1. Sự phát triển lý luận về bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trở thành lực lượng lãnh đạo đất nước, trong các nghị quyết và cương lĩnh của Đảng đều nhất quán chủ trương bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Năm 1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến giữ gìn di sản văn hóa dân tộc. Ngày 3/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Sau Sắc lệnh số 65/SL, ngày 29/10/1957, Nghị định số 519-TTg về bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh do Thủ tướng Chính phủ ban hành đã tạo điều kiện cho ngành văn hóa thể thao tiến hành kiểm kê phổ thông các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh ở các tỉnh và thành phố toàn miền Bắc; giúp bảo vệ những di tích quan trọng nhất của đất nước. Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh do Hội đồng Nhà nước công bố ngày 4/4/1984, đã chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác giữ gìn di sản văn hóa của dân tộc. Những nghị định, pháp lệnh này thể hiện tư duy lý luận của Đảng ta đối với việc bảo tồn các di sản văn hóa ở những thời điểm, hoàn cảnh cụ thể luôn có sự phát triển, phù hợp với điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội ở những giai đoạn lịch sử cụ thể của đất nước.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Những thay đổi sâu sắc nhất bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, ở đó, thay vì nền kinh tế quan liêu, bao cấp, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước. Để có những thay đổi mang tính chất cách mạng trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội và văn hóa, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các chủ trương, định hướng, luật, chính sách; những văn bản có tác động sâu sắc đến quá trình giữ gìn bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa của dân tộc.
Tư duy lý luận của Đảng ta về bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa ngày càng được hoàn thiện thông qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng ta nêu lên chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa: “Nhà nước cùng với nhân dân xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết cho văn hoá và nghệ thuật, giữ gìn và tôn tạo những di tích lịch sử, văn hoá”[1] và “Ngăn chặn khuynh hướng thương mại và các hiện tượng tiêu cực khác”[2] trên lĩnh vực văn hóa; đồng thời nhấn mạnh phải kiên quyết “...chống những tàn tích văn hóa phong kiến, thực dân, tư sản. Làm thất bại âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch biến văn hóa, văn nghệ thành phương tiện gieo rắc tâm lý bi quan và lối sống sa đọa. Bài trừ mê tín, dị đoan, hủ tục”[3]. Những tư tưởng quan trọng này đã được phát triển cụ thể hơn trong Văn kiện Đại hội VII, Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, được hoàn thiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và tiếp tục khẳng định ở Kết luận của Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX. Văn kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại”[4].
Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội VII, Điều 30, Hiến pháp năm 1992 quy định rõ rằng: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hóa phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục”[5].
Ngày 14/01/1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII họp đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/HNTW Về một số nhiệm vụ văn hóa văn nghệ trong những năm trước mắt. Trong sáu định hướng về công tác tư tưởng, có một định hướng lớn là phát triển văn hóa với hai nội dung cơ bản là phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Văn bản quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam có ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa nói chung hiện nay là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Đây là nghị quyết về chiến lược văn hóa của Đảng ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết nhấn mạnh: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hành động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mỗi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”[6].
Theo quan điểm Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, bản sắc văn hóa dân tộc “bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của các cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước”[7]. Theo đó, bảo vệ bản sắc văn hóa, giá trị di sản văn hóa dân tộc là bảo vệ những tinh hoa của dân tộc được hình thành và lưu giữ qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc phải gắn với giao lưu quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu và phong phú văn hóa dân tộc Việt Nam. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII khẳng định: “Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời, trong phong tục tập quán, lề thói cũ”[8]. Đồng thời, Nghị quyết cũng đặt vấn đề và yêu cầu bảo vệ di sản văn hóa bao gồm cả văn hóa truyền thống và văn hóa cách mạng, văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Nghị quyết viết: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”[9].
Trên phương diện quan điểm của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng là văn kiện toàn diện nhất, đề cập cụ thể đến những vấn đề chung cũng như những phương hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam, vì vậy, nó tác động sâu sắc không chỉ đến quá trình phát triển nền văn hóa Việt Nam nói chung mà còn định hướng cho công việc quản lý văn hóa của ngành văn hóa, thể thao và du lịch nói riêng.
Trên tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, hàng loạt các giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho người dân đã ra đời. Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; Chỉ thị số 14/1998/TC-TTg ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội đã dẫn đến việc ra đời Thông tư số 04/1998/TTg-BVHTT ngày 11/7/1998 của Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Hệ thống pháp luật có liên quan đến di sản văn hóa truyền thống, như những văn bản được cụ thể hóa bằng các luật như Luật Di sản văn hóa, bằng các quy chế như Quy chế tổ chức lễ hội.Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã tiến hành đầu tư qua Chương trình Quốc gia có mục tiêu về văn hóa cho việc nghiên cứu, sưu tầm, phục hồi các giá trị di sản văn hóa, nhờ đó, huy động được sự quan tâm của cộng đồng đối với các di sản văn hóa.
Ngày 19/01/1993, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 25/TTg Về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, trong đó xác định việc phát triển văn hóa thể thao mang bản sắc dân tộc Việt Nam là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn dân, Nhà nước tạo điều kiện, xây dựng cơ sở hạ tầng và trang bị phương tiện cho việc phát triển văn hóa nghệ thuật mang bản sắc dân tộc. Quyết định cũng chỉ ra những chính sách cụ thể như đầu tư cho việc sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn, bảo quản lâu dài, phổ biến văn học dân gian, các điệu múa, các làn điện âm nhạc của các dân tộc, giữ gìn các nghề thủ công truyền thống, các loại nhạc dân tộc, xây dựng các tiết mục dân tộc như tuồng, chèo, dân ca, cải lương, múa rối, đồng thời khen thưởng những người có công trong việc sưu tầm và bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc.
Để triển khai Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và các quyết định của Chính phủ trong lĩnh vực di sản văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ban hành: Công văn số 4432/VHTT-BTBT ngày 20/10/1998 hướng dẫn tăng cường quản lý cổ vật; Công văn số 488/2/VHTT-BTBT ngày 18/11/1988 hướng dẫn việc đăng ký kiểm kê bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; Chỉ thị số 60/CT-BVHTT ngày 6/5/1999 của Bộ trưởng Bộ văn hóa - Thông tin về việc tăng cường quản lý và bảo vệ di tích. Đặc biệt, Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóaX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 14/6/2001, có hiệu lực từ ngày 01/01/2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam. Trong Luật Di sản văn hóa, ngoài tính hệ thống và tầm bao quát của nó thì lần đầu tiên chúng ta đã đưa các di sản văn hóa phi vật thể vào nội dung quản lý và điều chỉnh của bộ luật này. Đó là sự phát triển tư duy lý luận của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong việc hoàn chỉnh bộ Luật Di sản văn hoá, mà không phải quốc gia hiện đại nào cũng đạt được.
Tiếp tục bổ sung, phát triển tư duy lý luận của Đảng trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của các dân tộc; tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; khai thác các kho tàng văn hóa cổ truyền. Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của nhân loại. Đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hóa độc hại”[10]. Tại Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định, quá trình mở rộng giao lưu hội nhập phải gắn với bảo tồn, kế thừa các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Kết luận Hội nghị này đã chỉ rõ: “Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại”[11].
Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trong sự nghiệp phát triển văn hóa của đất nước. Nghị quyết Đại hội chỉ rõ: “Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hoá nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hoá, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hoá với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch”[12]. Đại hội XI của Đảng không chỉ tiếp tục khẳng định phải bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng của dân tộc, mà còn chỉ rõ các yêu cầu cụ thể trong việc bảo tồn giá trị các di sản văn hóa, nhất là ngôn ngữ tiếng Việt và ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Nghị quyết chỉ rõ: “Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt... Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số”[13].
Tiếp theo tinh thần Đại hội X, Đại hội XI, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng đã bổ sung và cụ thể hóa hơn nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Theo đó, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phải gắn với phát triển du lịch và phát triển kinh tế. Nghị quyết chỉ rõ: “Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch”[14]. Đặc biệt, trước sự tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ, vấn đề giữ gìn, phát huy các di sản văn hóa của dân tộc, chống sự lai căng và lạm dụng được Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đưa vào một trong sáu nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Nghị quyết chỉ rõ: “Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống; các giá trị văn hóa tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng”[15]. Có thể khẳng định, vấn đề bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa dân tộc đã được đề cập từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên, trong tư duy lý luận của Đảng vấn đề này được đề cập một cách cụ thể và đầy đủ nhất.. Nếu như các nghị quyết trước đây, Đảng ta mới chỉ đề cập đến các di sản văn hóa dân gian, ngôn ngữ, chữ viết, thì đến Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Đảng ta đã đề cập đến việc bảo tồn các di sản văn hóa tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng.
Quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có tác dụng to lớn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, ngăn chặn tình trạng xuống cấp và lạm dụng, lợi dụng các di tích lịch sử, di sản văn hóa của dân tộc. Đồng thời, nó đã tác động mạnh mẽ đến sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực phát triển ngành du lịch “một ngành công nghiệp không khói” mang lại lợi nhuận kinh tế cao cho đất nước.
2. Sự phát triển lý luận của Đảng về hội nhập và giao lưu văn hóa
Ngay từ khi chưa giành được chính quyền, Đảng ta vẫn luôn luôn coi trọng việc xây dựng nên văn hoá dân tộc theo phương châm khoa học, dân tộc, đại chúng và giao lưu văn hoá với quốc tế (Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943). Tư tưởng xây dựng nền văn hoá Việt Nam khoa học, dân tộc và đại chúng của Đảng ta được triển khai thực hiện ngay trong những năm hoà bình, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đặc biệt, trong khói lửa của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Đảng và Nhà nước ta càng coi trọng chính sách giao lưu văn hoá quốc tế. Đảng ta chủ trương tiếp thu văn hoá nước ngoài một cách có chọn lọc, phê phán. Tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Văn hoá là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá Đông phương và Tây phương chung đúc lại... Đông phương hay Tây phương có gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hoá Việt Nam”[16].
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của các giá trị văn hóa bên ngoài mà vẫn giữ được chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc, làm đậm đà hơn cốt cách, tâm hồn dân tộc trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, Đảng ta đã nhấn mạnh cần mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài để tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII Về một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt, khẳng định: “Phát triển văn hoá dân tộc đi liền với mở rộng giao lưu văn hoá với nước ngoài, tiếp thụ những tinh hoa của nhân loại, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam. Ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hoá độc hại, bảo vệ nền văn hoá dân tộc”[17]. Đồng thời, Nghị quyết còn chỉ rõ: “Mở rộng giao lưu văn hoá với nước ngoài dưới nhiều hình thức: giới thiệu rộng rãi những giá trị văn hoá của dân tộc ta với thế giới, đưa vào nước ta những giá trị văn hoá của nhân dân các nước; mở rộng xuất nhập khẩu văn hoá phẩm; khuyến khích việc trao đổi với nước ngoài và các đoàn văn hoá, nghệ thuật... Có quy định nghiêm ngặt bảo vệ những giá trị văn hoá của dân tộc, chống thâm nhập vào nước ta những tác phẩm xấu, độc hại”[18]. Đây là sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về mở rộng giao lưu văn hóa có tính chất bước ngoặt trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước.
Tiếp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, tại Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định sự cần thiết phải mở rộng giao lưu quốc tế, nhưng nhấn mạnh hơn việc giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng viết: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm văn hóa Việt Nam”[19].
Đường lối đổi mới, mở cửa đã tạo điều kiện để văn hóa Việt Nam tiếp xúc, giao lưu, tiếp biến với tất cả sự phong phú, đa dạng và tính phức tạp của văn hóa các dân tộc, các vùng, các châu lục. Trong bối cảnh đó, bảo đảm sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố nội sinh (bản sắc dân tộc) và yếu tố ngoại sinh trong giao lưu văn hóa là điều kiện tiên quyết để văn hóa dân tộc tồn tại và phát triển. Trong đó, yếu tố nội sinh về văn hóa phải giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, nội lực của dân tộc càng mạnh, bản sắc văn hóa dân tộc càng được giữ vững thì chúng ta càng có nhiều cơ hội và khả năng tiếp nhận, chọn lọc các giá trị văn hóa nhân loại, đồng thời có đủ bản lĩnh, trình độ để “đồng hóa” các yếu tố ngoại sinh trở thành chính văn hóa dân tộc, thành chất xúc tác cho sự phát triển hiện đại hơn nền văn hóa dân tộc.
Tiếp thu tinh thần này, Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII nhấn mạnh sự cần thiết phải đẩy mạnh giao lưu văn hoá trong nước và giao lưu văn hoá quốc tế. Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong hội nhập, giao lưu văn hóa là: “Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác”[20]. Như vậy, cả Nghị quyết Đại hội VIII và Nghị Trung ương 5 khoá VIII đều khẳng định, bảo vệ bản sắc văn hóa phải đi đôi với mở rộng giao lưu quốc tế. Tuy nhiên, Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã chỉ rõ hơn trong quá trình giao lưu, hội nhập phải tiếp thu, kế thừa có chọn lọc, tức là chỉ kế thừa cái hay, cái tốt đẹp và phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam.
Kể từ sau khi thực hiện đường lối đổi mới và đặc biệt từ sau khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đến nay chúng ta đã chứng kiến quá trình giao lưu văn hoá trong nước và quốc tế diễn ra hết sức mạnh mẽ. Nhân dân ta có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với những giá trị và thành tựu văn hoá nhân loại, bên cạnh đẩy mạnh việc giới thiệu, quảng bá những giá trị văn hoá tốt đẹp và độc đáo của nền văn hoá phong phú, đa dạng và đa dân tộc của Việt Nam với nhân dân thế giới. Thông qua những hoạt động giao lưu, tiếp xúc văn hoá đó mà làm cho nhân dân các nước càng thêm hiểu biết lẫn nhau, là cơ sở để thúc đẩy hợp tác, phát triển vì hoà bình và thịnh vượng cho mọi dân tộc trên thế giới.
Ngày nay, giao lưu văn hoá trở thành một xu thế của mọi quốc gia, dân tộc nhằm vừa bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc mình, vừa kế thừa, tiếp thu và phát huy tinh hoa văn hoá của các dân tộc, quốc gia khác nhằm bảo đảm cho sự thăng hoa và phát triển bản sắc văn hoá của chính dân tộc mình. Trong bối cảnh hiện đại, cùng với giao lưu về chính trị - an ninh và giao lưu kinh tế - thương mại, giao lưu văn hoá là một trong ba trụ cột cấu thành của tổng thể chính sách đối ngoại quốc gia.
Chính vì vậy, ở Đại hội X, Đảng ta mới chỉ đặt vấn đề: “Mở rộng giao lưu văn hóa, thông tin với thế giới”[21], thì đến Đại hội XI, Đảng ta đã bổ sung, phát triển và đưa vấn đề hội nhập, giao lưu văn hóa quốc tế thành một trong bốn nhiệm vụ phát triển văn hóa. Nghị quyết Đại hội XI khẳng định: “Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa”[22]. Đồng thời, Nghị quyết còn chỉ rõ hơn nhiệm vụ hợp tác quốc tế về văn hóa không chỉ giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam với thế giới mà còn phải tiếp thu kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các nước và giới thiệu các giá trị, sản phẩm văn học nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt Nam.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng đã bổ sung, phát triển lý luận về văn hóa nói chung và vấn đề hội nhập quốc tế về văn hóa nói riêng. Nếu như các văn kiện, nghị quyết trước đây, kể cả Nghị quyết Đại hội XI, Đảng ta mới chỉ đưa ra quan điểm mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, thì đến Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Đảng ta khẳng định phải chủ động hội nhập và tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Nghị quyết chỉ rõ: “Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”[23].Trong giao lưu văn hóa có sự hòa nhập và lựa chọn, tiếp thu và phát triển. Vì thế, Đảng ta khẳng định, trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa phải biết nâng những cái mạnh của hai mặt tương tác, để chúng hỗ trợ, tác động lẫn nhau, không triệt tiêu nhau, không làm mất đi những vẻ đẹp riêng. Nghị quyết khẳng định: “Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hóa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc”[24].
Trong bối cảnh mới, đi đôi với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm mở rộng hợp tác và giao lưu văn hóa quốc tế thông qua nhiều phương thức hợp tác đa dạng, phong phú nhằm giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới và tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, các thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và các công trình, tác phẩm văn hóa tiêu biểu, đặc sắc của nhân loại, góp phần hình thành những giá trị văn hóa hóa mới, để làm giàu đẹp và phong phú nền văn hóa dân tộc.
Trong thời đại ngày nay, hội nhập đang trở thành một xu thế tất yếu khách quan. Dân tộc Việt Nam, hay bất cứ một dân tộc nào khác không thể nằm ngoài quỹ đạo đó. Vấn đề đặt ra là chúng ta hội nhập, giao lưu như thế nào. Với tư thế chủ động, tích cực hội nhậpvăn hóa, chúng ta có thể nhận thức đầy đủ hơn, có ý thức hơn trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc của dân tộc mình. Đồng thời trong quá trình đó, chúng ta sẽ thấy được những hạn chế của những truyền thống có khả năng cản trở sự tiến bộ để tìm cách khắc phục. Một khi đã nhận thức được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ kết hợp hài hoà các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, trên cơ sở bảo tồn bản sắc dân tộc, giữ lấy những gì là tinh hoa, loại bỏ dần các yếu tố lỗi thời, tăng cường giao lưu, học hỏi với bên ngoài, nhất định chúng ta sẽ vượt qua được những thử thách, sẽ khơi dậy được vai trò động lực của các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Với tinh thần và bản lĩnh của người Việt Nam, chúng ta sẽ “phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển đất nước và từng bước khẳng định vị thế, bản lĩnh văn hóa của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
*
* *
Cùng với những thành tựu to lớn trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước 35 năm qua, lý luận về văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có bước phát triển mới.
Trước sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến đời sống văn hóa và con người Việt Nam hiện nay, sự phát triển lý luận của Đảng về văn hóa nói chung, về bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và hội nhập, giao lưu quốc tế về văn hóa nói riêng có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Những nội dung bổ sung và phát triển lý luận về bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và hội nhập, giao lưu quốc tế về văn hóa của Đảng ta trong quá trình đổi mới là cơ sở khoa học quan trọng góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.
PGS, TS Phan Trọng Hào
Hội đồng Lý luận TW
[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 92.
[2]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 92.
[3]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 91.
[4]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr. 83.
[5]Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1992, tr. 24.
[6]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 54.
[7]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 56.
[8]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 57.
[9]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 56.
[10]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 115.
[11]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VII,IX) Về văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 283.
[12]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 107.
[13]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 224 - 225.
[14]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 34.
[15]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, 2014, Hà Nội, tr. 54.
[16]Nguyễn Huy Tưởng (Chủ biên), Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb Tác phẩm mới (Nhà xuất bản Hội Nhà văn), Hà Nội, 1985, tr. 52.
[17]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 517.
[18]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 519.
[19]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 111.
[20]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 111.
[21]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 214.
[22]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 226.
[23]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 57.
[24]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 57.