1. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển, nông nghiệp là ngành sản xuất chủ đạo, chưa qua giai đoạn công nghiệp hóa, lại bị chiến tranh tàn phá, nên việc cần phải tiến hành công nghiệp hóa để phát triển đất nước là một chủ trương, quan điểm đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược. Đại hội III của Đảng (năm 1960) xác định công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, việc tập trung cao độ sức người, sức của, các nguồn lực vật chất và tinh thần cho cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt bằng không quân, hải quân Mỹ đánh phá miền Bắc nhằm ngăn cản chi viện của hậu phương miền Bắc cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở miền Nam, đã làm cho việc thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa đất nước gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại, không thực hiện được mục tiêu đề ra. Sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất (năm 1975), đất nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, phải vật lộn để lo đời sống cho nhân dân và ra khỏi cuộc khủng hoảng. Ngay khi đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) đã chủ trương “đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[1] và “Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, thực hiện những bước tiến tuần tự về công nghệ với tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển kinh tế theo trình độ tiên tiến của khoa học và công nghệ thế giới”[2]. Đại hội VIII của Đảng (1996) tiếp tục chủ trương “đẩy mạnh công nghiệp hóa”[3] và đề ra mục tiêu “từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”[4]. Các Đại hội IX, X, XI đều khẳng định mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, đến năm 2016, Đại hội XII của Đảng đánh giá đến năm 2020, nước ta chưa thể trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại nên đã điều chỉnh lại mục tiêu thành “phấn đấu sớm đưa nước ta thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[5].
Công cuộc đổi mới , phát triển kinh tế đất nước ta thực hiện trong hơn 30 năm qua tập trung vào thực hiện những định hướng, nội dung lớn là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong ba nội dung lớn, quan trọng đó thì việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đã có những bước tiến dài, có những thành tựu nổi bật (nền kinh tế nước ta hiện nay, về cơ bản, đã là một nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và định hướng xã hội chủ nghĩa), còn nhiệm vụ công nghiệp, hiện đại hóa đất nước kết quả đạt được rất hạn chế, không chỉ không thực hiện được mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, mà đất nước vẫn đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, trong 30 năm, từ những năm 60 đến những năm 90 của thế kỷ trước và gần đây nhất, cũng chỉ trong hơn 30 năm thực hiện cải cách mở cửa, Trung Quốc cũng đã từ một nước kinh tế kém phát triển trở thành những nước công nghiệp phát triển.
Khi các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra cuối thế kỷ 18, cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra cuối thế kỷ 19 trên thế giới thì nước ta đang là nước phong kiến và nước thuộc địa. Bối cảnh đó làm cho nước ta không tiếp cận được với các cuộc cách mạng công nghiệp này. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra trên thế giới vào nửa cuối thế kỷ 20. Trong những năm này, nước ta đang trong thời kỳ chiến tranh, sau đó rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, bị bao vây cấm vận, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp…; bối cảnh này đã tạo ra cho nước ta nhiều khó khăn, cản trở việc tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng này, tham gia vào cuộc cách mạng này, sử dụng những thành tựu của nó để phát triển đất nước. Ngày nay, nhân loại đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dù mới ở giai đoạn ban đầu, nhưng dự báo sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế toàn cầu. Các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, lần thứ hai trước đây tạo ra những máy móc, thiết bị, những động lực mới, công cụ, phương tiện mới thay thế cho sức người, sức kéo của ngựa, trâu, bò, khắc phục những giới hạn thể lực của con người, giảm nhẹ hao phí sức lực của con người, thay thế con người ở những công việc nặng nhọc, độc hại, làm được những việc mà do hạn chế về thể lực, con người không thực hiện được. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba với việc tạo ra những máy tính điện tử và kết nối mạng máy tính, đã bước đầu thay thế một phần lao động trí tuệ của con người, tạo nên những dây truyền, những hệ thống sản xuất tự động hóa. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đột phá vào trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin, Blockchain, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, Internet kết nối vạn vật…, sẽ là sự thay thế bộ não, hệ thống thần kinh của con người, thậm chí có những năng lực vượt qua cả trí tuệ của con người. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư không dừng lại ở việc tạo ra những hệ thống sản xuất tự động hóa, mà tạo ra hệ thống sản xuất thông minh, phân phối thông minh, nền công nghiệp thông minh, nông nghiệp thông minh, thương mại, dịch vụ thông minh, hệ thống kết cấu hạ tầng điện, nước, giao thông, vận tải thông minh, tạo ra những đô thị, thành phố thông minh… với những hệ thống máy móc, thiết bị, phương tiện thông minh và hệ thống quản trị thông minh. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn tạo ra những vật liệu mới với những thuộc tính đặc biệt, không có sẵn trong tự nhiên... Mặc dù nội dung, những định hướng phát triển, những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn ở phía trước, chưa thể dự báo được đầy đủ, nhưng chắc chắn sẽ tạo ra những thay đổi to lớn, mạnh mẽ ở mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, tổ chức quản lý của nhà nước, phương thức sinh hoạt của xã hội, đưa nhân loại vào thời kỳ phát triển mới. Quá trình đó tạo ra cả những cơ hội lớn và cả những thách thức đối với mọi quốc gia.
2. Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cho nước ta những cơ hội và thách thức lớn. Vì nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, do trình độ phát triển kinh tế, trình độ phát triển khoa học - công nghệ còn thấp, là nền kinh tế chuyển đổi sang kinh tế thị trường, cơ chế thị trường còn chưa phát huy đầy đủ, hệ thống thị trường còn nhỏ, vận hành chưa thật thông suốt, trong môi trường cạnh tranh gay gắt trên quy mô toàn cầu, có nhiều đối thủ lớn… nên thách thức đối với nước ta lớn hơn so với nhiều nước khác. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng thời cơ và thuận lợi của nước ta là rất lớn. Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước tăng lên trên mọi lĩnh vực, kinh tế đất nước đã trở thành nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, quan hệ kinh tế của đất nước mở rộng, uy tín của đất nước tăng lên trong khu vực và trên thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có nhiều đặc điểm mới so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, trong đó, có những đặc điểm mới tạo ra thuận lợi cho nước ta. Yếu tố quan trọng hàng đầu để phát triển ngày nay không phải là tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực tài chính, mà là trí tuệ, khoa học - công nghệ, ý tưởng đổi mới sáng tạo và chất lượng nguồn nhân lực mà đây là một tiềm năng, thế mạnh của người Việt Nam. Nhiều sản phẩm của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như mạng Internet, các cơ sở thông tin dữ liệu có thể cho phép khai thác sử dụng không giới hạn, việc khai thác, sử dụng của người này không cản trở việc khai thác sử dụng của người khác (tất nhiên, trừ những thông tin bí mật cần được bảo vệ). Nhiều lĩnh vực mới, công nghệ mới, không chỉ mới với nước ta mà mới cả với nhiều nước có trình độ phát triển cao hơn nước ta; vì vậy nước ta ở cùng điểm xuất phát như nhiều nước khác; cuộc cách mạng này cho phép có thể đi tắt, đón đầu, có những phát triển nhảy vọt…
Để tận dụng được thời cơ, vượt qua thách thức, có nhiều việc phải làm, nhưng việc đầu tiên, hết sức quan trọng là vấn đề nhận thức, đổi mới tư duy, xây dựng quyết tâm. Vì hoàn cảnh và nguyên nhân khách quan, đất nước ta đã không có được cơ hội phát triển do các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, lần thứ hai và cả lần thứ ba tạo ra. Đối với cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, phải nhận thức đây là cơ hội, là thời cơ lớn để phát triển đất nước không thể bỏ lỡ, không được bỏ lỡ. Cuộc cách mạng công nghiệp lần này diễn ra với tốc độ rất nhanh, quy mô rất lớn, sẽ tạo ra những thay đổi mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực, dự báo sẽ đưa thế giới vào một thời đại mới. Vì vậy, nếu bỏ lỡ, không tận dụng được cơ hội này để phát triển đất nước, đất nước ta sẽ tụt hậu rất xa, rất khó có thể vươn lên theo kịp các nước khác; nước ta hội nhập, tham gia vào phân công, hợp tác quốc tế, vào các chuỗi giá trị toàn cầu ở những công đoạn công nghệ thấp, giá trị gia tăng thấp, gia công, lắp ráp, thậm chí trở thành “bãi thải công nghiệp” của các nước phát triển; khi đó hậu quả sẽ hết sức nghiêm trọng, không chỉ về kinh tế, mà cả về chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, sự ổn định, độc lập, chủ quyền của đất nước. Đây là vấn đề toàn Đảng, toàn dân cần phải nhận thức sâu sắc, phải có ý chí, quyết tâm mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nắm bắt bằng được cơ hội này để phát triển đất nước, phải có khát vọng đưa đất nước ta sánh vai với bè bạn năm châu. Nhận thức phải sâu sắc, ý chí quyết tâm phải mạnh mẽ, khát vọng phải cháy bỏng, như ý chí và khát vọng dù đốt cháy cả dãy Trường sơn cũng phải giành cho được độc lập tự do, thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ của dân tộc ta trong những năm tháng chiến đấu ác liệt, đầy hy sinh, gian khổ để dành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc; với ý chí và khát vọng đó, nhân dân ta đã đánh bại những kẻ thù xâm lược hùng mạnh nhất của thời đại khi đó. Giờ đây, để phát triển đất nước trong bối cảnh mới, để đất nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa rất cần phải có ý chí, quyết tâm mạnh mẽ và khát vọng cháy bỏng như vậy của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi người Việt Nam. Đây là bài học của các thế hệ cha, anh chúng ta, là kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới bằng ý chí và nghị lực của mình đã làm nên những kỳ tích phát triển được cả thế giới khâm phục, như Israel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…
Thứ hai là phải có tư duy mới về phương thức và nội dung công nghiệp hóa. Tư duy về công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là tư duy về công nghiệp hóa trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, tận dụng tốt những điều kiện và thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đi tắt, đón đầu, tạo ra sự phát triển nhảy vọt, phát triển bền vững, bao trùm. Cần phải khuyến khích phát huy tiềm năng, thế mạnh, tính năng động, đổi mới sáng tạo của mỗi người, mỗi doanh nghiệp, của mọi thành phần kinh tế, phát huy sức mạnh của đất nước và sức mạnh quốc tế, sức mạnh của thời đại. Cần phải tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trở thành phong trào mạnh mẽ; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa rộng khắp các ngành, lĩnh vực, các địa bàn; khuyến khích hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế lớn, có sức cạnh tranh cao; xây dựng doanh nghiệp Việt Nam thành lực lượng mạnh, làm nòng cốt thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đồng thời, cần phải hỗ trợ, khuyến khích mọi ngành, lĩnh vực, mọi doanh nghiệp chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu dựa trên khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, có năng lực cạnh tranh trên quy mô toàn cầu. Lựa chọn sản xuất kinh doanh cái gì trong điều kiện hiện nay là vấn đề rất quan trọng, nhưng vấn đề sản xuất kinh doanh như thế nào, bằng cách nào, bằng công nghệ nào còn quan trọng hơn. Bởi vậy, cần phải định hướng phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế, tất cả các doanh nghiệp dù là ở ngành, lĩnh vực nào, sản xuất hàng hóa, dịch vụ gì, đều phải đổi mới công nghệ, đi tắt, đón đầu, chuyển mạnh sang ứng dụng những công nghệ ở trình độ cuộc cách mạng lần thứ tư; ứng dụng những thành tựu mới của công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ thông tin, sử dụng Internet kết nối vạn vật, rôbốt, máy móc, thiết bị thông minh… vào sản xuất kinh doanh và quản lý sản xuất kinh doanh; tạo sự phát triển nhảy vọt của các ngành, lĩnh vực kinh tế của đất nước từ trình độ công nghệ hiện nay sang tự động hóa, tiến tới thông minh hóa: nông nghiệp thông minh, công nghiệp thông minh, dịch vụ vận tải thông minh, ngân hàng thông minh,… sản xuất kinh doanh thông minh, tiêu dùng thông minh, tổ chức, quản lý xã hội thông minh.
Cùng với định hướng cần phải đổi mới mạnh mẽ công nghệ của cả nền kinh tế, thì cần phải tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực phù hợp với tiềm năng, thế mạnh và yêu cầu phát triển của đất nước, đồng thời phù hợp với bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay. Văn kiện Đại hội Đảng trong nhiều nhiệm kỳ đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Đối với điều kiện nước ta, việc xác định như vậy là đúng đắn, không chỉ với trước đây, mà đúng đắn cả trong điều kiện hiện nay. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội, điều kiện cho nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc, nhảy vọt. Nông nghiệp cần phải nghiên cứu, ứng dụng những tiến bộ mới của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học tạo ra các giống cây, giống con mới, quy trình sản xuất mới, các loại phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y mới thân thiện với môi trường, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; sử dụng các loại máy móc hiện đại, thông minh vào các khâu của quá trình sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến sản phẩm; sử dụng công nghệ thông tin vào quản lý, giám sát quá trình sản xuất, kiểm soát chất lượng sản phẩm. Điều đó sẽ không chỉ nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông nghiệp nước ta mà còn giúp nông nghiệp nước ta phát triển bền vững trước tác động của biến động khí hậu toàn cầu, nước biển dâng.
Đồng thời, cần ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp điện tử, thông tin, viễn thông, công nghiệp chế tạo, công nghiệp năng lượng, công nghiệp vật liệu mới. Đây là những ngành mũi nhọn của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cũng là những ngành công nghiệp nền tảng để phát triển đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các máy móc, thiết bị, hệ thống thông tin, các dây truyền sản xuất tự động, các phương tiện vận tải (cả đường bộ, đường thủy, đường không), thiết bị y tế, các dụng cụ do các ngành chế tạo, điện tử, viễn thông sản xuất phục vụ cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, cho sinh hoạt của dân cư đều phải hướng tới đạt trình độ khoa học công nghệ cao, được trang bị trí tuệ nhân tạo, kết nối mạng thông tin, Internet kết nối vạn vật để trở thành những máy móc, thiết bị, phương tiện, dụng cụ thông minh. Công nghiệp năng lượng phải hướng vào phát triển các dạng năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, thân thiện với môi trường. Công nghiệp vật liệu phải phát triển những vật liệu mới có những đặc tính vượt trội siêu nhẹ, siêu cứng, siêu bền, siêu chịu nhiệt, siêu dẫn… Phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ sản xuất các linh kiện, thiết bị, phụ tùng được tiêu chuẩn hóa, có thể sử dụng được vào nhiều loại máy móc, thiết bị ở nhiều ngành, lĩnh vực; thúc đẩy phân công, chuyên môn hóa sản xuất, mở rộng khả năng, cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu, có giá trị lớn, có vị trí vững chắc trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, cần tập trung xây dựng, phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng với trình độ khoa học công nghệ của thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như: hạ tầng thông tin, viễn thông, Internet kết nối vạn vật, hạ tầng thương mại điện tử, hạ tầng giao thông, điện, nước thông minh…
Thứ ba là phải có tư duy mới về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát huy vai trò của khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN luôn được các đại hội Đảng nhiều nhiệm kỳ xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, là đột phá chiến lược để phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay, trong bối cảnh mới, cùng với việc tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế chính sách, đẩy mạnh cải cách hành chính để tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thì việc hoàn thiện thể chế kinh tế cần tập trung vào xây dựng, hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp. Cần xây dựng, ban hành luật pháp, chính sách cho sự ra đời, hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm, các tổ chức tư vấn pháp luật, tư vấn về khoa học, công nghệ, về tài chính, về xúc tiến thương mại… để khuyến khích, hỗ trợ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khởi nghiệp; cho việc hình thành các ý tưởng đổi mới, sáng tạo và hiện thực hóa các ý tưởng sáng tạo đó thành các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho xã hội; để khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thật sự là một nguồn lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước.
Hoàn thiện thể chế cần tập trung vào tháo gỡ các khó khăn, rào cản để đẩy mạnh việc cơ cấu lại, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế; khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ và quy trình sản xuất, đổi mới quản lý trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (đối với các doanh nghiệp lớn, cần khuyến khích, hỗ trợ nghiên cứu, phát triển công nghệ, phát triển những sản phẩm mới) để phát triển, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, tham gia được vào các chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, các sản phẩm công nghệ cao, đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển nền công nghiệp thông minh, các dịch vụ thông minh. Hoàn thiện thể chế để chủ động thu hút có chọn lọc các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tập trung thu hút các dự án có công nghệ cao, các lĩnh vực mũi nhọn của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thân thiện với môi trường, có liên kết, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước và khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài. Đồng thời, hoàn thiện thể chế, tạo khung khổ luật pháp, những căn cứ pháp lý, những định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật cho việc xây dựng, vận hành, quản lý hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thông minh: các hệ thống giao thông, phương tiện vận tải thông minh, hệ thống điện thông minh, cấp, thoát nước thông minh, thương mại điện tử, bệnh viện và hệ thống chăm sóc sức khỏe thông minh và cho việc xây dựng, vận hành, quản lý các đô thị, thành phố thông minh…
Để công nghiệp hóa không chỉ cần có động lực mà cần phải có nguồn lực, trong đó nguồn lực quan trọng nhất là khoa học - công nghệ và nhân lực chất lượng cao. Nhiệm vụ, mục tiêu công nghiệp hóa đất nước trong những năm vừa qua kết quả đạt được còn hạn chế có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng là khoa học - công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực của đất nước còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu (mặc dù Đảng, Nhà nước ta đã nhận thức đúng vai trò to lớn của khoa học - công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực đối với sự phát triển đất nước, đã xác định khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển đất nước, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là đột phá chiến lược; đòi hỏi phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, đổi mới chính sách đối với khoa học - công nghệ). Hoàn thiện thể chế nhưng không phát triển được khoa học công nghệ, không nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực thì chỉ tạo được môi trường cho đầu tư nước ngoài (mà cũng chỉ ở những khâu gia công, lắp ráp để tận dụng lao động rẻ), khó phát triển được các doanh nghiệp trong nước lớn mạnh. Trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khoa học công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực càng có ý nghĩa và vai trò quyết định đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, tư duy mới về công nghiệp hóa hiện nay là phải tập trung cao cho phát triển khoa học - công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tăng đầu tư nhà nước; học tập kinh nghiệm của các nước tiên tiến để ban hành cơ chế, chính sách về tổ chức, quản lý khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo; khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đầu tư vào phát triển khoa học công nghệ và đào tạo, nhanh chóng nâng cao năng lực khoa học công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Đồng thời, có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp mua, tiếp nhận, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ từ nước ngoài; ưu tiên thu hút các dự án đầu tư nước ngoài (FDI) có tình độ khoa học - công nghệ cao, có cam kết chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước; có chiến lược, kế hoạch đưa sinh viên đi đào tạo ở những nước có công nghệ hàng đầu về những lĩnh vực mà đất nước cần phát triển; thu hút tài năng, nhất là trong người Việt Nam ở nước ngoài vào phát triển đất nước.
Thứ tư là phải có tư duy mới về vai trò và phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng đối với việc phát triển kinh tế trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Rất nhiều lĩnh vực kinh tế mới, phương thức kinh doanh mới, quan hệ kinh tế mới, nhiều loại sản phẩm mới ra đời cần phải có khung khổ pháp luật, hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động, cũng như để Nhà nước điều tiết, quản lý, để bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường. Nhiều sản phẩm mới, lĩnh vực mới có tiềm năng phát triển, đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng cũng đòi hỏi đầu tư lớn, rủi ro cao, cần phải được Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ. Rất nhiều vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường mới nảy sinh đòi hỏi phải có nhà nước mới giải quyết được, như vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tình trạng thất nghiệp đối với lao động bị máy móc thay thế, do đó, làm tăng tình trạng phân hóa giữa các đối tượng xã hội; việc phát sinh nhiều loại tội phạm mới, xâm phạm an ninh mới trên cơ sở sử dụng công nghệ cao… Đặc biệt là, rất cần sự tham gia, hỗ trợ của nhà nước trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển, nhập khẩu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, yếu tố quyết định sự phát triển, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm, nhưng từng doanh nghiệp khó có thể thực hiện được. Tất cả những vấn đề này đòi hỏi phải có vai trò của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước không chỉ là quản lý để bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm công khai, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp, mà rất quan trọng là kiến tạo phát triển, thúc đẩy phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững, bao trùm.
Cùng với đổi mới nội dung quản lý của Nhà nước, phương thức quản lý của Nhà nước cũng cần phải thay đổi thích ứng với sự phát triển đất nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nền kinh tế thông minh, xã hội thông minh đòi hỏi phải có quản lý nhà nước thông minh, có chính phủ thông minh, nền quản trị quốc gia thông minh. Đây là đòi hỏi khách quan, tất yếu. Không có tổ chức nhà nước thông minh, chính phủ thông minh, một nền quản trị quốc gia thông minh thì không thể nắm bắt được đầy đủ, kịp thời những thông tin vô cùng phong phú, đa dạng, thay đổi nhanh chóng của tình hình thực tế mọi mặt của đất chủ nghĩa trong thời đại mới; cũng không thể phân tích, đánh giá, xử lý để đưa ra những quyết định chính xác, kịp thời giải quyết những vấn đề đặt ra. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, nhưng nhất định phải thực hiện. Để làm điều này, cần phải: (1) Xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, hệ thống mạng thông tin kết nối từ chính phủ tới tất cả các bộ, ngành, các địa phương, các doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị, tới từng hộ gia đình, từng người dân và bảo đảm cho hệ thống đó luôn được vận hành thống suốt. Đồng thời, phải xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ về từng người dân, từng hộ gia đình, từng cơ quan, đơn vị, từng doanh nghiệp, tới tất cả các ngành, các địa phương, của cả đất nước và về tình hình, thành tựu trong mọi lĩnh vực trên thế giới. Tất cả những thông tin này phải được lưu giữ, bảo quản, bảo mật và có thể tìm kiếm, khai thác, sử dụng nhanh nhất, chính xác nhất. (2) Xây dựng tổ chức bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến các cấp, các ngành, địa phương, cơ sở tinh gọn, phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với điều kiện các cơ quan đã được trang bị những công cụ thông tin quản lý hiện đại để nắm bắt tình hình, xử lý thông tin, chỉ đạo, điều hành. (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm, phong cách làm việc khoa học, có trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý, nhạy bén với cái mới, có ý tưởng đổi mới sáng tạo, làm chủ được các công cụ, phương tiện hiện đại để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác./.
PGS. TS Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
[1] 2 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 405-406.
[3] 4 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 466-467.
[5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội, 2016, tr. 76.