Thứ Tư, ngày 24 tháng 04 năm 2024

Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Ngày phát hành: 26/11/2022 Lượt xem 1015

 

1. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam.

 

Trong suốt quá trình cách mạng, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương tôn trọng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Đảng ta khẳng định: “Trong mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội. Đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo, truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển”1. Đánh giá khái quát về vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã khẳng định: “Đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước, giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng, nghệ thuật, những sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ công nghệ của thế giới”. Đội ngũ trí thức Việt Nam có vai trò to lớn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Liên minh công – nông – trí là hạt nhân, cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng với công nhân và nông dân, đội ngũ trí thức được xác định là lực lượng cơ bản trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.


2. Thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay.

 

Mười lăm năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức Việt Nam đã tăng nhanh về số lượng, chất lượng được nâng lên và đã thực sự hình thành một đội ngũ trí thức mới. Đội ngũ trí thức có những đóng góp không nhỏ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Họ có mặt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, khoa học và công nghê, giáo dục và đào tạo, văn học – nghệ thuật, quốc phòng, an ninh,… Về số lượng, trong giai đoạn từ năm 2008 – 2020, lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên của Việt Nam đã tăng từ 2,7 triệu người năm 2009 lên 5,3 triệu người năm 2018 (tăng 95% trong 10 năm). Năm 2009, lực lượng lao động có trình độ từ đại học trở lên chỉ chiếm 5,5% trong tổng số lao động trên 15 tuổi thì đến năm 2018, lực lượng này đã chiếm 9,6% trong tổng số lao động trên 15 tuổi. Số lao động có trình độ đại học trên 1 vạn dân trong độ tuổi lao động tăng từ 584 người năm 2009 lên 702 người năm 2009. Số lao động có trình độ thạc sĩ trên 1 vạn dân trong độ tuổi lao động tăng từ 28 người năm 2009 lên 73,8 người năm 2019. Lao động có trình độ tiến sĩ trên 1 vạn dân trong độ tuổi lao động tăng từ 4,5 người năm 2010 lên 5,5 người năm 2019. Năm 2019, Việt Nam có khoảng 31.000 tiến sĩ đang trong độ tuổi lao động, tăng 41% sau 10 năm. Tính trên toàn bộ dân số, năm 2019 có khoảng 6,3 triệu người có trình độ đại học, hơn 386 nghìn người có trình độ thạc sĩ và hơn 44 nghìn người có trình độ tiến sĩ. Chất lượng và số lượng đội ngũ trí thức đã có sự cải thiện đáng kể sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27 – NQ/TW, ngày 06-08-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Ngoài trí thức trong nước, còn có khoảng hơn 400.000 trí thức Việt Kiều (trong đó có hơn 6.000 tiến sĩ và hàng trăm trí thức tên tuổi được đánh giá cao) trên tổng số hơn 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 100 quốc gia và vũng lãnh thổ trên thế giới.

So sánh quốc tế cho thấy, tỷ lệ tiến sĩ trên 1 vạn dân của Việt Nam (4,6 tiến sĩ trên 1 vạn dân) so với các nước phát triển thì còn khá thấp và chưa đạt mức trung bình của thế giới (khoảng 60 tiến sĩ trên 1 vạn dân). Các nước có số tiến sĩ trên 1 vạn dân cao như Thụy Sĩ là 293 tiến sĩ trên 1 vạn dân, Mỹ là 203 tiến sĩ trên 1 vạn dân. Như vậy, còn một khoảng cách khá xa khi so sánh số tiến sĩ trên 1 vạn dân của Việt Nam so với các nước phát triển. Sự gia tăng tỷ lệ tiến sĩ trên 1 vạn dân cũng khá chậm, trong 10 năm, Việt Nam chỉ tăng được 0,9 tiến sĩ trên 1 vạn dân. So sánh với Indonesia thì nước này từ năm 2015 đến năm 2018 đã tăng thêm được 2 tiến sĩ/1 vạn dân.

 

Về chất lượng, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 27, bước đầu đội ngũ trí thức đã có chuyển biến gia tăng về chất lượng, góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta tiếp tục đạt được những thành tựu phát triển lớn, toàn diện về nhiều mặt, giúp thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Số lượng đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn cao ngày càng tăng trong những năm gần đây là nguồn lực bổ sung quan trọng cho các ngành, lĩnh vực, nhất là những vị trí lãnh đạo, đội ngũ chuyên gia, cán bộ chuyên môn trong các cơ quan nhà nước và khu vực ngoài nhà nước.

Đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học chính trị, xã hội nhân văn đã góp phần tích cực vào xây dựng những cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giúp đất nước có những bước phát triển đột phá và vững chắc. Trí thức trong lĩnh vực khoa học và công nghệ đã có những đóng góp quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trí thức là lực lượng tiên phong giữ vai trò hết sức quan trọng trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, áp dụng những công nghệ hiện đại hàng đầu của nhân loại phục vụ quá trình phát triển đất nước và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đội ngũ trí thức trên lĩnh vực văn hóa và sáng tạo nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chọn lọc tiếp thu những nét văn hóa, sáng tạo nghệ thật phù hợp với truyền thống văn hóa quốc gia; giúp phân biệt và loại bỏ những thứ không phù hợp, có tác động tiêu cực tới đời sống của người dân, của xã hội. Bộ phận trí thức tham gia công tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai trò và khả năng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ quản lý của Nhà nước.

 

Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, đội ngũ trí thức nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế: so với yêu cầu phát triển, Việt Nam vẫn còn thiếu cả về số lượng và chất lượng đội ngũ trí thức. Dù số lượng trí thức gia tăng trong những năm gần đây nhưng tỷ lệ trí thức trên đầu người dân Việt Nam còn kém xa so với các nước trong khu vực và thế giới, nhất là đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn cao. Trong khi đó, để phát triển trở thành nước thu nhập trung bình cao thì nhu cầu phát triển đội ngũ trí thức cả về số lượng và chất lượng là yêu cầu không thể thiếu. Tình trạng phân bổ, bố trí đội ngũ trí thức còn chưa phù hợp theo đúng nhu cầu thực tiễn, đúng với mục tiêu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đội ngũ trí thức thiếu những chuyên gia đầu ngành, những người có trình độ cao, có năng lực, giàu kinh nghiệm để đảm đương thực hiện, giải quyết những nhiệm vụ lớn, cấp bách quốc gia và xã hội, có khả năng dẫn dắt và tổ chức các nhóm trí thức với các chuyên ngành, lĩnh vực khác nhau nhằm tạo ra những kết quả, thành tựu đột phá ở tầm khu vực và quốc tế. Bộ phận tinh hoa, hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành còn thiếu, đội ngũ kế cận hẫng hụt. Cơ cấu đội ngũ trí thức còn những mặt bất hợp lý về ngành nghề, lĩnh vực, độ tuổi, giới tính. Đội ngũ trí thức trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị nghiên cứu và các trường đại học chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và so với trình độ của trí thức ở một số nước tiên tiến trong khu vực. Một bộ phận trí thức, kể cả những người có trình độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, còn e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan nhiều đến chính trị. Một số trí thức giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác..

 

Chính sách phát triển đội ngũ trí thức còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm nên chưa tạo ra sự thay đổi rõ nét về số lượng và chất lượng của đội ngũ trí thức. Chưa xác định được nhóm trí thức ưu tiên phát triển trong mỗi giai đoạn, chưa xây dựng và phát triển được nhiều chuyên gia đầu ngành nổi tiếng thuộc các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm ở tầm khu vực và quốc tế. Công tác tuyển dụng, thu hút người tài, có năng lực và kết quả học tập xuất sắc vẫn chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Các chính sách thu hút, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng còn nặng theo chương trình, kế hoạch, quy định cứng nhắc (về lương, thưởng, thủ tục hành chính,…) chưa định hướng linh hoạt theo nguyên tắc thị trường.

Môi trường và điều kiện làm việc, chính sách, đãi ngộ, sử dụng đặc biệt trong khu vực nhà nước chưa thực sự tốt để thu hút và giữ chân những trí thức tài năng. Chính sách bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ công chức, viên chức quá rộng, thiếu trọng tâm, trong điểm.

Chính sách về tài chính tuy có nhiều đổi mới nhưng nguồn lực đầu tư cho đội ngũ trí thức vẫn còn hạn chế. Đầu tư cho hạ tầng cơ sở và trang thiết bị, điều kiện làm việc phục vụ đội ngũ trí thức dù có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn hạn chế so với các nước phát triển. Các thủ tục thanh toán, giải ngân đối với các chương trình, đề tài, dự án, công trình nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo vẫn còn quá phức tạp, chi tiết và thiếu tính thực tiễn gây mất nhiều thời gian, chi phí cho giới trí thức và cho toàn xã hội.

Nhiều trí thức trẻ phải làm việc trái với ngành nghề đào tạo nên tâm trạng thiếu phấn khởi, không phát huy được sở trường, năng lực, kiến thức đã được đào tạo. Một bộ phận chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên về chuyên môn. Một số không ít, do ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện kém cộng với tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, những luận điểm tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch… đã bị tha hóa, thiếu trách nhiệm công dân, xa rời lý tưởng của Đảng; một số ít đi ngược lại lợi ích của cách mạng, của dân tộc.

 

3. Giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.

 

Để thúc đẩy phát triển đội ngũ trí thức cả về lượng và chất, phát huy tốt vai trò của đội ngũ trí thức phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:

 

Thứ nhất, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, quản lý phát triển đội ngũ trí thức.

Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí quan trọng của đội ngũ trí thức đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc phát triển đội ngũ trí thức. Gắn phát triển đội ngũ trí thức với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu phát triển của các ngành trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cụ thể. Ghi nhận, tôn vinh thỏa đáng đối với những trí thức có đóng góp lớn đối với sự phát triển của quốc gia và xã hội; tăng cường kiểm tra giám sát việc thực hiện phát triển đội ngũ trí thức và có hình thức khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh đối với các cấp, các ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển đội ngũ trí thức.

Tiếp tục có các chủ trương định hướng, chính sách phù hợp thúc đẩy phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam nhằm tận dụng cơ hội và vượt qua những thách thức của quá trình phát triển đất nước trong bối cảnh mới.

 

Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả cơ chế, chính sách về phát triển, thu hút, đãi ngộ và tôn vinh trí thức. 

Thực hiện tốt công tác dự báo, quy hoạch nhu cầu và yêu cầu phát triển đội ngũ trí thức trong từng ngành, lĩnh vực, địa phương nhằm có kế hoạch thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ trí thức kế cận bảo đảm phát triển cả số lượng và chất lượng, cân đối giữa các vùng, miền.

Cải thiện hệ thống tiền lương cho các nhóm trí thức theo hướng cơ chế trả lương, thưởng, phụ cấp gắn với nhiệm vụ, trách nhiệm, vị trí công việc. Nghiên cứu có chế độ đãi ngộ đối với các nhà nghiên cứu khoa học đảm nhận các nhiệm vụ nghiên cứu công nghệ cốt lõi trong các lĩnh vực trọng điểm của quốc gia, các trí thức tài năng trong sáng tạo nghệ thuật. Kết hợp giữa khuyến khích tinh thần với khuyến khích vật chất. Thực hiện minh bạch hóa kết quả làm việc của đội ngũ trí thức, cải thiện môi trường làm việc cho các cơ quan, đơn vị phù hợp với bối cảnh hội nhập và xu hướng phát triển của thị trường lao động. Hoàn thiện hệ thống đánh giá, thi tuyển, xét chức danh, danh hiệu nghề nghiệp; rà soát, hoàn thiện hệ thống giải thưởng nhà nước, giải thưởng ngành, lĩnh vực và các chính sách tôn vinh khác đối với đội ngũ trí thức. Đổi mới việc tuyển chọn và sử dụng trí thức, sử dụng trí thức một cách khoa học, hợp lý, phát huy đúng người, đúng vị trí, sử dụng đúng lúc và chú ý tới phát triển đồng bộ trí thức khu vực công với khu vực tư nhân trong đầu tư phát triển nguồn nhân lực.

 

Thứ ba, tạo lập môi trường làm việc và các điều kiện thuận lợi cho hoạt động của đội ngũ trí thức.

Cải thiện hệ thống luật pháp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của trí thức, hoàn thiện và phát triển chính sách pháp luật về sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ để bảo vệ giá trị sáng tạo của đội ngũ trí thức. Cụ thể hóa chủ trương của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Tạo hành lang pháp lý để đội ngũ trí thức gia tăng sự sáng tạo, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thiện các cơ chế khuyến khích sự chủ động sáng tạo và ứng dụng kết quả nghiên cứu, sáng tạo của đội ngũ trí thức. Tăng cường sự tham gia và kết nối sử dụng đội ngũ trí thức vào quá trình hoạch định và tư vấn, phản biện chính sách. Ban hành cơ chế phối hợp, hợp tác thường xuyên giữa các nhà khoa học, sáng tạo nghệ thuật với các nhà làm chính sách ở cả cấp Trung ương và địa phương, tạo không gian cho đội ngũ trí thức hoạt động sáng tạo.

Tập trung đầu tư cho nghiên cứu đổi mới sáng tạo đối với các viện nghiên cứu/trường đại học trọng điểm có điều kiện làm việc tương đương với các nước phát triển trong khu vực. Có chính sách ưu tiên đầu tư xây dựng, cải tạo nơi làm việc cho các viện/trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm, trang thiết bị máy móc, cơ sở dữ liệu, tài liệu phù hợp với xu hướng phát triển của quốc tế đối với những ngành mà Việt Nam có lợi thế.  

 

Thứ tư, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức.

Thiết lập hệ thống đào tạo mở, kết hợp đào tạo trong nhà trường và đào tạo thực hành tại doanh nghiệp; gắn đào tạo trong nước với giao lưu và hợp tác quốc tế. Đề cao việc trau dồi tinh thần khoa học, tư duy sáng tạo và phát triển văn hóa đổi mới, ủng hộ tinh thần đổi mới theo đuổi chân lý dũng cảm chinh phục đỉnh cao, dám thất bại, đoàn kết và hợp tác; đồng thời tạo ra bầu không khí đổi mới về dân chủ khoa học, tự do học thuật, nghiêm túc và tìm kiếm chân lý, cởi mở và hòa nhập của nhà khoa học, sinh viên và học sinh.

Xác định cơ cấu đào tạo đội ngũ trí thức phù hợp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; tối ưu hóa các ngành đào tạo, loại hình, trình độ và sự phân bổ theo vùng. Thiết lập hệ thống đào tạo trọng điểm cho sinh viên tài năng trong các trường đại học; thực hiện các chương trình đào tạo đặc biệt cho những tài năng đặc biệt. Thiết lập hệ thống trao đổi hai chiều cho trí thức các trường đại học, viện nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp . Thiết lập cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp – trường đại học – viện nghiên cứu, lấy doanh nghiệp và thị trường làm định hướng để nuôi dưỡng đội ngũ trí thức đổi mới sáng tạo.


Thứ năm, đầu tư tài chính và cơ chế phân bổ, sử dụng và quyết toán kinh phí.

Thực hiện các chính sách tài khóa, thuế và tài chính bảo đảm ưu tiên cho đầu tư phát triển đội ngũ trí thức. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động của đội ngũ trí thức và đổi mới cơ chế, chính sách, thủ tục phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính, thanh quyết toán trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo nghệ thuật, trao quyền tự chủ cho các tổ chức, đơn vị nghiên cứu trong việc quản lý và sử dụng kinh phí nhiệm vụ khoa học và công nghệ và hoàn thiện các cơ chế, chính sách để sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí nghiên cứu phát triển, đặc biệt là nguồn kinh phí nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp

Thứ sáu, giải pháp về thông tin, số liệu phục vụ công tác giám sát, đánh giá tình hình phát triển đội ngũ trí thức.

 

Xây dựng cơ sở dữ liệu về đội ngũ trí thức một cách khoa học từ trung ương tới địa phương. Nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê, đo lường số lượng và chất lượng của đội ngũ trí thức bảo đảm thống nhất, khoa học phục vụ cho công tác thống kê, báo cáo số liệu trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Thực hiện công khai việc báo cáo định kỳ và hằng năm về tình hình phát triển đội ngũ trí thức, nguồn lực phục vụ và kết quả đóng góp của đội ngũ trí thức. Hướng dẫn số hóa và công khai cơ sở dữ liệu về tình hình phát triển đội ngũ trí thức tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xây dựng chiến lược phát triển từ cấp trung ương tới địa phương, doanh nghiệp. Lồng ghép cơ sở dữ liệu trong các số liệu thường kỳ của các cơ quan thống kê về sự phát triển của đội ngũ trí thức làm cơ sơ cho công tác quy hoạch, thực thi và giám sát đánh giá xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức./.

 

Đi tá, PGS.TS Bùi Đình Bôn

 

1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 27 – NQ/TƯ, ngày 6-8-2008, Hội nghị Trung ương 7 khóa X.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết