Thứ Sáu, ngày 29 tháng 03 năm 2024

Về vấn đề xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam

Ngày phát hành: 02/12/2022 Lượt xem 1899


       

Xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam là nhiệm vụ không tách rời với xây dựng hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị quốc gia. Về thực chất, đó là sự tìm kiếm một tổng thể các giá trị tin cậy với chuẩn mực lý tưởng về con người, nhằm khơi dậy ý chí phát triển, định hướng để từng con người và toàn xã hội phát triển lành mạnh, phát huy được tối đa tiềm năng, thu hút được ngoại lực và tinh hoa văn hoá, văn minh nhân loại, thực hiện thành công mục tiêu kỳ vọng mà Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra là, phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao.

1. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng các hệ giá trị cốt lõi, năm 2014, việc “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam… Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [1] được đặt ra tại Nghị quyết số 33-NQ/TW của BCH TW Đảng khóa XI. Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết này, rất nhiều vấn đề bức xúc về con người và văn hóa đã bộc lộ ra. Ngày 4/6/2020 Bộ Chính trị đã ra kết luận đánh giá quá trình thực hiện Nghị quyết này. Kết luận chỉ rõ, sự nghiệp phát triển văn hóa và xây dựng con người, bên cạnh những thành tựu đáng kể đã đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, trong đó, “Việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế chưa đạt được mục tiêu đề ra. Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại”[2].

 

Đây cũng chính là lý do khiến vấn đề xây dựng chuẩn mực con người được đặt ra tại Đại hội XIII của Đảng. Trong nội dung thứ VII của Báo cáo chính trị “Xây dựng và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người”, Văn kiện Đảng xác định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới… Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam đã tồn tại trong lịch sử; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”[3].

 

Nội dung này có phần khác trước, khi về mặt lý luận, chủ trương xây dựng chuẩn mực con người được thay thế cho việc xác định hệ giá trị con người Việt Nam.

 

Nếu từ năm 1998 tức là từ Hội nghị Lần thứ 5 BCH TW khóa VIII, đến năm 2014, khái niệm được dùng chủ yếu trong các tài liệu lý luận là “Hệ giá trị văn hóa Việt Nam”, thì từ năm 2014 tức là từ Hội nghị lần thứ 9 BCH TW khóa XI, khái niệm “Hệ giá trị con người” đã được sử dụng phổ biến hơn. Từ đó, trên sách báo lý luận hai khái niệm này thường được dùng gắn kết bên cạnh nhau hoặc được gọi là “Hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam”.

 

Sự dịch chuyển của việc sử dụng các khái niệm này có một ý nghĩa nhất định.

 

Bởi hệ giá trị văn hóa ở phạm vi cộng đồng, đặc biệt ở phạm vi các cộng đồng lớn như dân tộc hay quốc gia, về thực chất cũng chính là hệ giá trị con người. Không có văn hóa nào không phản ánh khả năng và trình độ của chủ thể của nó là con người cả. Nói đến giá trị văn hoá, chẳng qua là nói đến giá trị của kẻ làm ra nó - con người (con người tạo ra văn hóa - giới tự nhiên thứ hai). Nhưng đáng chú ý hơn, đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã xuất hiện tình trạng văn hóa xuống cấp, thậm chí đến mức đáng lo ngại, “không đủ để tác động có hiệu quả đến xây dựng con người. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng”[4]. Do vậy, việc chú trọng hơn đến việc xây dựng các chuẩn mực con người có thể coi là một bước đi thiết thực hơn trong hoạt động lý luận và thực tiễn về xây dựng con người và văn hoá Việt Nam.

 

Tại Hội nghị văn hoá toàn quốc 24/11/2021, về các giá trị cốt lõi mà văn kiện Đại hội XIII đã đề cập, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng coi một trong những “nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá dân tộc” là: “Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hoá gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”[5].

 

Theo tinh thần bài nói của Tổng Bí thư, việc xây dựng con người Việt Nam theo những chuẩn mực phù hợp, gắn với các giá trị cốt lõi (hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị gia đình Việt Nam) là đòi hỏi cấp thiết của đời sống hiện  nay. Có thể coi “yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, và sáng tạo” là một phương án xác định chuẩn mực của con người Việt Nam phù hợp với những yêu cầu của thời kỳ mới.

 

2. Đời sống con người xưa nay đều diễn ra trong và thông qua sự kiểm định của thế giới các các chuẩn mực. Tất cả những gì con người suy nghĩ, mong muốn, tỏ thái độ hay hành động… đều được mỗi cá nhân tự đặt bản thân mình trước sự “đo đạc” và phán xét” của các chuẩn mực. Trên cơ sở đó, con người sẽ lựa chọn thực hiện thái độ và hành vi, tuân thủ nhiều hay ít chuẩn mực cộng đồng.

 

Chuẩn mực con người, thực chất cũng là chuẩn mực xã hội. Ngay cả trường hợp những cá nhân tự xác định chuẩn mực cho riêng mình, chỉ mình anh ta thực hiện, không cần đến sự can thiệp của người khác, của cộng đồng, thì trên thực tế, những chuẩn mực mà anh ta tự xác định cũng vẫn là chuẩn mực xã hội - chuẩn mực theo những quan niệm xã hội nào đó, mà anh ta thu nhận từ cộng đồng và tự áp dụng cho mình. Với những trường hợp này, cơ chế kiểm tra, đánh giá thường rất nghiệm ngặt, tưởng như chỉ có ý nghĩa cá nhân, nhưng thực tế vẫn là theo những nguyên tắc, quy tắc, luật lệ… xã hội.

Con người thường khao khát có một cuộc sống có ý nghĩa và hạnh phúc, trong một xã hội tốt đẹp, tiến bộ. Khi chuẩn mực xã hội được cho là hợp lý, đúng đắn, hay thiêng liêng, thì những chuẩn mực ấy trở thành quỹ đạo của những hành vi và thái độ lý tưởng, đến mức đôi khi người ta sẵn sàng hy sinh cho những mục đích nào đó mà họ cho là cao cả.

 

Do vậy, chuẩn mực xã hội (Social Standard, Social Norm) là những nguyên tắc, quy tắc, kể cả quy định và quy ước, những khuôn mẫu thái độ và hành vi (Patterns of attitudes and behavior), những lề thói đám đông (Crowd Routines), thậm chí cả những định kiến…, được thiết kế hoặc tự hình thành, được thừa nhận ngầm định (Implicit Admission) hoặc chính thức, công khai… dùng để “đo đạc” và phán xét” (Measurement, Judgment) hành vi và hoạt động, tác phong và thói ứng xử, quan niệm và thái độ… của cá nhân hoặc cộng đồng[6].

 

Chức năng tự nhiên của chuẩn mực xã hội là quy định và điều chỉnh thái độ và hành vi con người về nghĩa vụ và trách nhiệm, về những cấm kỵ và những điều được phép, về những phản cảm hay những khuôn thước được coi là đúng đắn và tốt đẹp… mà cá nhân và cộng đồng cần phải noi theo…

 

Về mặt lý thuyết, ở mức độ đơn giản nhất, chuẩn mực xã hội thường được phân loại thành hai loại chủ yếu: Chuẩn mực xã hội ngầm định (Implicit Norms) và chuẩn mực xã hội pháp quy (Legal Norms). Chuẩn mực xã hội pháp quy là những nguyên tắc, quy tắc, luật lệ… được quy định chính thức, có tính chất bắt buộc và thường có chế tài kèm theo. Chuẩn mực xã hội ngầm định, một thành phần rất đáng kể của chuẩn mực xã hội, là lẽ phải thông thường, những lề thói đám đông, những khuôn mẫu thái độ và hành vi không mang tính chất pháp lý, không được quy định chính thức, nhưng vẫn có sức mạnh điều chỉnh đối với con người và đôi khi còn hơn cả luật pháp[7].

 

Về phương diện khoa học, có những bí ẩn của chuẩn mực xã hội, mà ngay trong các tài liệu khoa học uy tín cũng không thấy được giải đáp thỏa đáng.

Chẳng hạn, chuẩn mực xã hội có thành phần gồm những gì? - chủ yếu là lý tính, lý trí gắn liền với logic, hay chủ yếu là thái độ, tình cảm gắn liền với thói quen cảm tính? Tại sao không một quyền lực nào có thể “sai khiến” được chuẩn mực xã hội, mà ngược lại chính nó lại sai khiến con người, từ người có quyền lực đến người bình thường? Bằng sức mạnh nào mà chuẩn mực xã hội có thể “cầm cương nảy mực” trong đời sống một cách tự nhiên và được mọi người tỏ thái độ (chấp nhận hoặc phản đối) như vậy?

 

Nhiều nhà tâm lý học đã có những công trình nghiên cứu công phu xác định thành phần chủ yếu của chuẩn mực xã hội là cảm tính. Người ta căn cứ vào những bất hợp lý của việc thực hiện các chuẩn mực xã hội trong thực tế, để xem xét vai trò của yếu tố cảm tính trong các chuẩn mực xã hội. Tuy nhiên nhiều ý kiến khác lại tìm ra những bằng chứng, cũng không kém phần thuyết phục, để khẳng định thành phần chủ yếu của các chuẩn mực xã hội chính là lý tính. Người ta giải thích rằng, đằng sau các hành vi tuân thủ chuẩn mực xã hội tưởng chừng như nông nổi, cảm tính, hay đằng sau các quan niệm đề cao chuẩn mực xã hội tưởng chừng như hời hợt, nông cạn, bao giờ cũng là những yếu tố lý tính, những quan niệm đã trở thành niềm tin, hoặc đã được hình được hình thành từ lâu trong đời sống xã hội, quy định các phương thức xử sự của con người.

 

Có nhà khoa học còn khẳng định rằng, lý trí, lý tính bao giờ cũng là trái tim của các chuẩn mực, và các giá trị là nguyên nhân của các nguyên nhân để con người thừa nhận, tuân theo hay phản đối các chuẩn mực xã hội (Reason is the heart of normativity; Values are the causes that give reasons reason)[8].

 

 

3. Chuẩn mực xã hội nào cũng đều không tách rời quan niệm thông thường về chân thiện mỹ, kể cả chuẩn mực xã hội pháp quy. Đây là một trong những bí ẩn của chuẩn mực xã hội và là vấn đề rất nan giải đối với thực tiễn xã hội.

Rất nhiều hành vi và hiện tượng xã hội ở Việt Nam hiện nay đang bị coi là lệch chuẩn, không chỉ chuẩn đạo đức, mà còn cả về chuẩn pháp lý. Chính vì thế mà vấn đề xây dựng chuẩn mực con người được đặt ra một cách cấp thiết. Kỳ vọng được giả định là, nếu xã hội có những hệ chuẩn mực hợp lý, đúng đắn, sáng suốt, phù hợp với mục tiêu của tiến bộ xã hội… thì hành vi và hoạt động của con người sẽ có căn cứ để điều chỉnh và tự điều chỉnh, xã hội sẽ bớt đi những hiện tượng lệch chuẩn.

 

Tuy nhiên, kỳ vọng này vô tình lãng quên một thực tế rằng, chính các “lề thói và quan niệm ứng xử thông thường” tự phát, đang được thực hiện trong đời sống xã hội lại tự cho mình là những “chuẩn mực xã hội”, tự ngầm định về chân, thiện, mỹ (làm theo lề thói của đám đông, ứng xử như cộng đồng đang ứng xử thông thường, được coi là hợp lý, thậm chí là đúng, là tốt, là đẹp).

 

Chẳng hạn trong xã hội Việt Nam hiện nay, rất nhiều chuẩn mực được quy định chính thức thành văn bản một cách hợp pháp, kể cả những quy định, quy tắc, nội quy của một số đoàn thể, tổ chức xã hội. Nhưng trong thực tế, lại không nhiều người tự thấy mình phải căn cứ vào đó để để suy nghĩ và hành động, hoặc thực sự tuân thủ chấp hành. Trong khi đó, có những thói quen giao tiếp, cách thức hoạt động, lề thói ứng xử… phải nói là thói xấu, là tệ nạn, thậm chí là cái đáng lên án, nhưng sau nhiều năm tồn tại trong đời sống, chúng đã trở thành gần như là chuẩn mực xã hội. Đến mức, nếu ai đó không tuân thủ, không hành động hay tỏ thái độ theo quan niệm thông thường, thì người đó khó tránh khỏi sẽ cảm thấy “lạc lõng”, thậm chí đôi khi còn tự phán xét tiêu cực về cá nhân mình. Hiện nay, không ít người sẵn sàng không tuân thủ những chuẩn mực thành văn hay những chuẩn mực được quy định của xã hội, mà lại tuân thủ những chuẩn mực bất thành văn, các lề thói lệch chuẩn của một nhóm xã hội nào đó.

 

Câu hỏi đặt ra là, tại sao con người lại tuân thủ những “lệch chuẩn” không đúng đắn, xấu, thậm chí là bất lương… đang ngầm tồn tại trong đời sống xã hội.

 

Cố nhiên là vì lợi ích. Những người có bản lĩnh, dũng cảm sống lương thiện, không chấp nhận các lề thói mà họ cho là không phải, là xấu, để giữ được phẩm cách, nhân cách, đương nhiên không ít. Nhưng số còn lại, vì mưu cầu lợi ích cá nhân, đảm bảo cho đời sống được diễn ra một cách bình thường, đôi khi phải chấp nhận thực hiện những hành vi, hoạt động mà người ta không muốn làm, cũng không hề nhỏ. Trường hợp những cán bộ có chức có quyền rơi vào vòng xoáy phạm pháp mà gần đây, khi đối mặt với tòa án thường đổ lỗi cho cơ chế, là những người điển hình như vậy.

Vấn đề là ở chỗ, chính các “lệch chuẩn” nếu tồn tại quá lâu, nếu được phần lớn cộng đồng xã hội chấp thuận, thì trong thực tế, chúng lại tự ngầm định cho mình những giá trị về chân, thiện, mỹ. Nghĩa là, việc thực hiện những hoạt động, hành vi lệch chuẩn theo lề thói của quan niệm thông thường, nếu không được ngăn chặn kịp thời thì sẽ đến lúc có thể được coi là đúng, là tốt, là đẹp.

 

4. Trong việc xác định chuẩn mực con người Việt Nam, vấn đề đầu tiên là phải phân loại: chuẩn mực con người Việt Nam là chuẩn mực về lĩnh vực nào, về mặt nào của đời sống con người, hay về các nhóm người nào thuộc cộng đồng các dân tộc, các tầng lớp cư dân Việt Nam.

 

Nói đến chuẩn mực xã hội, không ít người thường nghĩ đến chuẩn mực đạo đức hay chuẩn mực chính trị, nhưng thực ra đòi hỏi của việc xây dựng con người toàn diện, không chỉ bao gồm những phẩm chất về chính trị vào đạo đức. Chuẩn mực cần được xây dựng cũng không phải chỉ dành riêng cho tầng lớp quản lý lãnh đạo, mà cần phải có ý nghĩa đối với mọi cá nhân trong mọi cộng đồng thuộc tất cả 54 dân tộc Việt Nam.

 

Về các loại chuẩn mực, chỉ riêng trong các tài liệu khoa học và thống kê hiện có, người ta đã có thể thấy có nhiều cách phân loại và theo đó có quá nhiều chuẩn mực vừa thuộc loại chuẩn mực pháp quy vừa thuộc loại chuẩn mực ngầm định về con người.

 

Theo cách phân loại sơ đẳng nhất của UNDP, thì đối với con người, trước hết, sự phát triển con người cần phải đạt tới những chuẩn mực về mặt sinh thể và những chuẩn mực về mặt tinh thần.

 

Trong các Báo cáo phát triển con người mà UNDP công bố hằng năm, hàng trăm loại chỉ số đã được UNDP thiết kế để đo đạc. Chẳng hạn, về phương diện sinh thể, những chỉ số về tuổi thọ, về thu nhập và dinh dưỡng, về chăm sóc sức khỏe, về sử dụng nước sạch, về phụ nữ và trẻ em… trên thực tế, là những cụm chỉ số gồm nhiều chỉ số thành phần chi tiết khác. Về phương diện tinh thần, các chỉ số như số năm đi học trung bình, số năm đi học kỳ vọng, người lớn từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết, về các dạng bất bình đẳng… thực sự đã là những chuẩn mực có ý nghĩa về con người và đời sống con người mà UNDP đã dùng để đánh giá sự phát triển con người của gần 200 quốc gia suốt từ năm 1990 đến nay.

Ấy là chưa kể đến các chuẩn mực cụ thể mà các ngành có trách nhiệm trực tiếp đánh giá các mặt cụ thể của đời sống như giáo dục, y tế, lao động xã hội, an sinh xã hội, thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông… Đó chính là các chuẩn mực mà con người cần phải đạt tới để xã hội đạt được những mục tiêu đã hoạch định.

 

Nghiên cứu chuẩn mực con người Việt Nam, chắc chắn không phải là sự thống kê tất cả những thành tựu mà các ngành kinh tế - xã hội cụ thể đã theo dõi, đo đạc, đánh giá về đời sống con người trong các báo cáo chuyên ngành hằng năm. Nhưng cũng không phải là các dữ liệu không cần phải tính đến khi đo đạc, đánh giá con người theo các chuẩn mực.

 

5. Thực ra về phương diện khoa học, nghiên cứu chuẩn mực con người, quan trọng nhất (và cũng thú vị nhất) là nghiên cứu những chuẩn mực không thành văn, không chính thức - những chuẩn mực ngầm định về đời sống, những lề thói xã hội đã tồn tại thực trong xã hội. Phần lớn những chuẩn mực này thuộc lĩnh vực chuẩn đạo đức, chuẩn mực văn hóa. Lý thuyết kinh tế học thể chế (Institutional Economics) chỉ ra rằng, ngay trong thể chế kinh tế và thể chế chính trị vĩ mô của các quốc gia, những chuẩn mực ngầm định cũng chiếm tỷ lệ lớn và đóng vai trò đáng kể trong thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển khiến các quốc gia thành công hay thất bại[9].

 

Tuy nhiên các chuẩn mực thành văn trong các lĩnh vực như pháp lý, kinh tế, chính trị hay y tế, giáo dục… cũng là những chuẩn mực pháp quy, cần phải có mặt trực tiếp hoặc gián tiếp, khi kết luận về con người theo các giá trị chuẩn mực.

Về phương diện pháp lý vấn đề là ở chỗ, khi vi phạm pháp luật hay thậm chí vi phạm các chuẩn mực pháp lý, kể cả các quy tắc, quy định… của nhà nước hay của các đơn vị kinh tế xã hội cụ thể, thì người vi phạm có thể bị xử lý với những chế tài được quy định rõ trong các văn bản quản lý của các cấp chính quyền có trách nhiệm.

 

Nghĩa là, việc xác định các chuẩn mực xã hội của con người về phương diện pháp lý, ở đây là không có ý nghĩa.

Cũng tương tự như vậy, trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng, giao thông hay trật tự an toàn xã hội… rất nhiều chuẩn mực thành văn đã được quy định buộc con người phải chấp hành hay tuân thủ. Không có lý do gì để những chuẩn mực này bị coi là nằm ngoài những chuẩn mực con người. Nhưng nếu phải xử lý các chuẩn mực cụ thể này, coi chúng như những thành tố trong việc xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam, thì vấn đề trở nên quá phức tạp.

 

6. Với lĩnh vực đạo đức, bản thân đạo đức đã là tổ hợp phức tạp của các chuẩn mực có chức năng điều khiển hành vi, dẫn dắt thái độ, đánh thức lương tâm của con người. Các chuẩn mực đạo đức, bằng một phương thức rất đặc thù là thông qua tâm thức cộng đồng, thái độ cộng đồng, dư luận cộng đồng và xã hội… để điều chỉnh thái độ và hành vi con người. Đánh thức lương tâm và khơi dậy thái độ biết xấu hổ trước sai phạm, các chuẩn mực đạo đức là cái đã tồn tại sẵn trong mỗi con người trước khi con người hành động, tất nhiên ở các trình độ sâu nông khác nhau, nhất là ở những con người được giáo dục, có trách nhiệm xã hội, có nhân cách. (Cố nhiên là cũng thông qua giáo dục, ngay từ thuở lọt lòng, các chuẩn mực đạo đức, bằng những cách thức vô cùng đặc thù của nó, đã ngấm dần vào con người, khiến cho con người trở thành có đạo đức. Nói rằng đạo đức là cái có sẵn trong con người là theo nghĩa như vậy). Do vậy, khó có thể bổ sung hay xác định thêm cho lĩnh vực đạo đức những “chuẩn mực con người” nào khác, ngoài những chuẩn mực của chính nó.

Gần đây, có ý kiến đề xuất Nhà nước cần phải xây dựng bộ “Luật đạo đức”. Ý kiến này trong khi cũng nhận được ít ỏi sự ủng hộ, thì đã bị phê phán khá nặng nề.

 

Những lý lẽ phản bác cho rằng, từ rất sớm trong các xã hội phương Tây, đạo đức và pháp luật đã được giảng dạy như là những hình thái ý thức xã hội mà con người không thể sống được thành xã hội nếu thiếu chúng. Đạo đức và pháp luật, trước hết đều là các chuẩn mực điều chỉnh hành vi của con người - “pháp luật là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức là pháp luật tối đa”[10], nhưng đạo đức điều chỉnh hành vi bằng dư luận xã hội, bằng tâm thức xã hội, còn pháp luật điều chỉnh hành vi bằng các chế tài pháp lý, cưỡng chế công dân vi phạm buộc phải thực hiện. Pháp luật trừng trị những hành động phạm pháp căn cứ vào hậu quả của nó, nhưng thường coi là vô tội đối với những hành vi mới chỉ là ý đồ của thành viên xã hội. Ý thức đạo đức cùng với các chuẩn mực của nó đã có sẵn trong con người, nên không giống như pháp luật, nó có khả năng đánh thức hoặc khiến con người phải “tự trừng phạt” mình ngay từ khi người đó mới chỉ nghĩ đến hành vi lệch chuẩn. Khi đạo đức của người nào đó đã đạt đến một trình độ cao, thì pháp luật đối với anh ta sẽ trở thành thừa, bởi đạo đức của cá nhân đó không cho phép họ lệch chuẩn hoặc phạm pháp.

 

Đạo đức và đạo đức học xưa nay vẫn tồn tại độc lập bên cạnh luật pháp như là một phương thức sống của con người trong xã hội. Đạo đức không thể “luật hóa” hay trở thành luật, vì chuẩn mực đạo đức không thể là kết quả của sự cưỡng chế. Lòng tốt, lương tâm hay sự tôn trọng, khinh ghét… không bao giờ nảy sinh từ sự bắt buộc. Cũng như vậy, luật pháp không thể “đạo đức hóa” mà bỏ qua các công cụ cưỡng chế. Không có các chế tài răn đe, hành vi con người rất dễ vượt quá hành lang an toàn của xã hội. Lời khuyên đạo đức đối với kẻ vi pháp pháp luật chính là sản phẩm của sự cưỡng chế như tòa án và nhà tù. Việc đề xuất “Luật đạo đức” cho thấy một nhận thức rất có vấn đề về mối quan hệ giữa đạo đức và luật pháp.

 

7. Đành rằng đối với con người nói chung, thậm chí con người ở trình độ toàn nhân loại, vẫn cần có (và đã có) những chuẩn mực xã hội cho những quan niệm, hoạt động và hành vi của họ. Tuy nhiên, việc xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam, trên thực tế, lại đòi hỏi phải xây dựng cho được những chuẩn mực đủ khái quát, nhưng vẫn phù hợp với những con người cụ thể, hoạt động trong những lĩnh vực cụ thể, với những nghề nghiệp cụ thể, ở những trình độ lao động cụ thể...

 

Chuẩn mực con người của một bác sĩ chắc chắn phải khác với chuẩn mực của một người thợ trong dây chuyền sản xuất công nghiệp hay nông nghiệp. Đây là một đòi hỏi khá phức tạp đặt ra đối với giới nghiên cứu. Nếu chuẩn mực con người chỉ được xác định ở những phẩm chất chung nhất, phổ biến nhất, thì ý nghĩa của việc xác định có thể sẽ là không nhiều. Còn nếu xác định chuẩn mực con người cho từng tầng lớp xã hội cụ thể, từng nhóm người cụ thể, hay cho từng loại hoạt động người cụ thể, thì khách thể và đối tượng của việc xác định lại quá lớn và quá chi tiết; tính khái quát và định hướng nhân sinh quan của chuẩn mực trở nên mờ nhạt.

 

Chỉ ngay với khái niệm “con người Việt Nam”, từ khá lâu trong giới nghiên cứu cũng đã có những tranh cãi khi phải phân biệt đâu là người Việt. Người Ê đê, người Mường, người Chăm, người Thái hay người các dân tộc thiếu số tại các địa phương…, khi được gọi là người Việt, thì vấn đề cũng không có gì quá phức tạp. Nhưng gọi là người Việt đối với người gốc nước ngoài mang quốc tịch Việt Nam, người gốc Việt không có quốc tịch Việt, hay người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, người Khmer ở Tây Nam bộ… thì những bất hợp lý có thể sẽ xuất hiện.

Việc xác định chuẩn mực con người cần thiết phải tính đến điều này.

 

8. Chuẩn mực con người Việt Nam là chuẩn mực của các cư dân trong toàn xã hội Việt Nam, gồm tất cả các nhóm xã hội, các tầng lớp dân tư, các công dân Việt. Chỉ cần duy nhất một cộng đồng nào đó cảm thấy chuẩn mực được xác định là xa lạ đối với họ, thì việc xác định chuẩn mực con người Việt Nam đã khó có thể coi là thành công.

 

Theo lý thuyết về chuẩn mực thì chuẩn mực xã hội chỉ thực sự là chuẩn mực khi áp dụng đối với các nhóm nhỏ. Còn đối với các nhóm lớn, đặc biệt đối với toàn xã hội, chuẩn mực xã hội không thể vẫn là các thiết chế có tính chất quy tắc, quy phạm, quy ước, tức là các chế tài có ý nghĩa cấm kỵ hoặc trừng phạt. Ở những phạm vi này, chuẩn mực xã hội dần nhường chỗ cho luật pháp.

 

Như vậy, chuẩn mực con người Việt Nam nếu được xây dựng một cách hợp lý thì cũng mới chỉ là tập hợp những quan niệm, những nguyên tắc kỳ vọng, có tính chất lý tưởng, chủ yếu về phương diện đạo đức hay nhân sinh quan. Điều đáng suy nghĩ là ở chỗ, nếu chỉ mang tính quy ước, chỉ là những quan niệm, những nguyên tắc lý tưởng, giống như những lời khuyên về phương diện đạo đức, thì tính chuẩn mực của các chuẩn mực xã hội đối với con người sẽ có ý nghĩa như thế nào.

 

9. Theo yêu cầu của việc gắn kết giữa chuẩn mực con người với các hệ giá trị cốt lõi, chức năng của các chuẩn mực là tạo hành lang tin cậy cho sự phát triển con người, điều chỉnh mọi hoạt động của cá nhân cũng như cộng đồng, sao cho tình trạng “đạo đức, lối sống xuống cấp đáng lo ngại” được khắc phục, tình trạng lệch chuẩn xa và quá xa như hiện nay được thu hẹp và dần không xảy ra.

 

Theo các chuẩn mực quốc tế, Việt Nam từ năm 2020, đã thuộc nhóm nước có chỉ số phát triển con người cao (High Human Development, với chỉ số HDI là 0,704 xếp thứ 118/189 quốc gia, tuổi thọ bình quân 75,4 tuổi). Năm 2018 (năm Việt Nam có tuổi thọ bình quân cao nhất trong vòng 10 năm qua) là 76,5 tuổi - rất cao so với nhiều nước (Mỹ 79,5; Singapore 83,2; Nhật bản 83,9; Hàn Quốc 82,4; Nga 71,2; Trung Quốc 76,4; Philippines 69,2; Lào 67,0; Campuchia 69,3). Chỉ số giáo dục của Việt Nam đã ở trình độ khá cao ngay từ cuối những năm 90. Chỉ số y tế của Việt Nam cũng tốt hơn nhiều nước có cùng trình độ phát triển; chi tiêu cho y tế đã tăng nhiều, đặc biệt tăng tỷ trọng của bảo hiểm y tế trong chi tiêu công. Năm 2018, riêng chi cho y tế ở Việt Nam đã tăng từ 7,4% lên 9,3% tổng chi NSNN. Tỷ lệ cao này chỉ sau Thái Lan (15%) và Singapore (15,2%) trong ASEAN và gấp 1,9 lần các nước có thu nhập trung bình thấp. Bảo hiểm y tế được đánh giá là đóng vai trò tích cực giúp người dân đến với các dịch vụ y tế[11].

 

Những chỉ số định lượng vừa nói là những chuẩn mực xã hội đáng khích lệ, được dư luận thế giới ca ngợi nhiều. Nhưng ở đây, vấn đề đặt ra là, khác với các quốc gia có chỉ số tương đương, trong đời sống kinh tế, giáo dục, y tế của người dân Việt Nam vẫn chứa đựng không ít hiện tượng không bình thường, những vấn đề bức xúc về mặt xã hội, tức là những lệch chuẩn khá lớn so với các nước cùng đạt tới các chuẩn này.

 

Thu nhập gia tăng và mức sống của người dân trong 25 năm qua đã được nâng cao nhiều, tuy vậy thu nhập và mức sống của lao động sống bằng thu nhập do lao động, vẫn thấp so với tiềm năng và so với thực tế lao động. Tỷ lệ lao động sống bằng thu nhập từ nghề chính thấp. Khoảng cách về bất bình đẳng thu nhập gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn. Theo WB, vào năm 2022 chỉ còn 5% dân cư thuộc diện nghèo (thu nhập 3,2 USD/ngày) nhưng khoảng 13,6 triệu người lại rơi vào tình trạng không an toàn về kinh tế (Economically Secure) hoặc không thuộc tầng lớp trung lưu. Gần 40% dân số thuộc tầng lớp trung lưu năm 2016 đã rơi xuống nhóm kinh tế thấp hơn vào năm 2018[12]. Khát vọng làm giàu trong những trường hợp này đôi khi gây tác dụng ngược; xuất khẩu lao động bằng mọi giá, liều thân để làm giàu đã xảy ra.

Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, nhưng lại ít tăng ở khu vực tạo cơ hội có việc làm và nâng cao thu nhập cho số đông người lao động, nhất là khi các doanh nghiệp chịu sức ép buộc phải thay đổi công nghệ. Người giàu và trung lưu giàu thêm, nhưng người nghèo được cải thiện không nhiều, thậm chí một số còn nghèo thêm. Do lực lượng lao động Việt Nam phổ biến là có tay nghề thấp, dẫn đến năng suất lao động thấp và thu nhập thấp, nên một tỷ lệ lớn lao động có việc làm không ổn định và thiếu bền vững. Cơ cấu việc làm không theo kịp sự thay đổi của cơ cấu kinh tế. Thu nhập thấp hoặc thất thường trong khi tiêu dùng cho đời sống tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người lao động. Tình trạng thiếu trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, ngay từ trong quy hoạch và quản lý, trong hoạt động khoa học và công nghệ, đang gây lãng phí rất lớn các nguồn lực khác, cản trở và làm giảm chất lượng tăng trưởng, kìm hãm sự phát triển.

Hậu quả là, theo ý kiến của Bộ trưởng Bộ nội vụ trước Quốc hội 22/10/2022, trong hơn hai năm qua cả nước đã có có 39.552 cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc. Trong đó ngành giáo dục chiếm 16.247 người, ngành y tế 12.198 người[13]. Trong khi đó, lao động vẫn rất thiếu, đặc biệt trong ngành giáo dục. Vào năm học 2022, cả nước thiếu khoảng 95.000 giáo viên các cấp; theo Bộ trưởng Bộ Giáo dục, từ nay tới năm 2026 cần bổ sung 107.000 giáo viên bị thiếu[14]. Bộ Giáo dục không có thẩm quyền tự mình giải quyết tình trạng này.

 

Giáo dục và đào tạo Việt Nam trong những thập kỷ 50, 60 của thế kỷ trước được so sánh là có hiệu quả hơn so với hiện nay, bởi chi phí ít hơn, giáo dục tập trung và có chọn lọc hơn, chất lượng người học và người dạy tốt hơn, tính xã hội của giáo dục được tôn trọng hơn…  Hiện nay, không chỉ học sinh ngồi nhầm lớp, mà còn có cả tình trạng giáo viên dậy nhầm chỗ; nhà trường trong không ít trường hợp chỉ để hợp lý hóa bằng cấp. Xu hướng thương mại hóa giáo dục, đào tạo chất lượng kém và sính bằng cấp đang tiếp tục làm suy giảm chất lượng giáo dục và đào tạo. “Học thật, thi thật, trình độ thật, nhân tài thật” vẫn là một thách thức chưa tìm ra cách để vượt qua đối với giáo dục.

 

Sự lệch chuẩn thể hiện ở đây là, chỉ số giáo dục cao, nhưng chất lượng giáo dục vẫn kém, vẫn lạc hậu so với các nước có chỉ số tương đương. Tăng chi tiêu công cho giáo dục và việc thực hiện những cam kết của Chính phủ đã làm cho giáo dục có những bước tiến bộ, nhưng sự đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục vẫn chưa diễn ra, chất lượng giáo dục vẫn thấp. Những biểu hiện tiêu cực trong giáo dục - đào tạo dường như vẫn quá nhiều và trầm trọng hơn (tệ “mua bằng bán điểm”, “học giả bằng thật”; tình trạng “học phí, phụ phí” và giá sách giáo khoa tăng quá cao; nạn dạy thêm học thêm; tình trạng bạo lực học đường; tình trạng đạo lý trong quan hệ thày trò bị vi phạm, thậm chí người thày cũng tha hóa; công bố quốc tế thiếu tin cậy, chất lượng đào tạo sau đại học thấp, đào tạo nhiều, nhưng “dùng được” ít. …) nói lên những vấn nạn của giáo dục. Đa số ý kiến đều cho rằng, giáo dục - đào tạo vẫn chưa thoát ra khỏi khủng hoảng, chưa thực hiện được yêu cầu “đổi mới căn bản, toàn diện để đột phá về chất lượng nguồn nhân lực” - một trong số điểm nghẽn của phát triển đất nước, mà Nghị quyết số 29-NQ/TW 4/11/2013 của Hội nghị TW 8 khóa XI đã chỉ ra.

 

Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, mặc dù có nhiều dấu hiệu được coi là tiến bộ trong vài năm vừa qua, mặc dù chỉ số y tế của Việt Nam tốt hơn nhiều nước có cùng trình độ phát triển. Khoảng cách giữa các vùng miền, giữa các nhóm xã hội trong tiếp cận dịch vụ y tế đã giảm đáng kể. Nhưng bất bình đẳng trong chăm sóc y tế vẫn rất lớn. Người được hưởng lợi của tiến bộ y tế, hầu hết không phải là người nghèo, người có thu nhập thấp, hay người vùng sâu vùng xa. Và điều đó không tránh khỏi dẫn đến tình trạng bất bình đẳng về hiệu quả y tế vĩ mô.

 

Năm 2022, khủng hoảng nhức nhối đối với ngành y là tình trạng thiếu thuốc chữa bệnh, thiếu vật tư y tế và thiếu bác sỹ cùng với nhân viên y tế. Số lượng viên chức y tế xin thôi việc, bỏ việc cao. Nhiều thiết bị y tế có giá trị, do cơ chế nên không được sử dụng hiệu quả và kịp thời để chữa bệnh. Bảng giá dịch vụ y tế do Bộ Y tế, Bộ Tài chính xây dựng và ban hành không tính đủ các yếu tố cấu thành, không ưu tiên áp dụng công nghệ mới, và do vậy không phù hợp với thực tế. Vấn đề quy phạm pháp luật trong quản lý và mua sắm vật tư y tế đã làm ách tắc nhiều quy trình khám chữa bệnh ở các bệnh viện. Quan hệ giữa người với người trong hoạt động y tế vẫn có nhiều biểu hiện không lành mạnh.

 

Những vụ án thuộc ngành y tế bị khởi tố trong hai năm 2021-2022 cho thấy tình trạng bất bình thường trong hoạt động y tế vẫn khá nghiêm trọng; con người y tế vẫn chưa bình thường, vẫn còn khá xa với chuẩn Hipocrate. Rất tiếc là, cả người bệnh, bác sỹ, thày thuốc, nhân viên y tế và xã hội đều phải chịu thiệt thòi vì khủng hoảng y tế.

 

Những biểu hiện lệch chuẩn vĩ mô như vừa nêu cho thấy, việc đáp ứng được các chuẩn mực xã hội, cũng chưa chắc đã đảm bảo cho tình trạng lệch chuẩn không xảy ra. Xây dựng chuẩn mực con người đã khó, nhưng đảm bảo để các chuẩn mực không bị vi phạm trong đời sống kinh tế - xã hội phức tạp và đa dạng, chắc còn khó hơn.

 

Kết luận:

 

Xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam là nhiệm vụ không tách rời với xây dựng hệ giá trị gia đình, hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị quốc gia. Về thực chất, đó là sự tìm kiếm một tổng thể các giá trị tin cậy với chuẩn mực lý tưởng về con người, nhằm khơi dậy ý chí phát triển, định hướng để từng con người và toàn xã hội phát triển lành mạnh, phát huy được tối đa tiềm năng, thu hút được ngoại lực và tinh hoa văn hoá, văn minh nhân loại, thực hiện thành công mục tiêu kỳ vọng mà Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra là, phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao.

 

GS.TS Hồ Sĩ Quý 

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

 

Tài liệu:

  1. Bộ trưởng Nội vụ nói về tăng lương cơ sở, lộ trình cải cách tiền lương; tình trạng cán bộ, công chức thôi việc. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/bo-truong-bo-noi-vu-noi-ve-tang-luong-co-so-cai-cach-tien-luong-tinh-trang-can-bo-cong-chuc-thoi-viec-119221022123915312.htm
  2. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo lý giải tình trạng thiếu giáo viên. https://vtv.vn/giao-duc/bo-truong-bo-giao-duc-va-dao-tao-ly-giai-tinh-trang-thieu-giao-vien-
  3. Cultural Norms. Cliffsnotes. https://www.cliffsnotes.com/study-guides/sociology/culture-and-societies/cultural-norms
  4. Delacroix, Sylvie (2019). Understanding normativity. Revus, 37. c.17-28.https://journals.openedition.org/revus/4773.
  5. ĐCSVN (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. t. I. Nxb. CTQG. Hà Nội.
  6. ĐCSVN (2014). NQ HNTW 9 khóa XI. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Nghi-quyet-33-NQ-TW-2014-xay-dung-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-237544.aspx
  7. Keefer, Philip & Stephen Knack (2008). Social Capital, Social Norms and the New Institutional Economics. https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-3-540-69305-5_28 (In Claude Ménard & Mary M. Shirley (ed., 2008). “Handbook of New Institutional Economics”. Pub. Springer Books. pp 701–725).
  8. Kết luận 76-KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/van-hoa-xa- hoi/Ket-luan-76-KL-TW-2020-thuc-hien-Nghi-quyet-33-NQ-TW-xay-dung-con-nguoi-dap-ung-yeu-cau- phat-trien-444754.aspx.
  9. Mooney, Christopher F. (1983). Public Morality and Law. Journal of Law and Religion. Vol. 1, No. 1 (Summer, 1983), pp. 45-58 (14 pages). Cambridge University Press. https://www.jstor.org/stable/1051072.
  10. Norms, Values and Human Conditions: An Introduction “Journal of Human Values”. (2018). Volume 25, Issue 1 https://doi.org/10.1177/0971685818806629
  11. Нормы Социальные. Философская Энциклопедия. https://dic.academic.ru/dic.nsf/enc_philosophy/dic.nsf/enc_philosophy/6937/НОРМЫ
  12. Social Norms. Stanford Encyclopedia of Philosophy. https://plato.stanford.edu/entries/social-norms/
  13. Nguyễn Phú Trọng (2021). Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị văn hóa toàn quốc. https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-van-hoa-toan-quoc.html.
  14. UNDP. Human Development Report 2018, 2020, 2021-2022.
  15. WB. 2022 Vietnam Poverty and Equity Assessment – From the Last Mile to the Next Mile. https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/publication/2022-vietnam-poverty-and-equity-assessment-report


 

[1] ĐCSVN (2014) NQ HNTW 9 khóa XI. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Nghi-quyet-33-NQ-TW-2014-xay-dung-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-237544.aspx

[2] Kết luận 76-KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/van-hoa-xa- hoi/Ket-luan-76-KL-TW-2020-thuc-hien-Nghi-quyet-33-NQ-TW-xay-dung-con-nguoi-dap-ung-yeu-cau- phat-trien-444754.aspx.

[3] ĐCSVN (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. t. I. Nxb. CTQG. tr. 143.

[4] ĐCSVN (2014) NQ HNTW 9 khóa XI. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Nghi-quyet-33-NQ-TW-2014-xay-dung-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-237544.aspx

[5] Nguyễn Phú Trọng (2021). Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị văn hóa toàn quốc. https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-van-hoa-toan-quoc.html.

[6] “Social Norm”. Stanford Encyclopedia of Philosophy. https://plato.stanford.edu/entries/social-norms/ // “Нормы Социальные. Философская Энциклопедия. https://dic.academic.ru/dic.nsf/enc_philosophy/dic.nsf/enc_philosophy/6937/НОРМЫ

[8] Xem: Delacroix, Sylvie (2019). Understanding normativity. Revus, 37. c.17-28.  https://journals.openedition.org/revus/4773.

[9] Xem: Keefer, Philip & Stephen Knack (2008). Social Capital, Social Norms and the New Institutional Economics. https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-3-540-69305-5_28 (In Claude Ménard & Mary M. Shirley (ed., 2008). “Handbook of New Institutional Economics”. Pub. Springer Books. pp 701–725).

[10] Xem: Mooney, Christopher F. (1983). Public Morality and Law. Journal of Law and Religion. Vol. 1, No. 1 (Summer, 1983), pp. 45-58 (14 pages). Cambridge University Press. https://www.jstor.org/stable/1051072.

[11] Xem: UNDP. Human Development Report 2018, 2020, 2021-2022.

[12] Xem: WB. 2022 Vietnam Poverty and Equity Assessment – From the Last Mile to the Next Mile. https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/publication/2022-vietnam-poverty-and-equity-assessment-report 

 [13] Xem: Bộ trưởng Nội vụ nói về tăng lương cơ sở, lộ trình cải cách tiền lương; tình trạng cán bộ, công chức thôi việc. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/bo-truong-bo-noi-vu-noi-ve-tang-luong-co-so-cai-cach-tien-luong-tinh-trang-can-bo-cong-chuc-thoi-viec-119221022123915312.htm

 [14] Xem: Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo lý giải tình trạng thiếu giáo viên. https://vtv.vn/giao-duc/bo-truong-bo-giao-duc-va-dao-tao-ly-giai-tinh-trang-thieu-giao-vien-20221027161138792.htm

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết