Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh tư liệu
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, liên quan trực tiếp đến sự sự an nguy của quốc gia - dân tộc và sự tồn vong của chế độ. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định: “Có kế sách ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh xung đột từ sớm, từ xa, nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển”[1]. Đó là sự kế thừa, phát huy truyền thống “giữ nước từ khi nước chưa nguy” của dân tộc và là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện lịch sử mới. Để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, cần tiến hành đồng bộ, toàn diện nhiều nội dung, giải pháp, trong đó, xây dựng “thế trận lòng dân” là vấn đề đặc biệt quan trọng.
“Lòng dân” là khái niệm chỉ trạng thái tinh thần, niềm tin, sự đồng lòng của người dân với chế độ xã hội và giai cấp nắm quyền lãnh đạo xã hội; là yếu tố rất quan trọng có tính quyết định đến sức mạnh, sự hưng thịnh hay suy vong của mỗi triều đại, quốc gia, dân tộc. Bởi, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử, “trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[2], “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”[3], “Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”[4].
“Thế trận lòng dân” được hiểu là tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu, phấn đấu của toàn dân tộc được quy tụ, tập hợp, khơi dậy, phát huy, tạo thành nền tảng chính trị vững chắc, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, sẵn sàng huy động nhằm thực hiện các mục tiêu của cách mạng. “Thế trận lòng dân” là loại hình thế trận đặc biệt, không thể hiện ra bằng hình hài cụ thể như thế trận quân sự, quốc phòng mà được thể hiện bằng sức mạnh nội sinh của quốc gia, dân tộc theo từng cấp độ khác nhau. Trên thực tế, yếu tố “lòng dân” không tự nhiên trở thành “thế trận lòng dân” và “thế trận lòng dân” có thể vững ở thời điểm này, giai đoạn này nhưng cũng có thể không vững ở thời điểm khác, giai đoạn khác. Do đó, “thế trận lòng dân” phải thường xuyên được củng cố trong hoạt động thực tiễn thông qua đường lối, chủ trương, chính sách hợp lòng dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân, được triển khai thống nhất trong các tầng lớp dân cư, trong mọi lứa tuổi, mọi giai tầng xã hội.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước, việc “quy tụ lòng người” là bài học kinh nghiệm quý báu, quyết định đến thắng lợi trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Lịch sử đã minh chứng rõ ràng, khi “lòng dân thuận” thì thế nước mạnh, “lòng dân ly tán” thì thế nước yếu. Lý Thái Tổ sau khi lên làm vua đã ban Chiếu dời đô (1010) được muôn dân ủng hộ, vì thế đã xây dựng được một Đại Việt hùng cường, đại phá quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt. Thời nhà Trần, tư tưởng “chúng chí thành thành”, “cử quốc nghênh địch”, “khoan thư sức dân” là nhân tố quyết định thắng lợi trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông. Trái lại, thời nhà Hồ, lòng dân ly tán, nên dù có quân đông, tướng giỏi, thành cao hào sâu, nhưng công cuộc giữ nước của nhà Hồ đã thất bại, đúng như Hồ Nguyên Trừng thốt lên: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhất quán quan điểm “lấy dân làm gốc”, coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân, khơi dậy lòng tự tôn, tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước của nhân dân, động viên nhân dân tham gia các nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy, cả dân tộc ta đã tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. “Thế trận lòng dân” được phát huy lên một tầm cao mới trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, trở thành sức mạnh nội sinh, vũ khí tinh thần đặc biệt để cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh để làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, một Đại thắng mùa Xuân 1975, biểu tượng của lương tri thời đại, nguồn cổ vũ các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành đồng bộ các chủ trương, chính sách, giải pháp xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”, coi đây là nhiệm vụ chiến lược thường xuyên, lâu dài. Tập trung phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với bảo đảm tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội; đẩy mạnh thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo, ưu đãi đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng; tạo việc làm cho người lao động, tăng lương, miễn giảm thuế; tăng cường phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; chú trọng thực thi quyền con người, quyền công dân; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cải cách hành chính… góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, việc xây dựng “thế trận lòng dân” thời gian qua có lúc, có nơi còn những hạn chế nhất định. Sự tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường đã dẫn tới sự bất bình đẳng trong xã hội, tình trạng phân hóa giàu - nghèo ngày càng gia tăng, đời sống vật chất của nhân dân, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn còn nhiều khó khăn. Một số cơ chế, chính sách chưa phù hợp với nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân. Trật tự, an toàn xã hội ở một số nơi chưa được bảo đảm, còn tồn tại những vấn đề tiêu cực và tệ nạn xã hội. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu, xa dân, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân…làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ.
Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực có những biến động nhanh chóng và khó lường. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chia rẽ lòng dân, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Tình hình đó đòi hỏi xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” phải được tăng cường hơn nữa; coi đó vừa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, vừa là yêu cầu cấp bách hiện nay. Để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, giữ nước từ khi nước chưa nguy, cần tiến hành đồng bộ, toàn diện nhiều nội dung biện pháp, với sự tham gia của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức, trong đó, cần tập trung thực hiện có hiệu quả các vấn đề chủ yếu sau:
Một là, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng về xây dựng “thế trận lòng dân”, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
Đây là giải pháp cơ bản quan trọng hàng đầu, xuyên suốt quá trình xây dựng “thế trận lòng dân”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Theo đó, cần đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về tư tưởng và hành động của mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, truyền thống cách mạng, nghệ thuật quân sự Việt Nam; về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc trong tình hình mới; nắm chắc nội dung, yêu cầu xây dựng “thế trận lòng dân”; thấy rõ những thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức đang đặt ra đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong củng cố “thế trận lòng dân” nói riêng. Trên cơ sở đó làm cho mọi tổ chức, lực lượng nhận thức đúng đắn, đầy đủ nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân” là chủ trương chiến lược cơ bản, lâu dài, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta; là nội dung cơ bản, vấn đề mấu chốt, yêu cầu khách quan của việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới; là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Quá trình tuyên truyền, giáo dục phải tiến hành thường xuyên, liên tục, đồng bộ, toàn diện và có chiều sâu, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp phù hợp với từng đối tượng; gắn với phong trào thi đua yêu nước và các phong trào, cuộc vận động của các cấp, các ngành để thu hút đông đảo mọi người tham gia, tạo ra các hoạt động sôi nổi, có sức lan tỏa mạnh mẽ; kết hợp chặt chẽ giáo dục chính trị với giáo dục truyền thống, giáo dục quốc phòng, an ninh, giữa giáo dục thường xuyên với giáo dục theo chuyên đề gắn với các sự kiện chính trị của đất nước, của ngành, địa phương; phát huy vai trò các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh, truyền hình, hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên, các thiết chế văn hóa ở cơ sở… kiên quyết khắc phục sự rập khuôn, máy móc, xơ cứng hoặc làm một cách hình thức, không thực chất.
Hai là, xây dựng “thế trận lòng dân” gắn bó chặt chẽ với tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.
Đảng ta đã chỉ rõ: “Xây dựng và phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”[5]. Do đó, cần tiếp tục xây dựng, củng cố, tăng cường tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, khoa học, công nghệ, quân sự, đối ngoại… Tập trung xây dựng tổ chức đảng, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; khắc phục kịp thời những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế gắn với chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế nhanh, bền vững để không ngừng bổ sung nguồn dự trữ của đất nước, trong đó có dự trữ cho quốc phòng. Tận dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào hiện đại hóa quân đội, công an, phát triển công nghiệp quốc phòng và bảo đảm an ninh mạng. Nâng tầm đối ngoại song phương, đa phương, tăng cường lòng tin chiến lược, mở rộng đối tác, tạo môi trường quốc tế thuận lợi thu hút các nguồn lực bên ngoài vào củng cố quốc phòng, phát triển đất nước.
Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân. Tập trung xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội, Công an trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao; xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh mọi mặt. Chủ động xây dựng, bổ sung các kế hoạch, phương án tác chiến, bảo đảm khoa học, sát nhiệm vụ của từng lực lượng; đổi mới nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp huấn luyện, bám sát phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; tăng cường huấn luyện thực hành, huấn luyện theo nhiệm vụ, theo tình huống, nâng cao khả năng cơ động tác chiến trong điều kiện địa hình, thời tiết phức tạp, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao. Chú trọng ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự, cách đánh, phù hợp với điều kiện mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; phát triển khoa học, công nghệ quân sự, công nghiệp quốc phòng.
Tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc, phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ địa bàn, khả năng kinh tế địa phương, bảo đảm vừa thuận tiện sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu theo phương châm “làng giữ làng, xã giữ xã, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh”; gắn kết chặt chẽ giữa các khu vực phòng thủ với thế trận tác chiến phòng thủ quân khu, hình thành thế trận trên các hướng chiến lược và cả nước.
Ba là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, quan tâm chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân.
Đây là giải pháp có ý nghĩa chiến lược, thiết thực góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Do đó, các bộ, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương cần tham gia, phối hợp chặt chẽ để tập trung phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống để nhân dân ổn định cuộc sống, nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng đặc biệt khó khăn. Quá trình thực hiện, cần có các cơ chế, chính sách phù hợp, ưu tiên những vùng đặc biệt khó khăn bằng những chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh cụ thể, với khai thác tiềm năng, thế mạnh tại chỗ; đồng thời, tạo điều kiện cho các địa phương và nhân dân tiếp cận nguồn vốn và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thực hiện “không để ai bị bỏ lại phía sau” gắn với tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Tiếp tục đẩy mạnh nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài; chăm lo sức khỏe cho nhân dân; chú trọng giải quyết các vấn đề bất bình đẳng về lợi ích, phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chăm lo bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện tốt cơ chế “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” để tạo sự đồng thuận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, góp phần xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
Cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về công tác dân vận[6]… Đổi mới mạnh mẽ cơ chế phối hợp, huy động các lực lượng tham gia, tăng nguồn lực cho công tác dân vận; tích cực đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp công tác dân vận, sát thực tiễn, phù hợp với địa bàn, từng đối tượng người dân; chú trọng thực hiện có hiệu quả các hình thức, hoạt động kết nghĩa, giao lưu, hành quân dã ngoại kết hợp với làm công tác dân vận, tổ chức các tổ, đội công tác và cán bộ tăng cường cho cơ sở; các chương trình, kế hoạch phối hợp hoạt động giữa các ban, bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của cấp ủy, chính quyền địa phương, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo, vùng biên giới, hải đảo....Tích cực tham gia giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn…Nắm chắc tình hình địa bàn, sớm phát hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, nổi cộm nảy sinh trong thực tiễn, không để xảy ra các “điểm nóng”. Thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố, kiện toàn cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận các cấp có chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Năm là, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch để bảo vệ vững chắc “thế trận lòng dân”.
Cần thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân nhận diện rõ bản chất, phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch; cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin để họ phân biệt rõ đúng – sai, tốt – xấu, tích cực - tiêu cực, từ đó tạo nên “sức đề kháng”, dần dần hình thành cơ chế “tự miễn dịch” trước những thủ đoạn của các thế lực thù địch. Khích lệ quần chúng nhân dân nêu cao tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quân dân trong các cuộc kháng chiến trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đồng tâm hiệp lực cùng Đảng, Nhà nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sử dụng đồng bộ các phương tiện thông tin đại chúng; chú trọng tuyên truyền công khai trên các báo điện tử, trang tin điện tử; qua các trang mạng xã hội; qua tuyên truyền miệng… Đa dạng hóa các phương pháp đấu tranh, sử dụng đồng bộ, kết hợp có hiệu quả các phương pháp đối thoại, đấu tranh trực diện nhằm thuyết phục những người có nhận thức sai lầm, lệch lạc, không phê phán, xúc phạm, đả kích cá nhân để họ giác ngộ ra vấn đề, không “đẩy” họ về phía “bên kia”. Đẩy mạnh đấu tranh trên không gian mạng thông qua các ứng dụng Zalo, Facebook, các trang Fanpage, blog, kênh Youtube… bằng những bài viết, bình luận có tính khoa học, chứng cứ rõ ràng, lập luận sắc bén để chỉ rõ đúng - sai, thật - giả; tránh kiểu đấu tranh thiếu văn hóa, không có tính thuyết phục./.
Trung tướng TRẦN QUANG TRUNG
Chính ủy Trường Sĩ quan Chính trị
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 156-157.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 453.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 502.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 142.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 157.
[6]Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong thời kỳ mới”; Kết luận số 43-KL/TW ngày 07/01/2019 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013; Quyết định số 23-QĐ/TW ngày 30/7/2021 của Bộ Chính trị về ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị…