Thứ Sáu, ngày 19 tháng 04 năm 2024

Phê phán quan điểm cho rằng: " Việt Nam khó có thể đấu tranh chống tham nhũng có kết quả"

Ngày phát hành: 30/08/2018 Lượt xem 5721

Ai cũng biết cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay ở nước ta đang diễn ra ngày càng quyết liệt, không có vùng cấm. Cả hệ thống chính trị và nhân dân vào cuộc và đã có tác động to lớn, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, lấy lại niềm tin của dân đối với Đảng. 

1.  Tham nhũng là hiện tượng xã hội xuất hiện ở các quốc gia, Việt Nam kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham nhũng

Tham nhũng là một căn bệnh nguy hiểm, nó gây ra các hậu quả hết sức tai hại về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, nó cản trợ sự phát triển đi lên của xã hội và có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể chế. Muốn chống tham nhũng, trước hết cần phải hiểu thế nào là tham nhũng? Bản chất, nguồn gốc  tham nhũng là gì?

Tham nhũng là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời và phát triển của bộ máy nhà nước. Tham nhũng xảy ra ở tất cả các nước trên thế giới, không phụ thuộc vào chế độ chính trị “đa đảng” hay “một đảng”, có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mỗi quốc gia đều xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước mình mà có những nhận thức khác nhau về khái niệm tham nhũng.  Ở Đức, theo Từ điển Bách khoa của Brue khaus, cho rằng: “Tham nhũng  là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền hành”1. Từ điển Bách khoa Thụy Sĩ viết: “Tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng, sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước, đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân”2. Luật chống tham nhũng của Xingapo quy định: tham nhũng là “tiền hay mọi hình thức quà biếu, tiền vay mượn, tiền thưởng, tiền hoa hồng, các bảo đảm có giá trị tài sản, lợi tức của tài sản dưới hình thức động sản hay bất động sản; chức vụ, công việc hay hợp đồng, mọi hình thức trả tiền, thanh toán hay miễn trả nợ…mọi hình thức cung phụng, thực hiện hay hứa hẹn sẽ cung cấp về một khoản tiền nào đó…”3. Theo R Stapenhurst, nhà tư vấn của Viện phát triển Kinh tế, Ngân hàng thế giới thì “Tham nhũng, theo nghĩa đơn giản nhất là sự lạm dụng quyền lực, đa phần là để đạt được lợi ích của một nhóm mà người ta phải trung thành với nó…”4; Theo Từ điển tiếng Việt, tham nhũng là “lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân và lấy của”5. Luật phòng chống tham nhũng của Việt Nam xác định: "tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi"(6). Trong xã hội hiện nay, người ta còn chia tham nhũng thành 2 loại: tham nhũng lớn và tham nhũng vặt:(1)Tham nhũng lớn  không chỉ diễn ra trong kinh tế, không chỉ là tham nhũng kinh tế mà còn là tham nhũng chính trị. Tham nhũng lớn thường gắn với bộ máy quyền lực, với nhóm lợi ích thân hữu (kể cả trong và ngoài khu vực nhà nước), xảy ra chủ yếu liên quan đến dự án lớn về phát triển kinh tế - xã hội và phổ biến trong các lĩnh vực quản lý đất đai,  xây dựng công cộng và tư nhân, bệnh viện; trong các hợp đồng vũ khí và quốc phòng, trong công nghệ cao… (2) Tham nhũng vặt, còn được gọi là tham nhũng hành chính hay tham nhũng quan liêu, là loại tham nhũng diễn ra thường ngày, khi các nhân viên công chức tiếp xúc với quần chúng trực tiếp. Những vụ tham nhũng vặt còn hay xảy ra khi người dân và các công ty tìm cách né tránh nghĩa vụ và các khoản thuế và khi các viên chức lạm dụng quy định theo ý của họ bằng cách cố gắng bòn rút tiền từ các công dân và các công ty.

Những nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, C. Mác và F Anghen, trong khi hình dung một xã hội mới là xã hội xã hội chủ nghĩa để thay thế các chế độ xã hội cũ (chế độ người bóc lột người), thì một trong những vấn đề được đặt ra là phải tổ chức một bộ máy nhà nước như thế nào, để có thể khắc phục được tệ nạn tham nhũng như một căn bệnh thâm căn, cố đế của các bộ máy nhà nước cũ, để thực sự trở thành một Nhà nước của nhân dân. Tuy nhiên, Chính C. Mác đã từng nhấn mạnh rằng:  không được quên là những chức năng thống trị của giai cấp lên cầm quyền ở bất cứ xã hội nào thường bị một số người đại diện của giai cấp chiếm đoạt lấy và biến thành của riêng. Cả khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền rồi, nguy cơ ấy vẫn còn.

Ngay sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917,  khi mà chủ nghĩa xã hội còn đang trong “thời kỳ thoát thai, quá độ”, khi mà những dấu vết của xã hội cũ vẫn còn, thì  những mảnh đất nảy sinh các hành vi tham nhũng của các viên chức nhà nước vẫn còn.  Khi đó, Lê-nin đã chỉ rõ nạn tham nhũng đang tồn tại, không những trong các cơ quan Xô viết, mà trong cả các cơ quan của Đảng nữa, Người cho rằng, tham nhũng  là những kẻ thù bên trong... kẻ thù nguy hiểm nhất.

Thực tiễn tình hình tham nhũng diễn ra rất đa dạng, phức tạp. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng  hiện nay mang tính toàn cầu. Nhiều quốc gia trên thế giới coi tham nhũng là một vấn đề nhức nhối  và đã chủ động phòng, chống  quyết liệt. Nhận thức rõ  về tác hại của tham nhũng, trong Lời nói đầu của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng đã ghi rõ: “…Nhận thức được rằng, vì tham nhũng là hiện tượng đang vượt qua các biên giới quốc gia và ảnh hưởng đến mọi xã hội và nền kinh tế, cho nên, hợp tác quốc tế nhằm ngăn ngừa và kiểm soát tham nhũng là yêu cầu cần thiết…Ghi nhớ rằng, xóa bỏ tham nhũng là trách nhiệm của các quốc gia…”.

Ở Việt Nam,  sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, Nhà nước Dân chủ nhân dân của nước ta mới ra đời, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, chống quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ô, tham nhũng, lãng phí là tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất của tham ô, tham nhũng: là lấy của công làm của tư, là gian lận tham lam, tham ô là trộm cướp. Người viết:

“Tham ô là gì?

- Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là:

Ăn cắp của công làm của tư

Đục khoét của nhân dân

Ăn bớt của bộ đội.

Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô.

- Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là:

Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”7.

Như vậy, có thể thấy, trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, dù có những cách hiểu và diễn đạt khác nhau, nhưng tựu trung lại, tham nhũng luôn luôn gắn với quyền lực và lợi ích cá nhân; tham ô, tham nhũng đều có bản chất, nguồn gốc là hành vi của những người: (1) có chức, quyền (kể cả trong và ngoài khu vực Nhà nước) đã lợi dụng chức, quyền đó, cấu kết  để tham ô, nhận hối lộ hoặc (2) không có chức quyền, nhưng tất cả họ đều có hành vi chung là cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi. Nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng là ở sự gặp nhau của hai nhân tố. Một là, sự tồn tại, phát triển của xã hội luôn đòi hỏi phải có những cơ quan quyền lực để điều hòa những lợi ích khác nhau mà quyền lực luôn có nguy cơ bị “tha hóa”; trong khi tham nhũng  là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực. Hai là, quyền lực bao giờ cũng được hiện diện và thực thi thông qua những con người cụ thể, con người cụ thể thường sống và hành động theo lợi ích. Đặc trưng của hành vi của người tham nhũng là lấy “của công làm của tư”. "Của công" chính là tài sản của toàn dân, của quốc gia, là ngân sách  mà chủ yếu là thuế do nhân dân đóng góp, dùng để phục vụ mục đích chung là phát triển đất nước. "Của công làm của tư" tức là tài sản chung khi không nhằm phục vụ mục đích chung mà chỉ dành làm của riêng, quỹ riêng cho một tập thể, một địa phương, một cá nhân.

Những luận cứ nêu trên, cho phép đi đến kết luận rằng: tham nhũng là hiện tượng kinh tế- xã hội  diễn ra ở tất cả các quốc gia, bất kể quốc gia đó thuộc chủ nghĩa xã hội hay tư  bản chủ nghĩa, ở tất cả các nước, bất kể thuộc  chế độ một đảng cầm quyền hay đa đảng thay nhau cầm quyền8, không kể giàu nghèo, đang ở trình độ phát triển như thế nào. Nó xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá nó tồn tại và phát triển thường xuyên hàng ngày hàng giờ, nó len lỏi vào mọi mặt đời sống xã hội và đụng chạm tới lợi ích của hầu hết dân cư. Điểm khác biệt chỉ là ở mức độ tham nhũng nhiều hay ít mà thôi. 

        Việt Nam đang kiên trì đi lên chủ nghĩa xã hội, đang từng bước hiện thực hóa 17 mục tiêu phát triển của Chương trình nghị sự phát triển bền vững 2030 của Liên Hợp Quốc. Đó là con đường bất di, bất dịch, là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển… ”. Mục tiêu xây dựng một xã hội như vậy đã được ghi trong Cương lĩnh của Đảng (2011), được thể chế hóa trong Hiến pháp 2013 và đang từng bước được hiện thực hóa. Một xã hội như vậy, đã đang và sẽ không bao giờ, không khi nào chấp nhận tham nhũng tồn tại ở trong lòng nó như là một thực thể vốn có. Tham nhũng không phải là một hiện tượng tất yếu, mang tính vĩnh cửu, tồn tại và phát triển cùng với xã hội loài người nói chung, ở Việt Nam hiện nay, nói riêng. Và do vậy, đương nhiên tham nhũng không bao giờ là vấn đề thuộc bản chất riêng có của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

2. Thực trạng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam

Lịch sử nước ta, từ ngày thành lập Đảng đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới cho thấy, đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng luôn gắn liền với quá trình xây dựng Đảng và hoàn thiện Nhà nước Việt Nam.

Trong công cuộc đổi mới, công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài.

Tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng đã chỉ rõ: “ Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt động của bọn làm ăn phi pháp… chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời”9. Trong Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục nhận định: “…tình hình thất thoát lớn tài sản xã hội chủ nghĩa, tham nhũng, buôn lậu, đạo đức suy đồi…đang là những vấn đề nóng bỏng”10. Đại hội Đảng lần thứ VIII mà tiêu biểu là Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khi đề cập đến công tác xây dựng đảng, đã đặc biệt nhấn mạnh: “Hướng chủ yếu củng cố, chỉnh đốn tổ chức cơ sở đảng là…chống tham nhũng…”11. Đại hội Đảng lần thứ  IX tiếp tục nhấn mạnh, một trong bốn nguy cơ (mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ Khóa VII đã chỉ ra), “nạn tham nhũng và tệ quan liêu… đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp”12. Đến Nghị quyết Trung ương ba, Khóa X, Đảng đã ra nghị quyết riêng về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí", trong đó, Đảng đã chỉ ra: thực trạng, nguyên nhân và nhất là vạch rõ quan điểm, chủ trương và giải pháp  chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Trong nhiệm kỳ  Đại hội Đảng lần thứ XI mà tập trung là Hội nghị Trung ương 4, Đảng đã thẳng thắn chỉ ra: “Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”13. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII của Đảng tiếp tục nêu rõ:  “Nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp ch­ưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chư­a phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chư­a đạt mục tiêu, yêu cầu. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng,... xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành...đe doạ sự tồn vong của chế độ”14.

Về mặt Nhà nước, ngay từ những năm đầu đổi mới, việc thành lập các ban công tác chống tham nhũng tại các tỉnh, thành, và các bộ, ngành sau khi có Quyết định 240 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng và Ban Công tác chống tham nhũng, chống buôn lậu của Chính phủ (thành lập theo Quyết định số 35/TTg ngày 19-1-1996 của Thủ tướng Chính phủ) đã mang lại được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động của các đơn vị này chưa đạt được kết quả như mong muốn. Các quy định về phòng, chống tham nhũng khi đó chưa đầy đủ và chưa được thực hiện nghiêm túc, thiếu một cơ quan có trách nhiệm làm đầu mối theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện. Để khắc phục tình trạng trên, Pháp lệnh chống tham nhũng được ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1998 và được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2000 là cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác đấu tranh chống tham nhũng. Nhờ đó, cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta bước đầu đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định của Pháp lệnh chống tham nhũng trong giai đoạn này đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập, chưa đáp ứng được các yêu cầu của quá trình hội nhập và phát triển. Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, Luật phòng chống tham nhũng được Quốc hội khoá XI tại Kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006 được coi là một liệu pháp mới cho cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Với 48 điều trên tổng số 92 điều là các quy định về “phòng ngừa tham nhũng”, có thể nói tư tưởng phòng ngừa được thể hiện rất rõ nét trong Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012).

Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, quyết định, chỉ thị để cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), Luật phòng chống tham nhũng, Chiến lược quốc gia phòng,chống tham nhũng đến năm 2020 và Kế hoạch thực thi Công ước của Liên Hợp quốc về Chống tham nhũng… trong đó có các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập; chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức; tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công như: trụ sở, trang thiết bị và phương tiện làm việc; tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng; xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng; vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng; trả lương qua tài khoản đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách; đưa nội dung phòng chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, ...

      Nhìn trên toàn cảnh về không gian và thời gian, nhất là sau hơn 4 năm thực hiện Kết luận của Tổng bí thư tại Hội nghi toàn quốc về phòng, chống tham nhũng lần thứ nhất (2014) và nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, có thể nói, với quyết tâm chính trị rất cao của Đảng cùng các bước đi cẩn trọng, chắc chắn, cộng với nỗ lực vào cuộc ráo riết, quyết liệt của các tổ chức Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và cả hệ thống chính trị, từ trung ương tới địa phương; kết hợp xây dựng chủ trương, đường lối có tính nguyên tắc và sự hoàn thiện của hệ thống luật pháp liên quan, chú trọng hoạt động với tinh thần trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong điều tra, phát hiện, khởi tố, xét xử,… Nhờ đó, công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua đã đạt nhiều kết quả, rất đáng ghi nhận và trân trọng, được cả xã hội thừa nhận. Kết quả nổi bật là vai trò, trách nhiệm, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng được nâng lên. Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng  được đẩy mạnh, vừa cảnh báo, răn đe, ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện xử lý vi phạm. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán được chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các vi phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Ðảng và bộ máy Nhà nước, góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng. Từ năm 2014 đến nay, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 840 tổ chức đảng và 58.120 đảng viên, trong đó có gần 2.720 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái. Ngành thanh tra, kiểm toán tập trung thanh tra, kiểm toán các lĩnh vực nhạy cảm dễ phát sinh sai phạm, tiêu cực, tham nhũng; từ năm 2014 đến nay, qua thanh tra, kiểm toán, đã kiến nghị thu hồi hơn 260 nghìn tỷ đồng, chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự hơn 340 vụ với 436 đối tượng.

      Ban Chỉ đạo T.Ư về phòng, chống tham nhũng đã chỉ đạo quyết liệt, đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, kịp thời nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp với những mức án nghiêm khắc và nhân văn, tích cực thu hồi tài sản tham nhũng; không có "vùng cấm", không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai. Từ năm 2014 đến nay, các cơ quan chức năng đã khởi tố 971 vụ án với 2.010 bị can; truy tố 1.060 vụ án với 2.444 bị can; xét xử sơ thẩm 968 vụ với 2.297 bị cáo về tội tham nhũng. Các phiên tòa xét xử ngày càng đổi mới theo hướng công khai dân chủ, minh bạch, coi trọng tranh tụng, nghiêm minh và nhân văn. Riêng các vụ án, vụ việc tham nhũng thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đến nay đã kết thúc điều tra, truy tố, đưa ra xét xử sơ thẩm 35 vụ với 440 bị cáo với các mức án nghiêm khắc; trong đó có 11 án tử hình cho 10 bị cáo, 20 án chung thân cho 19 bị cáo, bảy bị cáo với mức án tù 30 năm,… Năm 2016, tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng đạt 26%, năm 2017 đạt 29,45%, sáu tháng đầu năm 2018 đạt 19%.

Công tác cải cách thủ tục hành chính ngày càng công khai minh bạch, các giải pháp phòng ngừa tham nhũng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đạt kết quả tích cực. Công tác cán bộ đổi mới theo hướng mở rộng dân chủ, nhất quán, chặt chẽ; hàng loạt văn bản về công tác cán bộ được ban hành, giải quyết nhiều tồn đọng, kiên quyết xóa bỏ tình trạng chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm cán bộ vi phạm, không còn "vùng cấm" nào. Công tác thông tin tuyên truyền được quan tâm, phát huy vai trò tích cực của các cơ quan truyền thông; vai trò trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và người dân trong phòng, chống tham nhũng  ngày càng được phát huy; các cơ quan chức năng phòng chống tham nhũng  được chú trọng kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.

       Rõ ràng, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã có những  bước tiến mạnh, đột phá, cả về nhận thức, hành động và đạt được những kết quả toàn diện,  để lại dấu ấn tốt, được nhân dân cả nước ủng hộ; các tổ chức quốc tế đánh giá tích cực 15. Nhiều vụ án lớn về tham nhũng, lợi ích nhóm đã được xử công khai, nghiêm minh, không có vùng cấm.Trên thực tế, tham nhũng, lãng phí đã từng bước được kiềm chế và đã góp phần phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Đó là kết quả bước đầu tất yếu của một quá trình được chuẩn bị kỹ lưỡng, lâu dài, như phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới đây, tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng ở Hà Nội ngày 25-6-2018: “ …công tác phòng, chống tham nhũng được chỉ đạo thực hiện ráo riết, quyết liệt, đạt nhiều kết quả tích cực, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, được nhân dân rất hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ; các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá tích cực. Tham nhũng đang từng bước được kiềm chế và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”.

        Thực tế đó là minh chứng rõ như ban ngày về một điều rằng:  phòng, chống tham nhũng là chủ trương của Đảng, Nhà nước và cũng là yêu cầu của nhân dân, không phải là công việc của cá nhân nào. Tham nhũng là kẻ thù bên trong rất nguy hiểm. Cuộc chiến này cũng không phải làm trong một sớm, một chiều, cũng không phải làm một lần là xong. Chống tham nhũng là cuộc chiến chống nội xâm, chống những sai lầm, vi phạm trong đội ngũ của mình. Ai mắc sai phạm, tùy vào mức độ đều phải chịu xử phạt theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực tế đó cũng bác bỏ các luận điệu mơ hồ cho rằng, chống tham nhũng đang tiến hành chỉ là “đấu đá nội bộ phe này, cánh kia nhằm hạ bệ lẫn nhau, tranh giành quyền lực, thanh trừng các lực lượng đối lập trong nội bộ Đảng”; rằng, “đấu tranh chống tham nhũng  chẳng đi đến đâu, vì đó là căn bệnh trầm kha và ngày càng nặng thêm”.

          3. Kiên trì, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay ở nước ta

            Hiện nay, sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đất nước ta đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới với những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức mới đan xen. Sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, phát triển đất nước nhanh và bền vững đang chuyển sang giai đoạn mới, cao hơn, ngày càng đi vào chiều sâu, khó khăn, phức tạp hơn so với trước. Tình hình, bối cảnh trong nước, quốc tế đã có nhiều thay đổi, đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt những kết quả rất quan trọng. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thấy rằng,  công tác phòng, chống tham nhũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác phòng, chống tham nhũng ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có sự chuyển biến rõ rệt, vẫn còn tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", nể nang, né tránh, ngại va chạm; việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu. Tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công vẫn gây bức xúc trong người dân, doanh nghiệp.Tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng, với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên diện rộng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực, "làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước…".

 Những hạn chế trên đây có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là: Giữa quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước và hành động thực tế của một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn khoảng cách.  Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng mới tập trung đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên; việc tuyên truyền chưa được sâu rộng đến cấp cơ sở và mọi tầng lớp nhân dân. Thể chế, chính sách, pháp luật về kinh tế - xã hội và trên một số lĩnh vực còn sơ hở, chưa phù hợp với thực tiễn. Việc thực thi pháp luật nói chung và thực hiện các quy định về  của Đảng và Nhà nước nói riêng chưa nghiêm. Cơ chế kiểm soát quyền lực không đủ mạnh, chậm được hoàn thiện,  dẫn đến tình trạng cá nhân sử dụng quyền lực vô hạn độ, tự tung tự tác, coi trời bằng vung, khiến cả một dây dài tha hóa, tuột dốc. Cả một hệ thống công cụ thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, trong một khoảng thời gian dài, tỏ ra không đủ bản lĩnh, năng lực phát hiện những góc khuất, để uốn nắn, nhắc nhở, dẫn đến hậu quả tham nhũng ngày một nghiêm trọng.Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu tu dưỡng rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm. Mô hình tổ chức các cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham nhũng thiếu ổn định, quyền hạn chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, phương tiện, điều kiện làm việc còn bất cập. Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Chưa phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhân dân, báo chí và truyền thông trong phòng, chống tham nhũng …

         Để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, khóa X, Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về xây dựng Đảng và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, có nhiều việc phải làm, nhưng trước hết cần quán triệt, thực hiện tốt một số quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:

          Một là, về mặt quan điểm, nhận thức, cần xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ th­ường xuyên, quan trọng đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài; là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, tr­ước hết là ngư­ời đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, và của toàn bộ hệ thống chính trị. Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí.

       Hai là, phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật; củng cố và hoàn thiện các cơ cấu, thể chế, phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà n­ước để bảo đảm công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu lực, hiệu quả, nhất là trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như­ : quản lý và sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, khoáng sản; thu, chi ngân sách, mua sắm công, tài chính, ngân hàng, thực hiện các dự án đầu t­ư xây dựng cơ bản; công tác cán bộ; quản lý doanh nghiệp nhà nư­ớc, doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà n­ước và doanh nghiệp có vốn đầu tư­ nư­ớc ngoài; giáo dục, đào tạo và y tế.

          Ba là, Tăng cường tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tạo sự thống nhất, tự giác, quyết tâm cao trong hành động. Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng phải cổ vũ, động viên sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, "làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng vạn, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp" như lời Bác Hồ đã căn dặn.

          Bốn là, Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Điều đặc biệt quan trọng có ý nghĩa quyết định là, những người làm công tác phòng, chống tham nhũng nói chung, những người trực tiếp làm việc trong các cơ quan chức năng phòng, chống tham nhũng nói riêng phải thật sự liêm chính, trong sạch, biết gương mẫu giữ mình, trọng liêm sỉ, không chịu bất cứ sức ép không trong sáng nào, bất cứ sự cám dỗ, mua chuộc nào của những kẻ phạm tội.

          Năm là,  thiết lập cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực hiệu quả. Xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ "lợi ích nhóm"; chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục "tư­ duy nhiệm kỳ"; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách t­ư pháp. Phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.  Có cơ chế, chính sách hữu hiệu để khuyến khích, khen thưởng và bảo vệ an toàn cho ngư­ời phát hiện, tố cáo tham nhũng.  Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng.

Sáu là, đẩy mạnh cải cách chính sách tiền l­ương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng. Kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng./.

 

TS. Lê Minh Nghĩa

Hội đồng Lý luận Trung ương

 

 



1 Pháp luật chống tham nhũng của các nước trên thế giới, Nxb. Văn hóa dân tộc, 2003, tr. 10.

2 Sđd, tr. 10.

3 Ban Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 10 – 11.

4 Sđd, tr. 11.

5 Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội, 1992, tr. 895

6 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2007, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2010, tr.8.

7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, t.6, H. 2000, tr.488.

8 Theo tài liệu của Tổ chức minh bạch quốc tế (TI), một số nước theo thể chế đa đảng, không do Đảng Cộng sản cầm quyền, như ở Thái Lan,  Malaixia, Inđônêxia,... vẫn thuộc nhóm “nước tham nhũng nghiêm trọng”.

9 Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2005, tr. 17

10 Sđd: tr. 247.

11 Sđd: tr. 527.

12 Sđd: tr. 619.

13 Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb  CTQG- ST, H. 2011.

14 Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,Nxb  CTQG- ST, H. 2016, tr. 196.

 

15 Theo xếp hạng của Tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency International) chỉ số cảm nhận tham nhũng ( Coruption perceptions index) của Việt Nam , năm 2016 tăng 2 điểm, lên 33 và 2017 tăng lên đến 35 điểm , xếp thứ 107 trên tổng số 180 quốc gia, vùng lãnh thổ.  

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết