Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Phát triển đội ngũ cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng (phần 1)

Ngày phát hành: 04/11/2021 Lượt xem 8259

Ảnh minh họa

 

          Sau 35 năm Đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. Hội nhập quốc tế đã góp phần đưa đất nước kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao thế và lực và trở thành một phần không thể tách rời với thế giới. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng đặt ra những đòi hỏi mới đối với năng lực của quốc gia nói chung và năng lực của đội ngũ cán bộ nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đặt ra những mục tiêu và khát vọng phát triển cao đến các dấu mốc năm 2025, 2030 và 2045.

          Bài viết nhằm bàn về vấn đề Phát triển đội ngũ cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, tập trung vào các vấn đề khái niệm, đề xuất khung năng lực cán bộ trong môi trường quốc tế, các bài học kinh nghiệm từ thực tiễn công tác của Bộ Ngoại giao và một số đề xuất kiến nghị.

I. Bối cảnh và yêu cầu đặt ra với việc phát triển đội ngũ cán bộ thời kỳ hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng

          1. Thế giới hiện nay có thể được khái quát bởi ba đặc điểm chính tác động mạnh mẽ đến yêu cầu chất lượng cán bộ. Thứ nhất, thế giới toàn cầu hóa cao buộc người cán bộ cần phải có năng lực và hiểu biết về quốc tế khi các vấn đề đối nội và đối ngoại gắn kết chặt chẽ với nhau. Thứ hai, thế giới có trình độ phát triển cao đặt ra yêu cầu người cán bộ cần tiệm cận với những tiêu chuẩn mới của thế giới, đặc biệt trong kỷ nguyên số và Cách mạng Công nghiệp 4.0. Thứ ba, thế giới biến động, khó lường cao đòi hỏi người cán bộ cần có năng lực thích ứng linh hoạt trước những biến chuyển của tình hình. Chính ba đặc điểm này đã, đang và sẽ tiếp tục tác động mạnh đến yêu cầu mới về tiêu chuẩn của cán bộ cũng như hệ thống giáo dục, đào tạo để tạo nên những lớp cán bộ mới, nhân lực mới với những đặc điểm về phẩm chất, năng lực khác so với trước đây.

          Thế giới đang chuyển mạnh sang thời đại của tri thức, công nghệ, đặc biệt là công nghệ số, công nghệ mới với vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp, động lực và phương thức phát triển mới. Quá trình số hóa và chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, với kinh tế số, nền sản xuất thông minh, xã hội số, các hình thái mới về tiêu dùng, lối sống; xu thế cải cách, đổi mới tư duy, quản trị quốc gia, doanh nghiệp, xu hướng chính sách vị dân … gắn với phát triển bền vững và công nghệ số[1]. Những điều này tác động mạnh mẽ và đặt ra những đòi hỏi mới không chỉ đối với đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam mà còn đối với lực lượng cán bộ nói chung làm việc trong môi trường trong nước, nhưng có tính chất quốc tế ngày càng cao. Vấn đề đào tạo về xây dựng đội ngũ cán bộ như vậy càng trở nên cấp thiết khi sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và các tỉnh, thành đều gắn với và phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài với mức độ ngày càng tăng.

          Đại hội XIII đã đề ra các mục tiêu phát triển của đất nước và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát huy nhân tố con người. Để Việt Nam có thể hiện thực hóa khát vọng đứng vào hàng ngũ các nước phát triển đến năm 2045, Việt Nam cần có đội ngũ cán bộ với năng lực hội nhập và hợp tác quốc tế nhằm không ngừng nắm bắt những xu thế của thế giới, tiệm cận với tiêu chuẩn và bắt nhịp với nhịp độ phát triển của thế giới và quan trọng hơn là tranh thủ các nguồn lực vô hạn từ bên ngoài để phục vụ cho sự nghiệp phát triển trong nước. Ngành đối ngoại nói chung và các cán bộ làm công tác đối ngoại nói riêng sẽ đóng vai trò tiên phong kết nối Việt Nam với các xu thế phát triển lớn của thế giới, thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng[2].

          2. Coi trọng công tác cán bộ là một trong những bài học thành công của Đảng xuyên suốt mọi thời kỳ, mọi giai đoạn của lịch sử. Quan điểm sâu sắc được thấm nhuần về công tác cán bộ là nhiệm vụ "then chốt" của công tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ; cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng[3].

          Trong quá trình tích cực và chủ động hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, kể từ khi bắt đầu Đổi mới đến nay, Đảng ta đã xác định tầm quan trọng đối với việc phải xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trong đó nêu rõ: Cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế là yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ cán bộ các cấp đến năm 2030[4]. Báo cáo chính trị Đại hội XIII chỉ ra nhiệm vụ:Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình.”

          3. Thực trạng hiện nay cho thấy, chất lượng đội ngũ cán bộ ở các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương nước ta đã được nâng cao, nhưng vẫn còn khoảng cách so với tiêu chuẩn khu vực, quốc tế và cần đáp ứng tốt hơn nữa với nhu cầu, đòi hỏi thực tiễn[5]. Số lượng cán bộ làm việc liên quan đến lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng lớn. Trong đó, cán bộ tại các bộ, ngành, địa phương tham gia tập trung chủ yếu vào hoạt động đặc thù theo lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công; cán bộ tại các địa phương lại tham gia vào nhiều lĩnh vực đa dạng khác nhau. Tuy nhiên, số cán bộ có đầy đủ năng lực, trình độ chuyên môn, kỹ năng đối ngoại, khả năng ngoại ngữ và kinh nghiệm thực tiễn để có thể làm việc trong môi trường quốc tế còn chưa nhiều, chủ yếu tập trung ở các bộ, ngành Trung ương và các địa phương lớn có nhiều hoạt động hợp tác quốc tế.

          Thời gian tới là giai đoạn chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong thời chiến, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong thời bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, trong nước và ngoài nước, với yêu cầu phải có năng lực hội nhập và hợp tác quốc tế[6]. Điều đó càng đặt ra yêu cầu cần không ngừng phát triển, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có năng lực hội nhập quốc tế, trước hết là năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, theo xu hướng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng[7].         

II. Tiếp cận các khái niệm và khung năng lực cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế

          Chúng tôi cho rằng, trước hết cần làm rõ hai vấn đề: Thứ nhất, tiếp cận các khái niệm “đủ khả năng làm việc”“môi trường quốc tế” như thế nào? Thứ hai, khung năng lực để xác định đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế là gì?

  1. Tiếp cận các khái niệm

 

  Môi trường quốc tế

          Trong quan hệ quốc tế, “môi trường quốc tế” vốn được hiểu là không gian và tương tác giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế, trong đó quan trọng nhất là các quốc gia. Từ đó, theo nghĩa rộng, “môi trường quốc tế” là không gian có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài với nhiều cấp độ, từ song phương đến đa phương, từ chính thức đến phi chính thức, trên các ngành nghề khác nhau, là tổng thể các điều kiện kinh tế, chính trị, đối ngoại, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng… đại diện cho quan hệ lợi ích trên các lĩnh vực then chốt, đan xen, tương tác, ràng buộc lẫn nhau giữa nước ta với các nước, tổ chức quốc tế[8].

          Theo nghĩa hẹp, “môi trường quốc tế” được giới hạn là không gian tương tác của những cán bộ công tác tại các bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương Việt Nam với các đối tác tương ứng nước ngoài. Trước đây, môi trường quốc tế được xác định trên góc độ chuyên môn và vị trí việc làm của các cán bộ liên quan đến đối ngoại, bao gồm: (i) các cán bộ Ngoại giao ở các Cơ quan Đại diện Việt Nam ở nước ngoài, (ii) các cán bộ biệt phái tại các Tổ chức quốc tế, (iii) các cán bộ làm tại các cơ quan đối ngoại của Trung ương, (iv) các cán bộ ở các Sở Ngoại vụ địa phương. Hiện nay, do Việt Nam đã hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, cần xác định công việc của tất cả các cán bộ nhà nước đều có tính “quốc tế”, đều có sự tiếp xúc với quốc tế, trực tiếp và trực tuyến, từ cách suy nghĩ, quy trình, cách làm đến chi tiết công việc trực tiếp hàng ngày.

 

Khả năng làm việc

          Khả năng làm việc là tổ hợp những đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân, phù hợp với yêu cầu một dạng hoạt động nhất định nhằm bảo đảm sẽ đạt được kết quả, hiệu quả công việc tối ưu. Khả năng làm việc là sự kết hợp hài hòa giữa phẩm chất, kiến thức, kỹ năng, hành vi và thái độ của một người.

          Khả năng làm việc của một cán bộ chịu tác động bởi các yếu tố về cái riêng và cái chung, bao gồm: (i) năng lực và nỗ lực của bản thân người cán bộ trong hoàn thành công việc và phát triển bản thân; (ii) môi trường làm việc, điều kiện làm việc cho phép người cán bộ phát huy tối đa năng lực, sở trường; (iii) các cơ chế, chính sách, sự quan tâm, định hướng của lãnh đạo để phát triển cá nhân cán bộ và đội ngũ cán bộ nhằm tạo ra hiệu ứng cộng hưởng, có tính tới sự kế thừa thế hệ.

          Từ khái niệm trên, có thể hiểu năng lực làm việc trong môi trường quốc tế là khả năng người cán bộ thực hiện một cách chủ động và có hiệu quả những nhiệm vụ, công việc được Đảng, Nhà nước giao phó có liên quan đến văn hoá, môi trường, hoàn cảnh, điều kiện, quy định và con người của các quốc gia khác, bảo đảm phù hợp với luật pháp quốc gia và pháp luật quốc tế.

          Như vậy, có ba yếu tố cơ bản cần lưu ý là: (i) đặc điểm cá nhân của người cán bộ; (ii) tính tổng thể của hệ thống, hệ sinh thái và môi trường công tác của cán bộ; (iii) tính quốc tế trong bối cảnh hội nhập. Cần giải quyết hài hòa và phát huy đặc điểm riêng của những yếu tố trong việc xây dựng năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ.

          Nhận thức về khả năng làm việc trong môi trường quốc tế không nên chỉ hiểu theo nghĩa hẹp là biết ngoại ngữ và máy tính, cần hiểu rộng hơn, đầy đủ hơn. Theo đó, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế bao gồm các năng lực tổng hợp, liên quan mật thiết với nhau trong quá trình học tập, rèn luyện. Các năng lực đó trải rộng trên nhiều lĩnh vực, kĩ năng khác nhau, cụ thể[9]:

          - Có phương pháp luận và phong cách làm việc khoa học, hiệu quả, chuyên nghiệp: Trên nền tảng phương pháp luận Mác – Lênin, mỗi cán bộ cần phát huy tính độc lập, sáng tạo, đổi mới trên cơ sở khoa học và chứng cứ thực tế; có tư duy biện chứng, phản biện trên cơ sở xây dựng; coi trọng kỷ luật lao động, chuẩn mực ứng xử, giao tiếp trong công việc.

          - Có nền tảng kiến thức, kỹ năng chuyên môn, thực hành theo chuẩn mực quốc tế: Cán bộ cần có ý thức cập nhật kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp theo đúng xu thế thế giới đương đại, tránh bị tụt hậu; thành thạo kỹ năng trao đổi, đàm phám, làm việc nhóm, thuyết trình.

          - Nắm vững pháp luật, quy định, thông lệ quốc tế: Trong bất cứ lĩnh vực hợp tác quốc tế nào cũng có những quy định, quy tắc ràng buộc pháp lý, các thông lệ, tập quán vận dụng. Do vậy, cán bộ khi tham gia hoạt động quốc tế cần nắm vững nhiều nội dung pháp lý quốc tế căn bản ví dụ như thương mại, đầu tư, thuế khóa, giải quyết tranh chấp.

          - Am hiểu văn hóa, đạo đức: Xuất phát từ việc môi trường quốc tế là đa sắc tộc, đa văn hóa, mỗi cán bộ cần hiểu rõ và tôn trọng các giá trị của các đối tác, tránh kỳ thị sự khác biệt, hay đề cập đến các vấn đề nhạy cảm liên quan đến văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo,...của các đối tác quốc tế mình làm việc cùng.

          - Thông thạo các ngoại ngữ phổ biến: Ngôn ngữ là phương tiện đắc lực giúp cán bộ có thể trực tiếp trao đổi các vấn đề học thuật, chuyên môn với các đối tác quốc tế, hiểu rõ thông điệp đối tác muốn truyền tải. Việc thông thạo một hay nhiều ngoại ngữ phổ biến sẽ giúp các cán bộ xử lý công việc trôi chảy, nhanh chóng, chính xác và hiệu quả hơn.

          - Thành thạo kỹ năng tin học, ứng dụng nền tảng kỹ thuật số: Tin học và các ứng dụng số đóng vai trò là các công cụ hỗ trợ cho quá trình tương tác, xử lý công việc trở nên thuận tiện, năng suất hơn. Nắm vững, cập nhật thường xuyên các ứng dụng công nghệ, kỹ thuật có thể giúp các cán bộ xử lý công việc chính xác, kịp thời, hiệu quả, không bị giới hạn về không gian, thời gian.

          2. Khung năng lực cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế

          Để quản lý, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá cán bộ đúng đắn, chuẩn xác, Đảng ta đã xác định một hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí có tính chất "thước đo" cho đội ngũ cán bộ[10] (về phẩm chất chính trị tư tưởng và đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực và uy tín[11]). Tuy nhiên, với vấn đề năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, hiện nay chưa có một văn bản nào quy định đầy đủ khung năng lực đối với cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế.

          Bài viết đề xuất hai cấp độ: (i) Khung năng lực chung đối với cán bộ cấp làm việc; và (ii) các yêu cầu riêng đối với lãnh đạo quản lý cấp chiến lược.

 

    Khung năng lực cho cán bộ cấp làm việc / cấp cơ sở

          Với cán bộ cấp làm việc (working level), hay còn gọi là cán bộ cấp cơ sở, yêu cầu đặt ra là cần đáp ứng được hiệu quả với đòi hỏi công việc, cả về chất lượng, số lượng, cường độ, tốc độ và khả năng thích ứng. Báo cáo chính trị Đại hội XIII đề ra yêu cầu: Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình.

          Khung năng lực của cán bộ cấp làm việc có thể được chia thành 03 nhóm yêu cầu là: (i) yêu cầu về bản lĩnh, phẩm chất; (ii) yêu cầu về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; và (iii) yêu cầu về kỹ năng, phong cách.

 

  Nhóm yêu cầu về bản lĩnh, phẩm chất

          Việt Nam là một quốc gia xã hội chủ nghĩa đã hội nhập sâu rộng và toàn diện vào một thế giới với các nền văn hóa và hệ thống chính trị đa dạng. Môi trường quốc tế phức tạp càng đòi hỏi cán bộ phải có đạo đức và lý tưởng cách mạng, không mơ hồ, mất phương hướng, mất cảnh giác, không vì lợi ích cá nhân mà xem nhẹ lợi ích quốc gia, nhất là khi tiếp xúc với các nền văn hóa, thể chế chính trị khác nhau trên thế giới.

          Bản lĩnh, phẩm chất, tư tưởng vững vàng là nền tảng, là yêu cầu, đòi hỏi mang tính bắt buộc đối với các cán bộ, nhất là các cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế và hội nhập. Điều này xuất phát từ đặc thù công việc phải tiếp xúc thường xuyên với bên ngoài, bao gồm các đối tượng, phần tử xấu, có ý đồ mua chuộc, lôi kéo, quyến rũ, thậm chí tấn công, uy hiếp cán bộ.

Về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đó là tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia; nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, các văn bản pháp luật, quy định của ban, bộ, ngành, địa phương về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành; đáp ứng các tiêu chuẩn về bảo vệ chính trị nội bộ theo quy định hiện hành của Đảng và Nhà nước.

          Về đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, cán bộ cần có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh; ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết nội bộ; có tinh thần phối hợp, hợp tác; có trách nhiệm, nhiệt tình, tâm huyết, năng động, sáng tạo, quyết liệt, linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ được giao; có phương pháp làm việc khoa học, đúng nguyên tắc, phong cách chuyên nghiệp, tự tin.

          Đồng thời, không kém phần quan trọng là sự thấm nhuần bản sắc dân tộc. Hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi cán bộ phải đứng vững trên nền tảng văn hóa dân tộc thì mới khai thác tốt nhân tố thời đại phục vụ cho lợi ích quốc gia - dân tộc, biến ngoại lực thành nội lực. Hoạt động trong môi trường quốc tế luôn cần đến khả năng chia sẻ giá trị giữa các nền văn hóa, giúp đối tác, bạn bè hiểu biết về Việt Nam. Bản sắc văn hóa dân tộc khi thấm sâu vào mỗi cán bộ không chỉ tạo điểm tựa, căn cước cho hội nhập quốc tế mà còn trở thành “vốn đối ứng” để hấp thu có hiệu quả mọi nguồn lực bên ngoài, biến ngoại lực thành nội lực, xây dựng ý thức tự lực, tự cường, tự chủ quốc gia[12].

 

   Nhóm yêu cầu về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ

          Môi trường quốc tế là nơi cạnh tranh khốc liệt và cọ xát về chuyên môn, trí tuệ, công nghệ, nơi tập trung tinh hoa của nhiều quốc gia, tổ chức. Với sự phát triển cao của khoa học công nghệ và tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, những việc lao động chân tay, hành chính cơ bản.. dần bị thay thế bởi máy móc[13]. Thế giới ngày càng hướng tới kinh tế tri thức, xã hội tri thức, trong đó, người lao động và cán bộ phải có năng lực chuyên môn sâu về khoa học xã hội mà máy móc hay khoa học tự nhiên không thể làm được.

          Do vậy, cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế cần được trang bị nền tảng kiến thức sâu sắc và phong phú về nhiều lĩnh vực khác nhau để có thể đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Trong đó, bên cạnh kiến thức chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ vốn là những yếu tố bắt buộc, cần có đủ hiểu biết tổng hợp về thể chế, hệ thống chính trị quốc tế và quốc gia, quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức, đối tác, về lịch sử, chính trị nội bộ, kinh tế, văn hoá - xã hội, tôn giáo… để làm cơ sở cho đàm phán, thương thảo các thoả thuận hợp tác trong quá trình hội nhập quốc tế, phù hợp với lợi ích của quốc gia - dân tộc và cơ quan, tổ chức.   

 

    Nhóm yêu cầu về kỹ năng, phong cách

          Bên cạnh việc phải nắm vững kiến thức chuyên sâu, xu thế của thế giới thế kỷ 21 và kỷ nguyên số là đề cao tầm quan trọng các các kỹ năng mềm, nhất là trong thời đại 4.0. Hiện nay, các nước trên thế giới nói chung và tại Châu Á nói riêng đang hình thành một cuộc cách mạng về tư duy đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất, kỹ năng cần có cho người lao động trong thế kỷ 21. Tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), GS. Klaus Schwab Giám đốc Điều hành WEF đã đưa ra 16 kỹ năng cần có cho các sinh viên trong thế kỷ 21, trong đó có: (i) 6 kỹ năng nền tảng như kiến thức về ngôn ngữ, số và toán, kiến thức khoa học, kiến thức công nghệ thông tin, truyền thông, kiến thức tài chính, văn hoá, dân sự; (ii) 4 kỹ năng giải quyết các vấn đề phức tạp (như tư duy phản biện, sáng tạo, giao tiếp, hợp tác, liên kết); (iii) 6 tính cách (như tò mò, sáng kiến, kiên trì, thích ứng hoàn cảnh, năng lực lãnh đạo, khả năng nhận thức năng lực xã hội và văn hoá).

Trong rất nhiều tình huống, bên cạnh các kỹ năng nền tảng, các kỹ năng mềm đóng vai trò quyết định thành công hay thất bại của cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế. Do vậy, cán bộ cần được chú trọng đào tạo bồi dưỡng các kỹ năng mềm như: Kỹ năng thích ứng thay đổi và xử lý khủng hoảng; kỹ năng tác chiến độc lập và làm việc nhóm; xây dựng và phát triển mạng lưới quan hệ; kỹ năng thuyết trình, đàm phán, trả lời phỏng vấn, ứng xử trên môi trường mạng xã hội, chủ trì hội nghị, hội thảo quốc tế; kỹ năng giao tiếp liên / đa văn hóa…

          Đặc biệt, cần chú trọng rèn luyện và bồi dưỡng phong cách chuyên nghiệp trong môi trường quốc tế. Bởi mỗi người cán bộ là đại diện, là đại sứ văn hóa cho Việt Nam trong mắt của đối tác và các nhà đầu tư. Phong cách chuyên nghiệp của cán bộ nhằm giúp việc hợp tác đạt hiệu quả hơn và thúc đẩy hình ảnh tốt đẹp của Việt Nam trong tâm thức của bạn bè quốc tế.

          Do thế giới biến động nhanh, khó lường và yêu cầu công việc đặt ra thường ở cường độ cao, nhiều bất ngờ, người cán bộ cần rèn luyện khả năng sáng tạo thích ứng linh hoạt. Sáng tạo bao gồm sự đổi mới tư duy và cách làm, để cũng một công việc, mục đích đó nhưng có thể thực hiện hiệu quả, nhanh và bớt hao tốn nguồn lực hơn; hoặc tạo ra những khuôn khổ, cách làm mới với kết quả tốt hơn.

           Điều kiện quan trọng để thích ứng linh hoạt bao gồm: (i) sự chuẩn bị về nguồn lực và năng lực (như đã nêu ở trên); và (ii) dự báo được trước các tình huống, rủi ro có thể xảy ra. Do đó, khả năng nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là dự báo chiến lược là một trong những yêu cầu quan trọng. Cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế cần chủ động thu thập, đánh giá đúng thông tin, sát hợp với tình hình thực tiễn để tham mưu lên cấp trên, đồng thời không ngừng tự bồi dưỡng, trau dồi tư duy chiến lược, tầm nhìn dài hạn, năng lực dự báo, nhận diện thách thức và nắm bắt thời cơ. 

 

    Các yêu cầu năng lực riêng đối với lãnh đạo quản lý cấp chiến lược

          Cùng với việc chăm lo đội ngũ cán bộ cơ sở, đề cao vai trò và trách nhiệm của cán bộ cơ sở, Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ cán bộ cấp chiến lược (với nhiều tên gọi khác nhau: đội ngũ cán bộ cấp cao, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, đội ngũ cán bộ diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý)[14].

          Một người cán bộ để trở thành lãnh đạo quản lý cấp chiến lược cần phải được thử thách, đào tạo, trau dồi nhiều năm, nhiều yêu cầu công việc qua thực tiễn từ các cấp làm việc cơ sở. Do đó, lãnh đạo quản lý cấp chiến lược cần trước hết đáp ứng được khung năng lực cho cán bộ cấp làm việc ở trên, nhưng đồng thời cũng có những yêu cầu riêng về năng lực ở tầm lãnh đạo quản lý cấp chiến lược. Người lãnh đạo không nhất thiết phải biết tất cả, nhưng cần có khả năng hiểu và đánh giá để từ đó đưa ra quyết định đúng nhất, tránh sai lầm. Một số yêu cầu quan trọng bao gồm:

          - Tầm nhìn chiến lược: có tư duy hệ thống và tầm nhìn về thế giới và Việt Nam để gắn kết được Việt Nam với thế giới, ở cả tầm tập thể cán bộ, cơ quan, địa phương và quốc gia. Một cán bộ cấp chiến lược không nhất thiết phải thành thạo ngoại ngữ, nhưng cần phải có có đủ kiến thức, tầm nhìn và kiến thức cần thiết có thể giao tiếp để trao đổi bình đẳng với những nhà lãnh đạo các quốc gia, tập đoàn quốc tế.

          - Vai trò làm gương của người đứng đầu: người đứng đầu cần làm gương cả về bản lĩnh, phẩm chất, năng lực chuyên môn đến kỹ năng, phong cách để tạo ra văn hóa, môi trường của tổ chức, phát huy được bản sắc Việt Nam và hài hòa với quốc tế.

          - Kỹ năng lãnh đạo và đào tạo: nếu như kỹ năng quản lý nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công việc chung; kỹ năng lãnh đạo và đào tạo đòi hỏi người lãnh đạo có khả năng truyền tải, truyền cảm hứng về tầm nhìn và khả năng tự học, không ngừng rèn giũa phẩm chất, năng lực của bản thân và cho các cán bộ làm việc cùng mình. Do đó, cần xây dựng tư duy và thói quen học tập suốt đời.

          Việc phân chia hai cấp độ khung năng lực cho cán bộ cấp làm việc và cán bộ lãnh đạo quản lý cấp chiến lược nhằm tạo cơ sở để xác định giai đoạn phát triển của từng cá nhân cán bộ để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp. Đồng thời,  qua đó có sự đầu tư, ưu tiên với trọng tâm, trọng điểm thích hợp để phát triển toàn thể đội ngũ cán bộ có lớp lang, tránh sự thiếu hụt cả về số lượng, chất lượng và lĩnh vực.

(Còn tiếp)

Nguyễn Minh Vũ

Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng

Thứ trưởng Ngoại giao



[1] Phó Thủ tướng thường trực Phạm Bình Minh. Hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước và những yêu cầu mới đặt ra đối với công tác giáo dục đại học.

[2] Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn: Đối ngoại sẽ đóng vai trò tiên phong kết nối Việt Nam với các xu thế phát triển lớn của thế giới.

[3] Trích: báo cáo xây dựng Đảng Đại hội XIII.

[4] Cụ thể: Đối với cán bộ cấp chiến lược: Thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 - 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương: Từ 20 - 25% dưới 40 tuổi; từ 50 - 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.

[5] Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã nhận định: “Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém”; nhiều cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế.

[6] ThS. Nguyễn Thị Quyên Những điều kiện bảo đảm hiệu quả làm việc cho cán bộ trong môi trường quốc tế. 23/07/2021 . Trích Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII.

[7] Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII.

[8] PGS,TS, Nguyễn Chí Hiếu, Nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tạp chí Cộng sản.

[9] PGS, TS. Vũ Thanh Sơn. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế - Mấy vấn đề đặt ra.

[10] TS. Bùi Ngọc Thanh. Xây dựng đội ngũ cán bộ theo yêu cầu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

[11] Quy định số 214-QĐ/TW, ngày 2.1.2020 về Khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện BCHTƯ, BCT, BBT quản lý.

[12] PGS,TS, Nguyễn Chí Hiếu, Nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tạp chí Cộng sản.

[13] Xem thêm: ThS. Nguyễn Thị Quyên. Những điều kiện bảo đảm hiệu quả làm việc cho cán bộ trong môi trường quốc tế

[14] PGS, TS. Trần Khắc Việt, Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết