Ngoại giao văn hóa thực chất là hoạt động trong quan hệ quốc tế nhằm trao đổi các giá trị văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc để mang tới sự hiểu biết lẫn nhau và làm tiền đề cho việc giải quyết các nội dung nhiệm vụ công tác khác như chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh. Trong chính sách ngoại giao của bất cứ các quốc gia nào trên thế giới, ngoại giao văn hóa luôn được coi là một trong những nhiệm vụ cơ bản, không thể thiếu, một trong những nội dung chính yếu góp phần mang lại sức mạnh cho dân tộc cũng như bản sắc nền ngoại giao của quốc gia.
Khai mạc những ngày văn hóa Nga tại Việt Nam (ảnh tư liệu)
1. Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng nhận thức rõ và sâu sắc hơn vai trò, vị trí, tầm quan trọng của văn hóa và ngoại giao văn hóa trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Bước vào thời kỳ Đổi mới, Đảng ta xác định ba nhiệm vụ cơ bản trong suốt thời kỳ xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là: Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần cho xã hội. Từ thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước, Đảng ta đã tổng kết thực tế, khái quát và phát triển những vấn đề lý luận mới để nhận thức ngày càng rõ hơn thực chất, cũng như vai trò, vị trí của mỗi yếu tố trụ cột chính sách đó, trong đó có yếu tố văn hóa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011), đã chỉ ra mục tiêu, nhiệm vụ của văn hóa: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 75-76). Nghị quyết Hội nghị Trung 9 khóa XI, ngày 9-6-2014 tiếp tục nhấn mạnh: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2011-2015, Nxb CTQG, H, 2016, tr. 143) .Việc khẳng định, văn hóa phải trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, cũng chính là tiếp nối, kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò vô cùng quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội, như Người đã khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Nói cách khác, văn hóa cũng chính là một trong những động lực quyết định cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Ngày nay, chúng ta đang đứng trước một thế giới với những biến đổi nhanh chóng, không ngừng và phức tạp khó lường. Cuộc các mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ số đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất, nhất là ở những quốc gia có nền công nghiệp phát triển hiện đại. Đến lượt nó, những yếu tố này lại trở thành điều kiện như động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa trở nên mạnh mẽ không chỉ đối với kinh tế mà thực chất đã mở rộng ra hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống con người, thậm chí lan tới cả các lĩnh vực tự nhiên trong môi trường sống của loài người. Trong bối cảnh chung ấy, muốn hay không muốn, tất yếu các quá trình kinh tế - xã hội của nước ta, trong đó có văn hóa sẽ chịu những tác động ngày càng mạnh mẽ, nhiều chiều, nhiều tính chất, mức độ khác nhau từ bên ngoài. Cũng vì thế, chính sách hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta vừa là kết quả sự nhận thức đúng đắn tính chất của thời đại để thích ứng với những điều kiện thực tiễn đã thay đổi, đồng thời cũng là thể hiện sự chủ động tham gia vào các tiến trình quốc tế, bảo vệ tốt nhất các lợi ích quốc gia, dân tộc, đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào xu hướng hòa bình, dân chủ, tiến bộ. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị...;hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, VPTW, H, 2016, tr. 155-156).
Nếu chính sách đối nội và chính sách đối ngoại gắn bó hữu cơ với nhau, là điều kiện và sự hỗ tương lẫn nhau thì ngoại giao văn hóa cũng có tầm quan trọng to lớn trong tổng thể chính sách ngoại giao nói riêng và toàn bộ chính sách quốc gia nói chung. Ngoại giao văn hóa được Đảng, Nhà nước ta xác định là một trụ cột, cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế tạo thành ba trụ cột chính yếu của toàn bộ hoạt động ngoại giao. Ba trụ cột này gắn bó chặt chẽ với nhau, làm tiền đề, điều kiện chi phối, tác động thúc đẩy lẫn nhau và quyết định hiệu quả cuối cùng của chính sách đối ngoại của quốc gia.
Chiến lược Ngoại giao Văn hóa đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định số 208/2011/QĐ-TTg, ngày 14-2-2011 nêu quan điểm: “Ngoại giao văn hóa cùng với ngoại giao kinh tế và ngoại giao chính trị là ba trụ cột của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại Việt Nam. Ba trụ cột này gắn bó, tác động lẫn nhau, góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Ngoại giao chính trị có vai trò định hướng, ngoại giao kinh tế là nền tảng vật chất và ngoại giao văn hóa là nền tảng tinh thần của hoạt động đối ngoại”. Nhìn nhận từ yêu cầu chính sách hội nhập quốc tế, Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng yêu cầu, “hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế”. Thực chất, việc xác định hội nhập kinh tế là trọng tâm cũng có nghĩa là đặt lên hàng đầu việc thúc đẩy các tiến trình kinh tế từ sản xuất, trao đổi hàng hóa, các dịch vụ tài chính, ngân hàng của đất nước mở rộng quy mô, phát triển các mối quan hệ quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị chung toàn cầu, thông qua đó phát triển nền kinh tế của đất nước. Như vậy, hội nhập kinh tế là trọng tâm không chỉ phản ánh tính mục đích, thể hiện cốt lõi của lợi ích dân tộc mà còn chi phối vai trò và mối quan hệ qua lại giữa ba trụ cột ngoại giao - kinh tế, chính trị và văn hóa. Phù hợp với yêu cầu ấy, ngoại giao kinh tế cũng giữ vị trí quan trọng, là trọng tâm trong hoạt động ngoại giao. Mặt khác, khi coi ngoại giao kinh tế là trọng tâm không có nghĩa là hạ thấp vai trò của ngoại giao văn hóa. Ngược lại, với tính chất là yếu tố đóng vai trò sức mạnh mềm của quốc gia, chính văn hóa phải trở thành lực lượng dẫn đường, điều kiện cần thiết và các yếu tố tích cực cho việc thực hiện mục tiêu ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị.
2. Nói đến ngoại giao văn hóa là nói đến hai chiều trao đổi, chi phối lẫn nhau: Chiều thứ nhất, đưa các giá trị văn hóa Việt Nam đến với thế giới; chiều thứ hai, tiếp nhận các giá trị văn hóa tích cực của các dân tộc, quốc gia trên thế giới. Ngoại giao văn hóa là một bộ phận của hoạt động ngoại giao nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ, với toàn bộ các hoạt động kinh tế, văn hóa và đối ngoại của đất nước. Đảng, Nhà nước ta chủ trương chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa trên cơ sở sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị và toàn dân; đồng thời vừa hợp tác vừa đấu tranh để tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại và ngăn chặn những giá trị văn hóa độc hại, những biểu hiện văn hóa tiêu cực.
Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014 của Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã chỉ ra một trong 6 nhiệm vụ trong tâm là: “Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Nghị quyết chỉ rõ: “Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2011-2015, Sđd, tr. 149).
Nội dung văn hóa dân tộc rất phong phú, bao gồm một tổng thể những thành tựu sáng tạo như kiến trúc, văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, luật pháp, phong tục, tập quán, lối sống, v.v.. Yêu cầu đặt ra đối với ngoại giao văn hóa là chuyển tải được những giá trị tốt đẹp, thành tựu sáng tạo đặc sắc riêng có của dân tộc, của đất nước để làm cho nhân dân các nước trên thế giới hiểu biết ngày càng rõ hơn về đất nước, con người Việt Nam. Mặt khác, đó cũng chính là cách để xây dựng hình ảnh đất nước tốt đẹp, tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hợp tác, đầu tư phát triển kinh tế, mở mang các quan hệ chính trị có lợi cho dân tộc. Ở chiều ngược lại, việc tiếp thu các tinh hoa văn hóa của nhân loại không chỉ nhằm làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, mà còn là vấn đề có tính quy luật phát triển của mọi quốc gia trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, trong môi trường toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, với những mối quan hệ quốc tế vô cùng phức tạp, sự chọn lọc để tiếp thu được những tinh hoa văn hóa đích thực, những giá trị văn hóa tích cực, phù hợp với yêu cầu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cũng là một vấn đề không thể xem nhẹ. Đồng thời, việc tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa không tách rời yêu cầu đấu tranh, ngăn ngừa các giá trị văn hóa độc hại, những biểu hiện văn hóa tiêu cực, trái với thuần phong, mỹ tục, ảnh hưởng xấu đến lối sống và giáo dục nhân cách con người Việt Nam. Nói cách khác, như Nghị quyết 33 đã chỉ rõ: “Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn chế, khắc phục những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2011-2015, Sđd, Tr. 149-150).
Ngoại giao văn hóa dựa trên cơ sở chung là đường lối của Đảng, trong đó chủ yếu và trực tiếp là đường lối về xây dựng, phát triển nền văn hóa và đường lối đối ngoại. Xác định nội dung đường lối của Đảng về văn hóa, Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, sửa đổi năm 2011) chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn hiện Đại đội toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 75-76). Về đường lối đối ngoại của Đảng, Cương lĩnh 2011 cũng chỉ ra rằng: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh; là bạn đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn hiện Đại đội toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 83-84). Như vậy, ngoại giao văn hóa là một bộ phận cấu thành của toàn bộ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nó gắn bó hữu cơ và quan hệ tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau với các bộ phận công tác của lĩnh vực ngoại giao, các lĩnh vực hoạt động khác của công cuộc đổi mới, nhất là với hoạt động ngoại giao kinh tế, chính trị, với hoạt động văn hóa trong nước.
3. Ngoại giao văn hóa trải ra trên một phổ rất rộng, bao gồm rất nhiều hoạt động phong phú trên nhiều lĩnh vực, trên các địa bàn rộng lớn trong nước, trong khu vực và trên khắp thế giới. Để đảm bảo hiệu quả thực tế, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hoạt động ngoại giao văn hóa cần phải huy động được lực lượng đông đảo, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân, phải được tổ chức chặt chẽ, hoạt động khoa học, có bước đi hợp lý và nhằm tới hiệu quả thực chất. Đặc biệt, phải phối hợp nhịp nhàng giữa ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân, phát huy được tiềm năng, sức mạnh và sự sáng tạo của nhân dân cộng hưởng với hoạt động chuyên nghiệp của ngoại giao nhà nước. Đồng thời, phải nhanh chóng hoàn thiện thể chế với việc xây dựng và đổi mới một cách đồng bộ hệ thống chính sách, những quy định chế độ liên quan đến ngoại giao văn hóa.
Ngoại giao văn hóa trước hết là trách nhiệm của cơ quan ngoại giao, đối ngoại của đất nước. Hơn ai hết, đó là những cơ quan và đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, có tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm và hàng ngày, hàng giờ đang trực tiếp hoạt động, thực thi các nhiệm vụ công tác ngoại giao nói chung, trong đó có ngoại giao văn hóa. Phải chăng chính cơ quan ngoại giao phải trở thành nhạc trưởng, người khởi xướng và chọn lọc các ý tưởng, kết nối sức mạnh các nguồn lực để thực hiện có hiệu quả chiến lược ngoại giao văn hóa. Tuy nhiên, nếu không có vai trò của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của nhân dân, ngoại giao văn hóa không thể mang lại kết quả như mong muốn. Trên thực tế, mỗi công dân Việt Nam ra nước ngoài, cho dù với tư cách gì, làm công việc gì, đều là một đại sứ văn hóa của đất nước. Trong con mắt của bạn bè, họ là người Việt Nam nên đương nhiên đại diện cho văn hóa Việt Nam, hình ảnh Việt Nam. Ngay cả khi sống và làm việc trên đất nước mình, không phải ai khác, chính mỗi người dân, mỗi địa phương, con đường, địa điểm du lịch cũng chính là đại diện cho lối sống, tầm vóc văn hóa dân tộc trong con mắt của những người khách du lịch quốc tế. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 154).
Ngoại giao văn hóa phải phát huy được sức mạnh nhân dân và mọi lực lượng trong xã hội, trong đó quan tâm thích đáng đến vai trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, những người không chỉ sáng tạo ra các giá trị văn hóa mà còn có khả năng truyền bá một cách thuyết phục các giá trị văn hóa của đất nước đến với bạn bè thế giới. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI còn yêu cầu quan tâm đến lực lượng trí thức, văn nghệ sỹ và bà con người Việt Nam ở nước ngoài, có chính sách thích hợp để phát huy khả năng của họ tham gia vào đời sống văn hóa của đất nước, duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, làm cầu nối văn hóa Việt Nam với thế giới. Nghị quyết nêu rõ: “Phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sỹ người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước, trở thành cầu nối quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam. Chú trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2011-2015, Sđd, tr.149).
Để đảm bảo cho hoạt động ngoại giao văn hóa phải có nguồn lực tương xứng. Yêu cầu đặt ra là, “mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế”. Cùng với nguồn đầu tư của Nhà nước, cần đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động sự đóng góp của nhân dân, các doanh nghiệp, thu hút các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng phục vụ cho mục đích ngoại giao văn hóa. Nhà nước đầu tư “Xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài” làm cơ sở nòng cốt cho việc mở rộng các hoạt ngoại giao văn hóa phong phú khác.
Như bất cứ loại hình hoạt động nào, hiệu quả của ngoại giao văn hóa phụ thuộc một phần rất quan trọng vào thể chế. Hơn thế nữa, điều kiện hoạt động của ngoại giao văn hóa lại rất phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp nhiều ngành, nhiều cấp và liên quan đến nhiều yếu tố nước ngoài. Vì thế, chỉ có một thể chế tốt, trên cơ sở đó tạo ra hệ thống hành lang pháp lý thuận lợi, một cơ chế vận hành thông thoáng và những chế độ, chính sách cởi mở, hợp lý mới có thể phát huy được sức mạnh của mọi lực lượng xã hội, mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đặt ra cho ngoại giao văn hóa. Trên tinh thần ấy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI yêu cầu: “Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển văn hóa đối ngoại; hỗ trợ quảng bá nghệ thuật quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2011-2015, Sđd, tr. 150).
*
Nếu như văn hóa là sức mạnh mềm của quốc gia thì ngoại giao văn hóa chính là lực lượng xung kích để hiện thực hóa sức mạnh ấy trên phạm vi thế giới, mở đường cho không chỉ ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, mà còn cho sự phát triển sức mạnh hiện thực của đất nước ra ngoài biên giới quốc gia. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, ngoại giao văn hóa càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết./.
GS.TS Tạ Ngọc Tấn
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương