “Tình trạng di dân tự phát, tội phạm, tệ nạn xã hội, an ninh trật tự ở một số địa bàn có thời điểm chưa được kiểm soát, quản lý chặt chẽ”[6].
Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và thể chế hóa các chỉ thị, nghị quyết, chiến lược của một số cấp ủy ban, bộ, ngành, địa phương và đơn vị có mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác quản lý nhà nước và phát huy tiềm lực QP, AN cũng còn những hạn chế, bất cập; việc phối hợp giữa các lực lượng trong xây dựng, củng cố QP, AN chưa thật tốt, chưa phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong việc xây dựng và củng cố tiềm lực QP, AN. Công nghiệp QP, AN chưa đáp ứng yêu cầu trang bị hiện đại cho LLVT.
Việc vận hành cơ chế lãnh đạo, quản lý QP, AN, xây dựng nền QPTD, nền ANND còn gặp khó khăn và có những bất cập. Việc phát huy trách nhiệm của hệ thống chính trị, của toàn dân đối với nhiệm vụ xây dựng nền QPTD, nền ANND còn hạn chế, nhất là việc kết hợp phát triển KT-XH với cường QP, AN.
Việc quán triệt các chỉ thị, nghị định của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về giáo dục QP, AN chưa thật sâu rộng, điều kiện vật chất, trang thiết bị bảo đảm cho công tác giáo dục QP, AN còn thiếu, chưa đồng bộ, lạc hậu. Một số bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, chỉ đạo công tác giáo dục QP, AN; chất lượng công tác giáo dục QP, AN cho học sinh, sinh viên còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Việc xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp, còn nhiều vấn đề bất cập về cơ chế, chính sách gây nhiều ảnh hưởng đến xây dựng nền QPTD, nền ANND trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng còn nhiều bất cập. Chất lượng tổng hợp của lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ còn có mặt hạn chế, yếu kém.
Xây dựng nền QPTD BVTQ Việt Nam XHCN từ sớm, từ xa phải luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vững mạnh làm nòng cốt vững chắc. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động, mở rộng quan hệ, hợp tác và hội nhập quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên SMTH xây dựng nền QPTD./.
Thiếu tướng, PSG, TS Vũ Văn Nhiên
Chủ nhiệm Khoa Lý luận Mác- Lênin - HVQP
[1] Bộ Quốc phòng, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam, Nxb CTQGST, HN, 2019, tr.22 - tr.23
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, HN, 2016, tr.149
[3] Bộ Quốc phòng, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam, Nxb CTQGST, HN, 2019, tr.25
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tr.68.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, tr.76.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, tr.77.