Thứ Sáu, ngày 29 tháng 03 năm 2024

Tăng trưởng kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường nhằm phát triển nhanh và bền vững đất nước

Ngày phát hành: 21/01/2022 Lượt xem 24826


 

1. Một số vấn đề chung về phát triển nhanh và bền vững

- Khái niệm phát triển nhanh:  

Phát triển nhanh là phạm trù diễn tả động thái biến đổi nhanh về mặt lượng. Xét về lĩnh vực kinh tế, phát triển nhanh, về cơ bản, chỉ là sự gia tăng thuần tuý về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp như GNI, GNI bình quân đầu người hoặc GDP, GDP bình quân đầu người, ít quan tâm đến những biến đổi về mặt chất của nền kinh tế như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ; sự gia tăng năng lực nội sinh của nền kinh tế; sự thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; sự bảo vệ, tái tạo, nuôi dưỡng và nâng cao chất lượng môi trường, sinh thái.

Hiểu một cách cụ thể hơn, phát triển nhanh tức là đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế (TTKT) cao, trong một thời kỳ dài, nhờ đó mà thời gian để tăng gấp đôi quy mô của nền kinh tế (GDP) ngày càng rút ngắn. Vậy tốc độ TTKT bao nhiêu là cao? Không thể có con số chung cho mọi nền kinh tế. Để xác định tốc độ TTKT bao nhiêu là cao phải tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi quốc gia, trong mỗi giai đoạn phát triển. Thông thường, với các nước phát triển ở trình độ cao, quy mô nền kinh tế lớn, thì tốc độ TTKT chỉ khoảng 3-4% đã là cao; trong khi đó đối với các nước phát triển ở trình độ trung bình, quy mô nền kinh tế trung bình, thì tốc độ TTKT phải 7-8% mới gọi là cao; còn đối với các nước phát triển ở trình độ thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, thì tốc độ TTKT phải hơn 10% mới được coi là cao.

-Ý nghĩa của phát triển nhanh:

Phát triển nhanh có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt đối với các nước đi sau. Nếu một quốc gia đạt được tốc độ tăng trưởng cao, trong một thời gian dài sẽ giúp cho quốc gia đó gia tăng nhanh quy mô GDP, GDP bình quân đầu người (hoặc GNI, GNI bình quân đầu người); tạo điều kiện để gia tăng năng lực nội sinh của nền kinh tế (nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao khả năng sáng tạo khoa học và công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế); gia tăng dự trữ quốc gia; hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng… Nhờ đó mà rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước, cũng như tạo điều kiện vật chất cho phát triển xã hội, thực hiện an sinh xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Chẳng hạn Hàn Quốc đạt được tốc độ TTKT trung bình trên 8%/năm suốt ba thập niên từ 60 đến 80 của thế kỷ 20, nhờ đó quy mô GDP của họ tăng từ 3,3 tỷ USD năm 1962, lên 204 tỷ USD năm 1989, theo đó thu nhập bình quân đầu người đã tăng từ 87 USD năm 1962, lên 4.830 USD năm 1989. Tỷ trọng khu vực chế tạo trong GDP của họ cũng tăng rất nhanh, từ 14,3% (1962), lên 30,3% (1989); tỷ lệ tiết kiệm nội địa cũng tăng nhanh từ 3,3% năm 1962, lên 35,8% năm 1989.

- Sự cần thiết phải gắn phát triển nhanh với phát triển bền vững:

Phát triển nhanh có ý nghĩa vô cùng to lớn, tuy nhiên phát triển nhanh nếu không gắn với phát triển bền vững, sẽ mang lại những hệ lụy khôn lường. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nếu không thực hiện tốt sự quản lý của Nhà nước, thì những hệ lụy này lại càng nặng nề hơn. Những hệ lụy đó là: tài nguyên thiên nhiên bị suy giảm, thậm chí là cạn kiệt, chất lượng tài nguyên ngày càng kém đi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, hủy diệt; từ đó sẽ tác động tiêu cực đến TTKT dài hạn, đến thu nhập của dân cư; mức sống, chất lượng cuộc sống sẽ giảm sút, đất nước không có tiềm lực kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội như y tế, giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ, giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội… Vì vậy, phải gắn phát triển nhanh với phát triển bền vững.

- Nội hàm của phát triển nhanh và bền vững:

Phát triển nhanh và bền vững là sự phát triển bảo đảm TTKT nhanh, ổn định, dài hạn, hiệu quả, dựa trên những nền tảng vững chắc gắn liền với giải quyết tốt các vấn đề xã hội và môi trường sinh thái.

Từ khái niệm trên cho thấy nội hàm thứ nhất của phát triển nhanh và bền vững là TTKT nhanh, ổn định, hiệu quả, dài hạn, dựa trên những nền tảng vững chắc. Nền tảng vững chắc ở đây chính là năng lực nội sinh, trong đó đặc biệt phải dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, chứ không phải đạt được TTKT bằng mọi giá. Nếu TTKT đạt được chủ yếu dựa vào nguồn lực bên ngoài, thì không thể coi là nền tảng vững chắc, mà đó là sự tăng trưởng phụ thuộc, không bền vững.

Nội hàm thứ hai của phát triển nhanh và bền vững đó là phải gắn TTKT nhanh, ổn định, hiệu quả, dài hạn, dựa trên những nền tảng vững chắc với giải quyết tốt các vấn đề xã hội như giảm nghèo, nâng cao mức sống dân cư, phát triển toàn diện con người, thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội. Nếu đạt được TTKT nhanh, nhưng lại làm gia tăng nghèo đói, gia tăng thất nghiệp, gia tăng bất bình đẳng… thì sẽ tạo ra sự bất ổn về xã hội, do đó không thể phát triển nhanh và bền vững.

Nội hàm thứ ba của phát triển nhanh và bền vững là phải gắn TTKT nhanh, ổn định, hiệu quả, dài hạn, dựa trên những nền tảng vững với quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ, nuôi dưỡng, tái tạo và nâng cao chất lượng môi trường sinh thái. Nếu TTKT đạt được chủ yếu dựa vào khai thác và bán tài nguyên thô, thì không phải là nền tảng vững chắc, vì tài nguyên thiên nhiên là rất có hạn, ngày càng khan hiếm, thậm chí có loại sẽ cạn kiệt. Do đó kiểu tăng trưởng này không thể vững chắc, không thể đạt được phát triển nhanh và bền vững.

Từ phân tích trên cho thấy ba nội hàm (trụ cột) của phát triển nhanh và bền vững gắn bó, kết hợp hài hòa, hợp lý, là tiền đề, điều kiện và chi phối, tác động, ràng buộc lẫn nhau.

 

 

 2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường nhằm phát triển nhanh và bền vững đất nước

- Mối quan hệ giữa giữa TTKT với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (TB và CBXH), bảo vệ môi trường:

Giữa TTKT với thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn nhau. 

Thống nhất thể hiện ở chỗ, TTKT là cơ sở và điều kiện vật chất để thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường. Phải có TTKT nhanh và bền vững, mới có điều kiện vật chất để thực hiện tốt công cuộc giảm nghèo, nâng cao mức sống dân cư, phát triển giáo dục và đào tạo, phát triển y tế, phát triển hệ thống an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, đảm bảo bình đẳng và công bằng xã hội, đầu tư cho bảo vệ, nuôi dưỡng, nâng cao chất lượng môi trường sinh thái. Ngược lại, thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường sẽ tạo ra động lực thúc đẩy TTKT nhanh và bền vững. Bởi vì thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường sinh thái sẽ nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư, phát triển con người, phát triển giáo dục, đào tạo, đảm bảo bình đẳng và công bằng xã hội… sẽ tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ, thúc đẩy, khuyến khích đổi mới, sáng tạo, phát huy sáng kiến. Đây chính là những động lực chính cho TTKT nhanh và bền vững.

Mâu thuẫn thể hiện ở chỗ, TTKT là cơ sở, là điều kiện để thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường, song không phải cứ có TTKT là có TB và CBXH, bảo vệ môi trường; thậm chí có quốc gia đạt được TTKT cao, nhưng thực hiện TB và CBXH không tốt, tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm suy thoái; trong khi đó có quốc gia đạt được TTKT thấp hơn, nhưng lại giải quyết tốt hơn các vấn xã hội và bảo vệ môi trường. Vì sao vậy? Vì phương thức để đạt được TTKT và phương thức để đạt đạt được TB và CBXH, bảo vệ môi trường là khác nhau. Để đạt được tăng TTKT phải có các nguồn lực vốn, lao động và Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP); còn để đạt được TB và CBXH, bảo vệ môi trường lại phụ thuộc nhiều hơn vào sự điều tiết của Nhà nước trong phân phối thu nhập và các nguồn lực phát triển. Vì vậy, TTKT mới chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ để đảm bảo thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường. Điều kiện đủ, chính là vai trò điều tiết của Nhà nước. Điều tiết của Nhà nước để đảm bảo gắn TTKT với TB và CBXH, bảo vệ môi trường được thực hiện thông qua rất nhiều các chính sách như: chính sách giải quyết hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng; giữa nâng cao mức sống dân cư với bảo đảm an ninh, quốc phòng, chi tiêu của chính phủ; chính sách thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp… Ngoài ra, cần lưu ý rằng nếu thực hiện TB và CBXH quá chú trọng vào mục tiêu phúc lợi xã hội, không quan tâm đầy đủ đến công bằng xã hội, nặng về bình quân cào bằng, thì sẽ không khuyến khích được người lao động học tập nâng cao trình độ, phát huy sáng kiến, đổi mới sáng tạo… tất cả điều đó dẫn tới triệt tiêu động lực của TTKT

- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết mối quan hệ giữa TTKT gắn với thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường

Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm tới thúc đẩy TTKT gắn với thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường. Quan điểm của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa TTKT gắn với thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường ngày càng được thể hiện rõ nét và được cụ thể hóa qua các kỳ Đại hội.

Đại hội VI (năm 1986) của Đảng nêu quan điểm “ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được”[1] .

Đại hội VII (1991), lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm chỉ đạo: “kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế (PTKT) với phát triển văn hóa, xã hội, giữa TTKT với TB và CBXH. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy TTKT”[2].

Tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII (1994), Đảng tiếp tục bổ sung quan điểm trên và cụ thể hóa thêm một số biện pháp thực hiện gắn TTKT với CBXH là: “TTKT phải gắn với TB và CBXH ngay trong từng bước phát triển. CBXH thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất, lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở điều kiện phát triển năng lực của mỗi thành viên trong cộng đồng”[3].

Đại hội VIII (năm 1996) tiếp tục bổ sung, không chỉ kết hợp “hài hòa” mà còn phải “TTKT gắn với tiến bộ, công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”[4]; “Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong suốt quá trình phát triển[5].

Đại hội IX (năm 2001) khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”, “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển”[6].

Đại hội X (2006) tiếp tục các quan điểm chỉ đạo trên, đặc biệt Đại hội đã bổ sung thêm một số quan điểm chỉ đạo nhằm gắn kết TTKT với CBXH như sau: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương”; “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển”. “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua PLXH”[7].

Đại hội XI (2011) tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán: “Phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”[8]. Đại hội nhấn mạnh: “Hoàn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế (CSKT) với các mục tiêu chính sách xã hội (CSXH); Thực hiện tốt CBXH trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể”[9].

Đại hội XII (2016) nêu quan điểm: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước”[10], “Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước”[11]; “Phát triển nhanh và bền vững (hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc); giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”[12]; “Đổi mới mô hình tăng trưởng là để nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển nhanh và bền vững toàn diện cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Không thúc đẩy tăng trưởng bằng mọi giá, gây tác động xấu đến ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm quốc phòng, an ninh, tiến bộ, công bằng xã hội, giữ gìn môi trường sinh thái”[13].

- Đại hội XIII (2021) xác định: “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa”[14].

Từ những phân tích trên có thể rút ra những nội dung cơ bản của quan điểm gắn TTKT với thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường của Đảng ta là: (i) Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, TTKT với thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường có mối quan hệ biện chứng, chúng làm tiền đề và điều kiện cho nhau; (ii) Nền kinh tế thị trường đòi hỏi TTKT đến đâu phải thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường đến đến đó; (iii) Thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường trong nền kinh tế đa thành phần, đa sở hữu phải triệt để khắc phục những tàn dư của chế độ phân phối bình quân cào bằng của thời kỳ trước đổi mới; (iv) Vai trò điều tiết và quản lý vĩ mô của Nhà nước là rất quan trọng và quyết định để đảm bảo gắn TTKT với thực hiện TB và CBXH, bảo vệ môi trường.

 

3. Thành tựu đạt được trong thực hiện quan điểm gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường ở Việt Nam

Thực hiện quan điểm gắn TTKT với TB và CBXH, bảo vệ môi trường trong suốt 35 năm qua, nền kinh tế Việt Nam luôn đạt được tăng trưởng dương, với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 1990 chỉ là 6,4 tỷ USD, nhưng đến năm 2020 đã ở mức 342,7 tỉ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. GDP bình quân đầu người tăng từ 118 USD năm 1990, lên mức 3.512 USD năm 2020; GNI bình quân đầu người tăng từ 1.179 USD năm 1990, lên 7.433 USD năm 2019. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020…

- Nhờ đạt được TTKT khá cao, tương đối ổn định đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Việt Nam tập trung hoàn thành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hoá phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển. Chỉ số Bất bình đẳng giới của Việt Nam có nhiều tiến bộ, đạt giá trị 0,314, xếp thứ hạng 68/189 nước trên thế giới. Xét về thứ hạng, so với các nước trong ASEAN: Việt Nam đứng sau Singapore (số liệu tương ứng là 0,065; 11/189 và Malaysia là 0,274; 58/189), đứng trên Thái Lan (0,377; 84/189); Philippin (0,425; 98/189); Indonexia (0,451; 103/189); Lào (0,463;110/189) và Cămpuchia (0,474; 114/189)[15].   

Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”[16]...

 

 

4. Giải pháp tiếp tục giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường để phát triển nhanh và bền vững đất nước

Thứ nhất, để thúc đẩy và giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phải kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, nỗ lực phát triển sức sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, theo hướng tăng trưởng bền vững. Của cải vật chất xã hội phong phú là cơ sở vật chất thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ có nỗ lực phát triển sức sản xuất, sáng tạo ra của cải vật chất ngày càng phong phú, mới có khả năng đáp ứng và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hơn nữa, phải từng bước nâng cao trình độ sức sản xuất, mới có thể hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở vật chất hùng hậu để bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân.

Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế thị trường và phát triển xã hội... Kinh tế thị trường đã góp phần giải phóng các tiềm năng kinh tế, làm năng động hoá nền sản xuất, tạo điều kiện phát triển cho các thành phần kinh tế xã hội, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc, hiện tượng suy thoái đạo đức lối sống lan rộng, làm biến dạng nhiều giá trị dẫn đến đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Điều đó đòi hỏi chúng ta vừa biết phát huy cao nhất tác động tích cực và hạn chế hiệu quả ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, duy trì sự ổn định và phát triển xã hội. Phải nhanh chóng khắc phục tình trạng còn kém phát triển của nền giáo dục Việt Nam, xây dựng thành công xã hội học tập, học tập suốt đời theo phương châm hiện đại, tiên tiến, mở rộng hệ thống trường dạy nghề, đẩy mạnh đào tạo đại học và sau đại học theo hướng phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số... Về khoa học - công nghệ, cần có chiến lược phát triển đúng hướng, chú trọng tăng mạnh năng lực khoa học - công nghệ nội sinh, mở rộng và phát triển thị trường công nghệ, tăng cường mối gắn kết giữa nghiên cứu ở các trường đại học và doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động khoa học và công nghệ, thực hiện việc chuyển giao công nghệ, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ. Tạo nên sự thâm nhập sâu rộng giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, từng bước chuyển từ mục tiêu tăng trưởng vật chất sang mục tiêu vì chất lượng sống toàn diện của con người. Chủ động và tích cực tận dụng thành công cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho phát triển kinh tế và phát triển xã hội…

Thứ ba, tăng cường hơn nữa việc hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội. Cụ thể cần: nhanh chóng hoàn thiện chế độ phân phối thu nhập, quy phạm trật tự phân phối thu nhập; tích cực hoàn thiện chế độ tài chính công, thiết lập hệ thống phúc lợi hợp lý, chú ý thích đáng đến công tác xoá đói, giảm nghèo đa chiều bền vững, đầu tư hiệu quả cho y tế, giáo dục, văn hoá, bảo đảm công ăn việc làm cho nhân dân, xây dựng môi trường sinh thái lành mạnh, an toàn,... chú ý bảo đảm và cải thiện an sinh xã hội, hoàn thiện chế độ bảo đảm xã hội, kiện toàn hệ thống bảo đảm công bằng phúc lợi xã hội. Vận dụng các biện pháp khác nhau trên cơ sở căn cứ vào luật pháp, từng bước hình thành hệ thống an sinh xã hội, lấy công bằng quyền lợi, công bằng cơ hội, công bằng phân phối là nội dung chủ yếu, làm cho toàn thể nhân dân được hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước.

Thứ tư, xây dựng chế độ chính trị dân chủ và chế độ pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội hiện đại, nếu không có dân chủ và pháp luật thì không thể có sự phát triển hài hoà kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường, nói công bằng là nói đến sự phân phối hợp lý quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội cho tất cả nhân dân...

Thứ năm, để thúc đẩy việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, cần đẩy mạnh việc giáo dục, tuyên truyền về mối quan hệ này tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận cao trong xã hội vì đây là mối quan hệ liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội, đến mọi người và mọi giai tầng xã hội. Phải nhận thức rõ, mối quan hệ này không chỉ đề cập tới quyền lợi và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, mà còn đề cập đến quan niệm tư tưởng, ý thức chủ thể và tố chất văn hoá của người dân. Vì thế, nó phải trở thành nhận thức của toàn dân và dựa vào sự nỗ lực phấn đấu của tất cả mọi thành viên trong xã hội.

 

PGS.TS Lê Văn Lợi

Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

 

 

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, P.I, tr.40.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội 1991, tr.73.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nhà máy in Thống Nhất, Hà Nội 1994, tr.47.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.85.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội 1996, tr.113.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, tr.88.

[7] Đảng Cộng sảnViệt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Sự thật, Hà Nội 2006, tr 101

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, tr.21-22.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr 124

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.135-136.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr.270.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr.87.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư BCHTW, khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr.55.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.147-148.

[15] Báo cáo phát triển con người 2019 của UNDP, tr.316, 317, 318, 319

[16] Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, báo Nhân Dân, ngày 01-8-2021.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết