Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Về Đảng Cộng sản Việt Nam (phàn 2) ​

Ngày phát hành: 22/07/2019 Lượt xem 4811

 

II. Thực trạng hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Ưu điểm

- Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững vai trò, vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội

Vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng đối với xã hội được thể chế hóa trong Hiến pháp. Thể chế hóa Cương lĩnh năm 1991, Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4, Hiến pháp năm 1992). Thể chế hóa Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 khẳng định:

“1. Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4, Hiến pháp năm 2013).

Trên thực tế, Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

- Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng

Việc xây dựng quy chế làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng được chú ý đổi mới cả về hình thức và nội dung. Tính cụ thể hóa trong các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác; tín nhiệm của tập thể, cá nhân và người đứng đầu các cấp ủy, tổ chức đảng được xác định ngày càng rõ hơn. Trong quá trình hoạt động, đa số cấp ủy, tổ chức đảng đã bám sát quy chế làm việc, thường xuyên điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.

Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy được vai trò của tập thể, tín nhiệm cá nhân, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp ủy với chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, nhất là tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, đã có chuyển biến tích cực. Thực hiện chất vấn và tự chất vấn tại các kỳ họp Trung ương đạt kết quả bước đầu. Thực hiện các quy định về nêu gưỡng đã bước đầu phát huy tác dụng, đi vào cuộc sống.

- Về phương thức lãnh đạo của Đảng

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị từng bước được cụ thể hóa và đổi mới. Trong 10 năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị nhăm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Đảng trong hệ thống chính trị được coi trọng hơn, đạt những thành quả quan trọng.

Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo, tiếp tục thực hiện một số thí điểm: đại hội các cấp bầu trực tiếp thường vụ, bí thư, phó bí thư, bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, xã ở những nơi có điều kiện; không tổ chức ban cán sự đảng ở các đơn vị sự nghiệp; hợp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ,… Việc thực hiện những thí điểm này đã thu được những kết quả bước đầu, nhất là ở một số địa phương.

Phương thức lãnh đạo thông qua đảng viên được coi trọng hơn. Đa số cán bộ, đảng viên, giữ vững phẩm chất đạo đức, vai trò tiên phong, gương mẫu thực hiện chức trách, nhiệm vụ; lãnh đạo, tổ chức, động viên sự tham gia của nhân dân vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Quan tâm đến việc phát huy vai trò của đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

2. Hạn chế, bất cập

- Về vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng

Vai trò lãnh đạo của Đảng ở một số tổ chức, một số nơi giảm sút, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng. Vai trò lãnh đạo của Đảng ở một số loại hình tổ chức đảng, nhất là ở các loại hình doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn mờ nhạt.

- Về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng

Các nguyên tắc xây dựng Đảng như nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, liên hệ mật thiết với nhân dân ở nhiều tổ chức đảng còn bị vi phạm.

- Về phương thức lãnh đạo của Đảng

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Quan điểm Đảng lãnh đạo chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà  nước chưa được thể chế hóa, cụ thể hóa. Tình trạng cấp ủy bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính trị đã và đang diễn ra ở nhiều ngành, địa phương, lĩnh vực.

Thực hiện phương thức lãnh đạo thông qua tổ chức đảng còn nhiều lúng túng. Chức năng, nhiệm vụ của một số đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy khối,… chưa được xác định rõ ràng, cụ thể, hoạt động thiếu hiệu quả. Tình trạng ở cùng một đơn vị, bộ, ngành còn nhiều tổ chức đảng, thuộc các đầu mối khác nhau, tổ chức đảng và tổ chức chính trị - xã hội không đồng nhất về đầu mối trực thuộc… chậm được khắc phục, dẫn đến sự chồng chéo, hoạt động gặp nhiều vướng mắc, lúng túng.

Phương thức lãnh đạo thông qua đảng viên còn nhiều bất cập. Chưa xác định rõ, cụ thể và thực hiện nghiêm chức trách, nhiệm vụ của người đứng đầu tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị, của cấp ủy viên; chất lượng và vai trò của đảng viên ở nông thôn, ở thành phố, trong các doanh nghiệp, trường học… còn nhiều hạn chế.

III. Đề xuất giải pháp xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh

Trong giai đoạn mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng phát triển mạnh, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục hoàn thiện, xu hướng dân chủ hóa, thông tin hóa ngày càng tăng, hội nhập quốc tế sâu rộng, trực tiếp hơn trong bối cảnh khu vực, quốc tế  - đang và sẽ diễn ra nhiều diễn biến phức tạp, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mau lẹ với những đột phá chưa từng có… đòi hỏi phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức lãnh đạo cách mạng để đến 2030 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng diện đại, đến 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

1. Coi trọng xây dựng Đảng về chính trị

Xây dựng Đảng về chính trị là công việc mang tính bản chất của Đảng, bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nêu cao bản lĩnh chính trị,… Trong đó, đường lối chính trị là một vấn đề cốt lõi trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Điều đó đòi hỏi phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam    trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nâng cao lập trường chính trị, bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; cán bộ cấp chiến lược; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển. Kiên quyết phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại.

2. Tăng cường công tác xây dựng Đảng về tư tưởng

- Xây dựng Đảng về tư tưởng là xây dựng nền tảng của Đảng. Lý tưởng cách mạng là tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Phải xác định kiên định niềm tin lý tưởng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của xây dựng Đảng về tư tưởng. Nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả công tác tư tưởng. Đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực.

Kiên trì, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”       trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái.

- Phải nhận thức rõ không có lý luận thì không có phong trào cách mạng. Lý luận phải soi đường cho thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn khái quát thành lý luận. Hoàn thiện lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phải đổi mới mạnh mẽ tư duy, có những đột phá về lý luận. Khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ trong công tác lý luận.

3. Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức

- Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương tới cơ sở phải chặt chẽ, có tính kỷ luật tổ chức cao. Mỗi cấp độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng. Trong đó, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng bảo đảm chắc chắn việc quán triệt và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Phải tập trung nâng cao năng lục lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Phải thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng: nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nguyên tắc đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, nguyên tắc gắn bó mật thiết với nhân dân, nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức; có ý thức tổ chức kỷ luật cao; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ; vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng; có uy tín cao trong Đảng và trong nhân dân. Quản lý đảng chặt chẽ, nghiêm minh. Có những giải pháp mới, khả thi để đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới, nhất là ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa; đồng thời kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người thoái hóa, biến chất.

- Xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng và cả hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Có cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ, ngăn ngừa lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương.

- Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng, là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý các mối quan hệ: giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và tính đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền trách nhiệm cá nhân và tập thể.

4. Tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức

Xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng “nền gốc” tinh thần vững chắc của Đảng, là xây dựng sức mạnh nội sinh của cách mạng. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa, của Đảng.

Xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; thật sự đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; thật sự là tấm gương đạo đức của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam; giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng để Đảng thật sự “là đạo đức, là văn minh”.

Để xây dựng Đảng về đạo đức cần tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm. Thực hiện nghiêm các quy định phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, bí thư cấp ủy các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát các tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

5. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các cách thức, hình thức, phương pháp, quy trình, lề lối làm việc mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng nhằm thực hiện thắng lợi các nội dung lãnh đạo.

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mãnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Đảng ta đã xác định, trong điều kiện Đảng cầm quyền, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực, hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội; nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; để nước ta phát triển nhanh và bền vững, bao trùm theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Điều đó đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; tiếp tục xác định rõ nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Đảng lãnh đạo, cầm quyền phải có thực quyền, không chuyên quyền, độc đoán, nhưng cũng không rơi vào nguy cơ quyền lực của Đảng bị hình thức hóa. Đảng cầm quyền bằng thực quyền của Đảng, bằng chuẩn tắc dân chủ với xã hội; bằng đạo đức nêu gương vì dân, có sức mạnh tự bảo vệ từ lòng dân. Muốn vậy, Đảng phải thật sự tiên phong về chính trị, tư tưởng, phải thật sự là đạo đức, phải vững mạnh về tổ chức, thống nhất ý chí, nhận thức, hành động để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, bản lĩnh cầm quyền.

Đổi mới phương thức lãnh đạo ngay trong hệ thống tổ chức của Đảng. Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng phong cách làm việc thật sự khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.

Đổi mới mạnh mẽ việc xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết. Đổi mới việc sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, giảm bớt giấy tờ, giảm mạnh hội họp.

6. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về Đảng, nhất là quy định Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình./.

(Hết)

                                                                                                                                                   PGS.TS Nguyễn Viết Thông

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết