1. Đặt vấn đề
Trong thế giới đương đại, đảm bảo an sinh xã hội thực chất là đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, hướng đến phát triển toàn diện con người trên cơ sở bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội. An sinh xã hội góp phần trợ giúp, đảm bảo điều kiện sống cho một số nhóm đối tượng yếu thế, giúp họ vượt qua khó khăn khi gặp những rủi ro, biến cố trong cuộc sống. Có thể thấy, trong xã hội văn minh, an sinh xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực đảm bảo sự ổn định và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững.
Đối với Hồ Chí Minh - lãnh tụ của cách mạng Việt Nam, thực hiện an sinh xã hội là giải quyết các vấn đề liên quan trực tiếp đến con người, vì sự phát triển toàn diện của con người và xã hội, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là mục tiêu mà trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn hướng tới. Hồ Chí Minh luôn quan niệm rằng, cần xây dựng một xã hội mà ở đó con người có điều kiện phát triển toàn diện, mọi người ai cũng “no ấm, sung sướng, tự do, ai cũng thông thái và có đạo đức”, được hưởng thụ cuộc sống xứng với phẩm giá con người. Để thực hiện mục tiêu đó, cần xây dựng một hệ thống an sinh xã hội quan tâm và đáp ứng tốt nhu cầu, lợi ích của con người, lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất, và cũng chính hệ thống đó sẽ góp phần phát huy nhân tố con người với tư cách là động lực chủ yếu của quá trình xây dựng xã hội mới.
Trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, trong đó có chính sách an sinh xã hội. Đặc biệt, ngày 01 tháng 6 năm 2012, tại Hội nghị lần thứ 5 khoá XI, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TƯ về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020. Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc “cơ bản bảo đảm an sinh xã hội toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân”[19], tuy vậy, có những mục tiêu an sinh xã hội vẫn chưa đạt được như mong muốn, đồng thời, cũng đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề mới về an sinh xã hội, cần được quan tâm giải quyết. Để có thêm căn cứ thực hiện các mục tiêu, giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội mới xuất hiện đó, một nhiệm vụ quan trọng là tiếp tục đi sâu nghiên cứu, khai thác những giá trị trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm “An sinh xã hội”
An sinh xã hội là vấn đề lớn của mọi quốc gia trong xã hội hiện đại. Nhiều quan niệm về an ninh xã hội đã được đưa ra, làm cơ sở để triển khai các hoạt động nghiên cứu, đề xuất các chính sách có liên quan. Có thể dẫn ra một số quan niệm: Hiệp hội An sinh quốc tế (ISSA) coi an sinh xã hội là thành tố của hệ thống chính sách công liên quan đến sự bảo đảm an toàn cho tất cả các thành viên xã hội chứ không chỉ có công nhân [2]. Những vấn đề mà ISSA dành nhiều sự quan tâm trong hệ thống an sinh xã hội là chăm sóc sức khoẻ thông qua bảo hiểm y tế; hệ thống bảo hiểm xã hội, chăm sóc tuổi già; phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ giúp xã hội [2]. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng‚“an sinh xã hội là sự an toàn chống lại một số nguy cơ, được cung ứng thông qua cách tổ chức thích hợp cho những thành viên nào của mình có thể đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong, cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em” [1]. Có thể thấy, trong các quan niệm trên, an sinh xã hội là những chính sách cung cấp các trợ giúp cho các đối tượng yếu thế trong xã hội nhằm giúp họ có được những điều kiện sống cơ bản trong các hoàn cảnh khó khăn.
Trong những năm gần đây, xu hướng tiếp cận an sinh xã hội như một quyền cơ bản của con người nhận được sự đồng thuận rộng rãi ở Việt Nam. Điều 34 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) quy định: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Đây là cách tiếp cận mới phù hợp với xu hướng tiến bộ của thế giới.
Từ những định nghĩa trên cho thấy, an sinh xã hội vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề xã hội, có tính nhân đạo rất sâu sắc. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đề cập đến thuật ngữ an sinh xã hội theo nghĩa là một hệ thống chính sách công nhằm trợ giúp các cá nhân và nhóm xã hội yếu thế/gặp phải rủi ro hoặc biến cố xã hội để đảm bảo các điều kiện sống cơ bản của họ. Theo đó, an sinh xã hội góp phần đảm bảo thu nhập và các điều kiện sống khác cho các công dân trong xã hội khi họ là các đối tượng yếu thế/không may gặp phải những “rủi ro xã hội” hoặc các “biến cố xã hội” dẫn đến ngừng hoặc giảm thu nhập. Phương thức hoạt động của an sinh xã hội là thông qua các giải pháp công để tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội, góp phần hướng tới hạnh phúc cho mọi người và cho xã hội. Theo quan niệm trên, an sinh xã hội trước hết là sự bảo đảm của xã hội đối với các thành viên của mình. Sự bảo đảm này được thực hiện thông qua các giải pháp công. Như thế, về mặt bản chất, an sinh xã hội là chính sách thực hiện quyền con người, thể hiện chủ nghĩa nhân đạo tốt đẹp.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội
Hồ Chí Minh không trực tiếp sử dụng khái niệm “an sinh xã hội” trong các bài nói, bài viết của Người, song nội dung tư tưởng về các vấn đề an sinh xã hội thì được thể hiện từ rất sớm và dần hoàn thiện, trở thành một hệ thống hoàn chỉnh trong quá trình nhận thức và hành động của Người. Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, khi bàn về vai trò của Công hội, Người đã nêu nội dung: “Lại có bất thường phí, như để dành phòng lúc bãi công hoặc giúp những hội khác bãi công, hoặc giúp đỡ những người trong hội mất việc làm, hoặc làm các việc công ích” [5, tr. 335]. Đến Chương trình Việt Minh (1944) tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội tiếp tục được thể hiện rõ nét và đầy đủ hơn. Người đề cập đến việc tổ chức thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ tiền lương, chế độ hưu trí, cứu tế thất nghiệp đối với công nhân, cứu tế nông dân trong những năm mất mùa, v.v.. Người chủ trương xây dựng một xã hội được bảo đảm an sinh đối với tất cả các tầng lớp xã hội, đó là:
“1. Thi hành luật lao động, ngày làm việc 8 giờ.
2. Giúp đỡ các gia đình đông con.
3. Lập ấu trĩ viên để chăm nom trẻ con.
4. Lập các nhà chiếu bóng, diễn kịch, câu lạc bộ, thư viện để nâng cao trình độ trí dục cho nhân dân.
5. Lập thêm nhà thương, nhà đỡ đẻ, nhà dưỡng lão” [6, tr. 632].
Từ đó, Hồ Chí Minh cho rằng, với tư cách là chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội, Đảng và Nhà nước cần thông qua hệ thống chính sách để giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến con người, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Đặc biệt, trong bản Di chúc (1969) thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người đã căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”, trong đó có những đối tượng “yếu thế”[17, tr. 612].
Điều đặc biệt là, ngay từ rất sớm và nhất quán trong suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn quan niệm an sinh xã hội là quyền con người. Cách tiếp cận quyền con người đối với an sinh xã hội là cách tiếp cận hiện đại, độc đáo, đặc sắc và có giá trị vượt trước thời đại của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội, con người sinh ra có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; bên cạnh đó, trong xã hội hiện đại, con người còn có nhiều quyền chính trị, dân sự khác. Đó không chỉ là các quyền bất khả xâm phạm mà trách nhiệm, tính chính đáng của các nhà nước văn minh, tiến bộ, là phải bảo vệ, bảo đảm cho các quyền đó được thực thi một cách đầy đủ và rộng rãi, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao trong tiến trình phát triển xã hội. Thực chất của an sinh xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là bảo vệ, đảm bảo quyền con người.
Nhìn một cách khái quát, tư tưởng của Người về an sinh xã hội bao gồm các nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, về mục đích của an sinh xã hội.
Mục đích của an sinh xã hội theo tưởng Hồ Chí Minh, nói một cách ngắn gọn, là vì con người, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của con người. Xuyên suốt toàn bộ cuộc đời và tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh, “đầu tiên là công việc đối với con người”. Hồ Chí Minh luôn đặt con người vào vị trí trung tâm trong mọi suy nghĩ và hành động của Người. Nhiều lần trong suốt cuộc đời, trong đó có bức thư gửi đồng bào trước khi sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau năm 1946, Hồ Chí Minh đã tuyên bố rất rõ điều đó: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”[7, tr. 272].
Dưới ngọn cơ tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, trong mọi giai đoạn giành, giữ và sử dụng chính quyền, cũng đều vì con người, vì sự phát triển toàn diện của con người, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của con người. Người nhiều lần chỉ rõ: “Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”[8, tr. 285]; “Những chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân”[13, tr. 607]; “Trước sau như một, Đảng luôn luôn vì lợi ích của nhân dân nói chung và của nông dân nói riêng mà phấn đấu”[15, tr. 210].
Khi nói đến các chính sách xã hội cụ thể, mục đích vì con người càng được Hồ Chí Minh nhấn mạnh, nhất là khi các chính sách đó liên quan đến các đối tượng xã hội đặc biệt, những người yếu thế. Người viết: “phải làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”[15, tr. 438].
Chính mục đích tốt đẹp, thấm đẫm tinh thần nhân đạo đó, đã làm nên bản chất, tính ưu việt của chế độ ta. Trong tác phẩm Dân vận (1949) Hồ Chí Minh chỉ rõ: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…”. Đã là một nhà nước dân chủ mới, một nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, thì vì con người, vì nhân dân, vì những người “yếu thế” phải là mục đích, bản chất của mọi đường lối, chính sách. Điều cần nhấn mạnh ở đây là, mục đích nhân đạo nói trên được Hồ Chí Minh coi là mục đích duy nhất của mọi chính sách xã hội trong chế độ của chúng ta. Chính sách nào đi chệch mục đích trên; hành vi nào làm sai lệch mục đích tốt đẹp nói trên của các chính sách xã hội, đều đi ngược lại bản chất của chế độ ta, phải bị lên án và đấu tranh mạnh mẽ. Đối với Đảng, Người chỉ rõ: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”[8, tr. 289]; đối với Nhà nước, Người khẳng định: “Dân tin cậy ai thì người ấy trúng cử và bổn phận những người trúng cử là làm đày tớ công cộng cho dân chứ không phải làm quan phát tài”[8, tr. 39]. Với Hồ Chí Minh, “ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác”[15, tr. 210]. Có thể thấy, đây là một quan điểm cần đặc biệt lưu ý trong xây dựng và thực hiện chính sách, nhằm bảo vệ chính sách, bảo vệ mục đích, bản chất tốt đẹp trong mọi đường lối, chính sách, đặc biệt là chính sách xã hội của chúng ta.
Thứ hai, về đối tượng của an sinh xã hội.
Với mục đích vì con người, trong xây dựng và thực hiện chính sách, Hồ Chí Minh quan tâm đến mọi đối tượng trong xã hội để có chính sách phù hợp. Đối tượng của an sinh xã hội cũng như vậy. Với Hồ Chí Minh, vì con người phải là vì mọi người, không thể có phân biệt đối xử một cách định kiến. Quan điểm nói trên được Hồ Chí Minh nêu rõ trong bản Di chúc thiêng liêng của Người. Hồ Chí Minh căn dặn: Đảng và Nhà nước cần quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện để những người có công với cách mạng có công ăn, việc làm thích hợp, quyết không để họ đói rét. “Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong, Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất cho đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo họ thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc”[17, tr. 616 - 617]. Đối với phụ nữ, “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”[17, tr. 617]. Đối với các đối tượng trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., mà Người gọi là “những nạn nhân của chế độ xã hội cũ”, thì “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”[17, tr.617]. Đối với nông dân, Đảng và Chính phủ “miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”[17, tr. 617], v.v.. Có thể thấy, ở Hồ Chí Minh có sự thống nhất giữa mục đích và đối tượng an sinh xã hội. Chính sách an sinh xã hội phải hướng đến mọi đối tượng của an sinh xã hội, không bỏ sót bất kỳ đối tượng nào.
Điều cần lưu ý ở đây là, chính sách xã hội, trong đó có chính sách an sinh xã hội, quan tâm đến mọi người, nhưng không phải là cào bằng, càng không phải là sự ban phát từ trên xuống. Theo Hồ Chí Minh, chính sách an sinh xã hội là sự điều phối các nguồn lực, góp phần điều hòa các mối quan hệ giữa quyền lợi và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ của từng cá nhân, tập thể, của các giai cấp, tầng lớp, nhóm người trong xã hội, đảm bảo cho mọi người đều có cơ hội sống và phát triển. Mọi đối tượng, kể cả đối tượng “yếu thế” trong xã hội, tuyệt đối không thể có tâm lý, thái độ trông chờ, ỷ lại, mà phải biết trân trọng các điều kiện mà chính sách xã hội mang lại, không ngừng nỗ lực, phấn đấu, đóng góp phần mình vào sự ổn định và phát triển chung của xã hội. Trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh đã dành sự ghi nhận, trân trọng, khuyến khích, động viên các cụ phụ lão, các em thiếu nhi, các thương bệnh binh, v.v., - những người “yếu thế”, nhưng vẫn sống có trách nhiệm, vẫn góp phần vào những thành công của sự nghiệp cách mạng. Có thể khẳng định rằng, quan điểm về mục đích, đối tượng của an sinh xã hội đã thể hiện một tư duy sáng tạo, thấm đẫm tính nhân văn, nhân đạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quá trình xây dựng xã hội mới ở Việt Nam. Nhìn tư mục đích và đối tượng, có thể thấy, an sinh xã hội, theo Hồ Chí Minh là nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người, điều tiết và làm lành mạnh các mối quan hệ xã hội, qua đó góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thứ ba, về nội dung xây dựng và thực hiện an sinh xã hội.
Với mục tiêu vì con người, hướng tới đối tượng là mọi con người, vì thế, nội dung xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng rất toàn diện. Trong khuôn khổ bài viết này, có thể kể đến những chính sách chủ yếu là: Chính sách lao động và việc làm, Chính sách xoá đói giảm nghèo, Chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Chính sách đối với người có công với cách mạng.
Về chính sách lao động và việc làm, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải “làm sao cho nhân dân có công ăn việc làm”[12, tr. 65] để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Muốn vậy, “chính quyền và quân đội nhân dân phải bảo vệ cho nhân dân làm ăn yên ổn”[9, tr. 487] và “phải tuyên truyền rộng khắp các chính sách khuyến khích sản xuất”[12, tr. 213]. Trong quá trình đất nước từng bước chuyển đổi sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải ra sức khôi phục lại kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, vận tải” [11, tr. 226] nhằm tạo ra công ăn việc làm cho nhân dân lao động theo nguyên tắc “công và tư đều được chiếu cố, chủ và thợ đều có lợi. Các bạn công nhân hăng hái sản xuất. Bà con công, thương hăng hái kinh doanh” [11, tr. 80]. Như thế, trong quan điểm Hồ Chí Minh, chính sách lao động và việc làm giữ vị trí, vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống nhân dân và khẳng định trách nhiệm của chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người dân. Ngược lại, đối với các tầng lớp nhân dân, người dân cũng phải luôn nhớ rằng: “lao động là một nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người công dân đối với Tổ quốc. Ai cũng phải tuỳ khả năng mình mà tự nguyện tự giác tham gia lao động, góp phần xây dựng nước nhà”[12, tr. 545].
Về chính sách xoá đói, giảm nghèo, hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấu hiểu trình độ phát triển của xã hội Việt Nam do các chính sách lạc hậu dưới triều Nguyễn, cũng như các chính sách bóc lột của thực dân, đế quốc, và sự tàn phá mà chiến tranh gây ra. Chiến độ mới ở Việt Nam phải đối mặt với một “gia tài nghèo nàn, lạc hậu”, trong đó: “người nghèo khổ thì nhiều, người no ấm thì ít” [8, tr. 113]. Do đó, Người cho rằng: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành”[7, tr. 175]; “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm”[8, tr. 81]. Để xoá đói, giảm nghèo, trong bối cảnh các nguồn lực kiệt quệ, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Người yêu cầu phải thực hiện: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập” [7, tr. 135]. Về lâu dài, Người chủ trương phát triển toàn diện nền kinh tế, trong đó có sự hài hòa, cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ; giữa các thành phần kinh tế; giữa kinh tế quốc nội và kinh tế đối ngoại.
Về chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Hồ Chí Minh xác định, sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của mọi công việc. Người từng nói: Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ... Dân cường thì quốc thịnh [7, tr. 241]. Người đã ban hành Sắc lệnh số 29/SL (ngày 12-3-1947) tạo cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc tổ chức thực hiện chế độ bảo hiểm ốm đau, tai nạn, chăm sóc sức khỏe. Sự quan tâm của Hồ Chí Minh tới sức khỏe, coi trọng y tế dự phòng đã đặt nền móng cho việc xây dựng và phát triển bảo hiểm y tế toàn dân ở Việt Nam sau này. Sức khoẻ quan trọng là như thế, cho nên Hồ Chí Minh luôn coi trọng quyền bình đẳng trong việc được bảo vệ sức khoẻ của mọi người dân. Người dân phải được bình đẳng về quyền được khám chữa bệnh, được nằm viện điều trị khi cần, được hưởng thuốc theo bệnh và được sử dụng các phương pháp điều trị phù hợp.
Về chính sách đối với người có công với cách mạng, quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ là dù trong hoàn cảnh nào cũng giúp họ từng bước ổn định và nâng cao dần đời sống vật chất, tinh thần. Người thường xuyên nhắc các cơ quan và các đoàn thể phải thực hiện thật tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, bệnh binh và các gia đình có công với cách mạng; phải có những việc làm thiết thực để đến ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, những người có công; “tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”[17, tr. 616], giúp họ ổn định cuộc sống, có cơ hội tham gia vào các hoạt động của xã hội và góp phần vào việc xây dựng đất nước.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, có một điểm rất sâu sắc, cần đặc biệt chú ý, đó là nhân dân vừa là đối tượng, vừa là chủ thể trong xây dựng và thực hiện chính sách. Triết lý của Hồ Chí Minh là: “Đem sức ta giải phóng cho ta”, theo đó, nhân dân trước hết phải có ý thức là chủ và năng lực làm chủ đối với sự nghiệp cách mạng nói chung, đối với xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội nói riêng. Từ đó, trong xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội, Người chủ trương: “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”[8, tr. 81]. Thậm chí, để nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của nhân dân, có lúc Người nhấn mạnh: “Không phải Chính phủ xuất tiền ra làm. Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động”[8, tr. 81]. Đối với nhà nước, hay rộng hơn là cả hệ thống chính trị, ngoài vai trò trực tiếp là chủ thể chính sách, còn phải chú trọng “giác ngộ” và “tổ chức”, phải chú trọng nâng cao ý thức và năng lực là chủ và làm chủ của nhân dân, để biến quá trình chính sách an sinh xã hội trở thành sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đối với nhân dân, Hồ Chí Minh lưu ý: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới - trước hết là tổ chức nền sản xuất mới. Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình”[14, tr. 527], trên cơ sở đó không chỉ là đối tượng thụ hưởng, mà còn hoàn thành tốt vai trò là chủ thể của quá trình chính sách an sinh xã hội.
2.3. Những gợi mở cho việc xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay
Từ những nội dung trình bày ở trên có thể thấy, mục tiêu an sinh xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân; nội dung an sinh xã hội là bảo đảm các điều kiện sống và phát triển của con người, từ việc đáp ứng những nhu cầu thiết yếu để tồn tại, như: ăn, mặc, chỗ ở, đến những nhu cầu cao hơn như: học hành, khám chữa bệnh, v.v.; và đặc biệt là chính sách an sinh xã hội đó hướng đến mọi đối tượng chính sách, là chính sách vì mọi người, của mọi người và do mọi người, theo đúng tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau” như đã nêu trong Chương trình nghị sự của Liên hợp quốc giai đoạn 2015 - 2030. Tất cả những điều đó thể hiện tư duy vượt trước thời đại của Hồ Chí Minh, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho việc xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội của Việt Nam hiện nay.
Có thể đúc rút một số gợi mở cho việc xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay như sau:
Một là, luôn lấy con người làm gốc, làm xuất phát điểm, trung tâm và đích hướng tới của mọi chính sách an sinh xã hội.
Triết lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh đạt đến chiều sâu nhất của chủ nghĩa nhân văn hành động chính là ở chỗ, Hồ Chí Minh đã lấy con người, mà trước hết là nhân dân lao động làm điểm trung tâm, nơi xuất phát và cũng là điểm cuối cùng của việc xây dựng và thực hiện an sinh xã hội. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mọi chính sách xã hội nói chung, chính sách an sinh xã hội đều phải xuất phát từ cuộc sống, từ đời sống thường nhật của người dân, từ những thân phận con người cụ thể và những vấn đề cụ thể mà người dân đang phải đối mặt, dù đó là chuyện “tương, cà, mắm, muối”, chuyện “cơm ăn”, “áo mặc”, “học hành”. Không chỉ như vậy, còn phải “đưa chính trị vào giữa dân gian”, tức là phải làm sao để nhân dân trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng chính sách: học cách làm hay của chính nhân dân; lấy ý kiến của nhân dân trước khi ban hành chính sách, v.v.. Có chính sách rồi, lại phải huy động các nguồn lực của nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân để thực hiện chính sách, theo đúng phương châm “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”. Cuối cùng, phải đánh giá hiệu quả chính sách, tìm căn cứ điều chỉnh chính sách từ “lòng dân”, từ đánh giá của đối tượng thụ hưởng chính sách. Hồ Chí Minh nhiều lần đặt vấn đề và đưa ra những chỉ dẫn quan trọng để sao cho “được lòng dân”. Được lòng dân là được tất cả, mất lòng dân là mất tất cả - đó là triết lý chính trị của Hồ Chí Minh cần được quán triệt trong xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Hai là, xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội phải hài hòa với chính sách kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế.
Một trong những nét nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội chính là ở chỗ, Người tập trung giải quyết mối quan hệ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế. Người cho rằng, trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội, ngược lại, khi các vấn đề xã hội được giải quyết mang tính hợp lý, công bằng, tiến bộ thông qua chính sách xã hội sẽ góp phần tạo ra động lực mạnh mẽ để thực hiện các mục tiêu kinh tế. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải luôn nhớ rằng: Điều quan trọng nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là nhằm cải thiện dần đời sống của nhân dân” [12, tr. 314]. Đây là một quan điểm đặc sắc trong triết lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh. Quan điểm đó cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Thực tế cũng đã chứng minh, không thể có an sinh xã hội đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển. Ngược lại, không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã hội chưa xây dựng được hệ thống chính sách xã hội đảm bảo quyền lợi cho tất cả mọi người, đặc biệt là người lao động, người yếu thế. Thực tiễn Việt Nam và nhiều nước trên thế giới những năm qua cho thấy, nếu chỉ quan tâm đến thực hiện chính sách kinh tế, tất cả vì mục tiêu kinh tế sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường (ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên; phân hoá giàu - nghèo, bất công trong xã hội; thất nghiệp gia tăng; khủng hoảng kinh tế hay tình trạng bất ổn trong xã hội…). Nhưng chỉ quan tâm đến giải quyết chính sách xã hội, thực hiện các mục tiêu xã hội mà không tính toán một cách phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, thì không chỉ không có điều kiện để thực hiện, mà quay trở lại còn sẽ triệt tiêu động lực phát triển kinh tế. Do vậy, xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội một cách hài hòa với chính sách kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, thì mới có thể đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ba là, trong xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội phải đảm bảo công bằng xã hội.
Công bằng xã hội là khát vọng lớn lao của con người và là vấn đề tác động mạnh mẽ đến con người, đến nhận thức và hành động của các cá nhân và nhóm xã hội. Ở trình độ phát triển của xã hội hiện nay, công bằng thể hiện ở sự tương xứng giữa đóng góp và hưởng thụ. Hồ Chí Minh cũng quan niệm như vậy. Người đã nhiều lần chỉ rõ: “Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng”[13, tr.404]. Tuy vậy, trong xã hội có những đối tượng đặc biệt, vì nhiều lý do, những đối tượng này được coi là “yếu thế” so với những đối tượng khác, vì thế, cũng là để đảm bảo sự công bằng, cần có những chính sách đặc biệt cho những đối tượng đặc biệt này. Chẳng hạn, Hồ Chí Minh viết: “Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”[13, tr.404]. Một phần quan trọng của chính sách an sinh xã hội chính là hướng đến những đối tượng này. Theo nghĩa đó, tự bản thân nó, những chính sách an sinh xã hội đúng đắn đã là sự thể hiện của công bằng trong xã hội. Tuy nhiên, trên một phương diện khác, do chỗ chính sách an sinh xã hội gắn liền với việc điều phối các nguồn lực xã hội, nên cần đảm bảo các chính sách đó không gây nên một trạng thái “bất công bằng” khác, không làm suy yếu hay triệt tiêu động lực phát triển của các cá nhân và nhóm xã hội khác, không làm nảy sinh căng thẳng xã hội. Cũng với tinh thần đảm bảo công bằng xã hội, trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, cần tạo điều kiện, khuyến khích, động viên, để các đối tượng “yếu thế” có thể phát huy được khả năng của mình, đóng góp cho sự phát triển chung của xã hội, đảm bảo sự hài hòa giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Đây cũng là điều, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn rất quan tâm, nhằm đảm bảo cho chính sách an sinh xã hội giữ đúng bản nhất nhân đạo của nó, thực sự là một động lực cho sự phát triển của con người và xã hội.
Bốn là, xây dựng và thực hiện an sinh xã hội phải đặt trong tổng thể tư duy về quản trị quốc gia.
Với tư cách là một chính sách xã hội, chính sách an sinh xã hội cũng là một “phương tiện” của quản trị quốc gia. Về điều này, sinh thời Hồ Chí Minh cho rằng: “Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: Phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc gì phải làm ngay, việc gì phải chờ, hoãn hay bỏ, món nào đáng tiêu, người nào đáng dùng: tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận”[3, tr.14]. Hồ Chí Minh hiểu rất rõ quản trị quốc gia là sự nhận thức, tính toán, cân đối, bố trí và sử dụng các nguồn lực của đất nước, của nhân dân một cách hợp lý nhằm đem lại hiệu quả cao nhất và mang tính bền vững. Nội dung của chính sách an sinh xã hội liên quan đến mọi chủ thể, mọi nguồn lực, mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thực hiện chính sách an sinh xã hội lại tác động đến các mối quan hệ xã hội, đến các giá trị dân chủ, công bằng, bình đẳng, v.v.. Chính vì thế, việc xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội cần được đặt trong tư duy về quản trị quốc gia, cần được tính toán và triển khai một cách cẩn trọng, đúng như chỉ dẫn ở trên của Hồ Chí Minh. Nếu không chú ý điều đó, những mục đích tốt đẹp của chính sách an sinh xã hội sẽ khó đạt được một cách bền vững, thậm chí có thể còn ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển tổng thể của quốc gia.
5. Kết luận
Trong hệ thống di sản của Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về chính sách xã hội nói chung, về an sinh xã hội nói riêng có nội dung phong phú và chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc, có sức sống vượt thời gian. Các quan điểm của Hồ Chí Minh về mục đích, đối tượng, nội dung xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội được trình bày một cách khái lược ở trên chỉ là một phần trong tư tưởng đó. Đặt trong bối cảnh hiện nay, có thể thấy, những quan điểm đó chứa đựng nhiều gợi mở quan trọng, không phải ở những chi tiết cụ thể, mà là ở cách tiếp cận, cách tư duy về vấn đề. Những gợi mở mà chúng tôi đúc rút ở trên là một số điểm nhấn: 1) luôn lấy con người làm gốc, làm xuất phát điểm, trung tâm và đích hướng tới của mọi chính sách an sinh xã hội; 2) xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội phải hài hòa với chính sách kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế; 3) trong xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội phải đảm bảo công bằng xã hội; và 4) xây dựng và thực hiện an sinh xã hội phải đặt trong tổng thể tư duy về quản trị quốc gia, có thể là điểm tựa cho những suy tư sâu sắc và cụ thể hơn trong nhận diện và giải quyết các vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay./.
PGS.TS Lại Quốc Khánh
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- ILO, (2001), Social Security - A new consensus, Geneva, International Labour Office, ISBN: 92-2-112624-2.
- ILO, (2021), Assessment of the Social Security responses to COVID-19, ISBN: 9789220343494 (Web PDF).
- Hồ Chí Minh (1990), Về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1997), Đổi mới chính sách xã hội. Luận cứ và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-hoi-nghi-lan-thu-nam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-mot-so-van-de-chinh-sach-xa-hoi-giai-2508.