Thứ Sáu, ngày 04 tháng 10 năm 2024

Xây dựng hệ giá trị quốc gia trong giai đoạn hiện nay

Ngày phát hành: 14/03/2023 Lượt xem 2321

 

1. Cơ sở lý luận và sự cần thiết xây dựng hệ giá trị quốc gia trong giai đoạn hiện nay

1.1. Các khái nỉệm

Giá trị (value) là một khái niệm có độ bao quát rộng, được sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau: triết học, kinh tế học, toán học, xã hội học, nhân học, tâm lý học, văn hóa học, giáo dục học, nghệ thuật học,... Do vậy, cũng có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau. Nhà nhân loại học người Mỹ c. Kluckhohn cho rằng: "Giá trị là những quan niệm thâm kín hay bộc lộ về những mong muốn riêng của cá nhân hay nhóm người và ảnh hưởng tới sự lựa chọn các phương thức, phương tiện và mục tiêu hành động"[1] [2]. J. H. Fichter, nhà xã hội học người Mỹ, lại định nghĩa: "Tất cả những gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với con người hoặc nhóm người đều có một giá trị"[3]. Theo Từ điển bách khoa Văn hóa học của Nga do A. A. Radugin chủ biên, "Giá trị là tính chất của một vật thể) một hiện tượng xã hội nào đó, nhằm thỏa mãn một nhu cầu, một mong muốn, một lợi ích của chủ thể xã hội (cá nhân, nhóm xã hội, toàn thể xã hội)"[4]. Nhìn chung, đa phần các định nghĩa đều thống nhất cho rằng, giá trị là những gì tích cực, tốt đẹp, đáng quý, có ích, có ý nghĩa, được cả xã hội thừa nhận, trở thành điểm tựa tinh thần, được mọi người khao khát hướng tới và hành động theo. Trong bài viết này, tác giả xin sử dụng khái niệm: "Giá trị là hệ thống những đánh giá tích cực của con người về các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp, hay đó chính là những giá trị chân, thiện, mỹ giúp khẳng định và nâng cao bản chất người"[5].

 

Hệ giá trị (value system) là hệ thống các giá trị được liên kết với nhau theo một số nguyên tắc nhất định, thực hiện những chức năng đặc thù, có mối liên hệ mang tính lịch sử cụ thể[6]. Khi các giá trị được định hình, chúng chi phối suy nghĩ, niềm tin, hành vi, tình cảm của con người, điều tiết các mối quan hệ xã hội, qua đó có vai trở to lớn trong việc định hướng mục tiêu và sự phát triển của cả một dân tộc.

 

Giá trị quốc gia (national values) là những giá trị cốt lõi, phản ánh những khát vọng, mong cầu, mục tiêu chung của cả quốc gia. Đó là những giá trị được kết tinh từ quá khứ, phát huy vai trở trong hiện tại và có định hướng tới tương lai, làm nền tảng để điều tiết, dẫn đạo cho sự phát triển của đất nước. Giá trị quốc gia thường phản ánh những mục đích thiết thân mà cả xã hội phấn đấu đạt đến, từ các cấp lãnh đạo cao nhất đến toàn thể dân chúng, từ giới tinh hoa đến những người bình thường. Chúng được giáo dục, cổ vũ, khuyến khích trong các gia đình, nhà trường và xã hội. Hệ giá trị quốc gia đóng vai trở quan trọng trong việc đoàn kết, quy tụ các cộng đồng dân tộc, vùng miền, củng cố sức mạnh tổng hợp của quốc gia.

 

Giá trị quốc gia được hình thành và củng cố trong lịch sử phát triển dài lâu, đôi khi thấm đẫm máu và nước mắt của các dân tộc. Mặc dù có nền tảng từ truyền thống, hệ giá trị quốc gia luôn vận động, biến đổi, được bồi đắp, bổ sung trong quá trình phát triển phù hợp với yêu cầu của thời đại.

 

Thực tiễn cho thấy các quốc gia phát triển thành công, trở thành các dân tộc tiên phong trong nền văn minh nhân loại thường có một hệ giá trị quốc gia phù hợp, chuẩn xác, giúp huy động được các nguồn lực xã hội hướng đến hòa bình, ổn định, tiến bộ và phát triển.

 

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng hệ giá trị quốc gia

 

Chiếm một vị trí quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những quan tâm, trăn trở của Người về vận mệnh đất nước, chủ quyền quốc gia, sự tồn vong của dân tộc, quyền lợi của nhân dân. Đó cũng chính là những giá trị cốt lõi, những mục tiêu căn bản, những mong cầu chính đáng của toàn thể nhân dân Việt Nam.

 

Với tầm nhìn của một lãnh tụ, một anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa lớn, những giá trị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến đều là những giá trị căn cốt, hệ trọng đối với dân tộc Việt Nam, nhưng đồng thời cũng là những giá trị mang tính phổ quát của nhân loại. Các giá trị đó được thể hiện sâu đậm và trở đi trở lại nhiều lần trong các trước tác của Người. Ngay từ bản "Tuyên ngôn Độc lập" viết năm 1945, Người đã nêu rõ những giá trị thiêng liêng và cốt lõi đối với người dân Việt Nam: "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"[7]; "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập"[8]. Những giá trị đó cũng được biểu hiện rõ ràng trong quốc hiệu và tiêu ngữ của nhà nước mới: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa/Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.

Những giá trị ấy cũng là lẽ sống, niềm tin, mong ước cháy bỏng của Người hiển hiện trong các bài phát biểu, lời hiệu triệu hay những áng văn thơ: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"[9]. Ước nguyện thường trực trong suốt những năm đất nước bị chia cắt của Người là: "Bao giờ Nam Bắc một nhà/Dân giàu nước mạnh thì ta vui lòng"[10],...

 

Đó cũng là mục tiêu phấn đấu suốt đời của Người và chúng được thể hiện cô đọng, súc tích nhất trong những dòng cuối của bản "Di chúc" viết năm 1969: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh"[11].

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh được kế thừa, bổ sung và vận dụng sáng tạo trong các chủ trương   lối, quyết sách của Đảng. Các nghị quyết, văn kiện đại hội Đảng, đặc biệt là Đại hội VIII, IX, X, XI, XII đều đề cao những giá trị cốt lõi ấy, đồng thời có bổ sung và làm rõ, như tách giá trị "giàu mạnh" thành "dân giàu, nước mạnh", thêm các giá trị "công bằng" và "văn minh".

Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã đề ra mục tiêu: "Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam". Nghị quyết Đại hội lần thứ XII xác định nhiệm vụ: "Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế"[12].

 

Đến Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, vấn đề này được nâng lên một tầm nhận thức mới: "Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới"[13]. Điều đó cho thấy tầm nhìn, sự đề cao vai trò của các giá trị, mối quan hệ biện chứng giữa các hệ giá trị của Đảng ta, góp phần củng cố sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, nâng cao sự đồng thuận xã hội, tạo nên sức mạnh tổng lực của quốc gia.

 

1.3. Kinh nghiêm quốc tế và sự cần thiết xây dựng hệ giá trị quốc gia trong giai đoạn hiện nay

 

Vì tầm quan trọng của hệ giá trị quốc gia mà đa số các nước trên thế giới đều rất quan tâm xây dựng hệ giá trị này, lấy đó làm kim chỉ nam cho sự phát triển, biến thành động lực để cả xã hội phấn đấu thực hiện; thậm chí còn xuất hiện những hệ giá trị chung cho cả một châu lục, một liên minh, như người ta thường nói đến "các giá trị châu Á", "các giá trị phương Tây",...

 

Theo nghiên cứu của các học giả Trung Quốc, những giá trị chung mang tính phổ quát đối với phương Tây là: (1) Công bằng và chính nghĩa (justice); (2) Quyền/quyền lợi (rights); (3) Bình đẳng (equality); (4) Tự do (liberty/freedom); (5) Khoan dung (toleration); (6) Tự trị/tự lập (autonomy); (7) Dân chủ (democracy)[14]. Theo một báo cáo của ủy ban châu Âu năm 2012, các giá trị cốt lõi của Liên minh châu Âu được xác định là: Hòa bình, dân chủ, nhân quyền, tuân thủ pháp luật, đoàn kết[15]. Các giá trị này phản ánh mối quan tâm chung của các quốc gia trong khối, đồng thời gắn liền với đặc thù lịch sử, văn hóa của khu vực. Chúng trở thành những nguyên tắc, điểm tựa giúp liên kết, thống nhất nội bộ, củng cố sức mạnh của toàn khối.

 

Bên cạnh đó, một số quốc gia phương Tây vân có những giá trị đặc trung riêng, nhu nước Pháp từng nổi tiếng với bộ ba giá trị "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" đã giúp họ xây dựng thành công nền cộng hòa sau Cách mạng Pháp và hiện nay đang xây dựng nền dân chủ dựa trên bộ ba giá trị "Đa nguyên - Nhân quyền - Công lý".

 

Tại Trung Quốc, Đại hội lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc (2012) đã đưa ra "ba đề xướng", từ đó ban hành "hệ giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa mới Trung Quốc" gồm 4 giá trị quốc gia: Thịnh vượng, dân chủ, văn minh, hài hòa; 4 giá trị xã hội: Tự do, bình đẳng, công bằng, pháp trị và 4 giá trị cá nhân: Yêu nước, trọng nghê, thành tín, thân thiện[16].

 

Quốc hội Xingapo ngay từ năm 1991 đã thông qua "Các giá trị chung Xingapo" (Singapore Shared Values) bao gồm 5 giá trị: (1) Dân tộc trước cộng đồng, xã hội trên cá nhân; (2) Gia đình là đơn vị cơ bản nhất của xã hội; (3) Hỗ trợ cộng đồng và tôn trọng cá nhân; (4) Đồng thuận, không xung đột; (5) Hòa hợp chủng tộc và tôn giáo[17].

 

Chính phủ Malaixia từ năm 1970 đã ban hành "Năm nguyên tắc quốc gia" (Rukun Negara) gồm: (1) Tin vào Thượng đế;

(2) Trung thành với nhà vua và đất nước; (3) Tuân thủ Hiến pháp; (4) Cai trị bằng pháp luật; (5) Hành vỉ tốt, đạo đức tốt[18]. Ngoài ra, còn nhiều nước khác trên thế giới cũng ban hành các hệ giá trị quốc gia của mình, từ các nước Âu - Mỹ đến các nước Đông Nam Á nhu: Thái Lan, Inđônêxia, Philíppin... Điều đó cho thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của việc xây dựng và khẳng định hệ giá trị quốc gia đối với nhiều nước.

 

Đối với Việt Nam, việc xác định và xây dựng hệ giá trị quốc gia hiện nay là vô cùng cần thiết và cấp bách vì những lý do nhu sau:

 

- Trên phương diện kinh tế, Việt Nam mới chỉ là một quốc gia đang phát triển với mức thu nhập trung bình thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Trong bối cảnh kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch COVID-19 và xung đột quân sự Nga - Ucraina; cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường diễn ra quyết liệt; sự tiến bộ vượt bậc của khoa học - công nghệ trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên; biến đổi khí hậu; nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình đối với nước ta còn cao,... đang đặt ra những thách thức to lớn đối với mục tiêu của chúng ta: đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao[19], vì thế, rất cần xác định một hệ giá trị quốc gia chuẩn xác, phù hợp, có sức thuyết phục để cổ vũ, dẫn dắt, "khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc" trong các tầng lớp nhân dân.

 

- Trên phương diện địa-chính trị, Việt Nam nằm ở một vị trí địa-chiến lược quan trọng luôn bị các thế lực bên ngoài dòm ngó, tranh giành ảnh hưởng. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, có vị thế chiến lược nhạy cảm, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo đang diễn ra căng thẳng, quyết liệt. Hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đang đứng trước thách thức lớn. Trong bối cảnh quốc tế phức tạp, nhiều mâu thuẫn, xung đột như vậy, việc củng cố, xây dựng một hệ giá trị phù hợp giúp bồi đắp lòng yêu nước, nâng cao ý chí độc lập, tự cường, giữ vững biên cương lãnh thổ, bảo vệ an ninh, quốc phòng càng phải được đặt ra.

 

- Trên phương diện văn hóa, trong bối cảnh kinh tế thị trường, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, những biểu hiện xuống cấp về đạo đức, băng hoại lối sống, tha hóa nhân cách, tình trạng tham nhũng, xa hoa, lãng phí, tiêu cực có chiều hướng gia tăng. Đó chính là những biểu hiện đáng lo ngại về sự đảo lộn các giá trị, thậm chí có ý kiến còn cho rằng đó là tình trạng khủng hoảng giá trị. Giáo sư Phan Huy Lê từng nhận xét: "Chúng ta đang ỏ trong một giai đoạn khủng hoảng hệ giá trị nghiêm trọng. Đây là lúc hệ giá trị cổ truyền bị giải thể, giải cấu trúc, không còn nguyên giá trị và tính hệ thống, nhưng hệ giá trị mới lại chưa thành hình để có thể thay thế hệ giá trị cũ. Cái cũ thì giải thể, chưa được cấu trúc lại, cái mới chưa được xác lập. Đây đúng là giai đoạn quá độ, rối loạn từ trong hệ giá trị"[20].

 

Do vậy, việc gìn giữ, phát huy và phát triển các hệ giá trị, trong đó có hệ giá trị quốc gia - hệ giá trị nền tảng, tiên quyết, chi phối các hệ giá trị khác - càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Hệ giá trị quốc gia sẽ góp phần đoàn kết, quy tụ toàn thể nhân dân Việt Nam hướng đến những mục tiêu chung, tạo nên sức mạnh tổng hợp, giúp chúng ta xây dựng một đất nước độc lập, tự chủ, hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc.

 

2. Quan điểm và nguyên tắc xác định hệ giá trị quốc gia trong giai đoạn hiện nay

 

Từ sự cần thiết xây dựng hệ giá trị quốc gia như đã nêu ở trên thì quan điểm, nguyên tắc xây dựng hệ giá trị này là rất quan trọng. Điều đó sẽ quyết định tầm nhìn, nội dung, tính chất của hệ giá trị, từ đó chi phối chiến lược phát triển của quốc gia cũng như các mục tiêu, quyết sách, nguồn lực ưu tiên đầu tư cho quá trình phát triển.

 

a) Quan điểm

Hiện nay có khá nhiều ý kiến khác nhau về quan điểm lựa chọn các giá trị, tuy nhiên về cơ bản có thể quy về ba luồng ý kiến như sau:

 

- Một là, chỉ nên đúc kết và nhấn mạnh những giá trị đã định hình và đang tồn tại trong thực tế. Việc xác định hệ giá trị quốc gia chính là chắt lọc, gọi tên, tìm ra đúng các giá trị tiêu biểu, cốt lõi, mang tính đại diện cho Việt Nam hiện nay.

 

- Hai là, cần đưa ra những giá trị lý tưởng, kỳ vọng, có ý nghĩa định hướng đối vói chiều hướng phát triển của dân tộc, là mục tiêu, đích đến để cả quốc gia phấn đấu đạt tới.

 

- Ba là, kết hợp giữa các giá trị đang tồn tại trong thực tế với các giá trị định hướng nhằm hướng tới sự phát triển bền vững và có tầm nhìn chiến lược của quốc gia[21]. Theo tác giả bài viết, quan điểm thứ ba nên là phương án chọn.

 

b) Nguyên tắc

Qua tham khảo kinh nghiệm quốc tế và dựa trên tình hình thực tiễn Việt Nam, tác giả đưa ra một số lưu ý về nguyên tắc xác định giá trị như sau:

 

- Nhìn chung, khó có thể đưa ra hết các giá trị kỳ vọng, đáng quan tâm đối với sự phát triển của một quốc gia, do vậy, việc xác định hệ giá trị chỉ nên dừng lại ở những giá trị cốt lõi, trọng điểm, ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay.

 

- Hệ giá trị quốc gia phải kết hợp hài hòa giữa các giá trị thiết thân của dân tộc Việt Nam với các giá trị phổ quát, tiến bộ của thời đại và nhân loại.

 

- Hệ giá trị quốc gia không nên quá cao siêu, xa vời, ít tính khả thi, mà phải có sự cân đối, hài hòa giữa ý chí của tầng lớp lãnh đạo với điều kiện thực hiện và sự đồng thuận của người dân, phải xuất phát từ những mong đợi của nhân dân để họ tự giác chung tay thực hiện.

 

- Cấu trúc hệ giá trị cần ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ tuyên truyền, triển khai. Kinh nghiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như các nước cho thấy, càng đúc rút câu chữ, khái niệm cô đọng, dễ nhớ bao nhiêu càng dễ đi vào cuộc sống bấy nhiêu. Một số quốc gia như Philíppin, Thái Lan đề xuất 9-12 giá trị và mỗi giá trị lại được diễn giải quá dài, khiến người dân khó tiếp thu và không phát huy được tác dụng.

 

3. Đề xuất nội dung và diễn giải về hệ giá trị quốc gia trong giai đoạn hiện nay

 

Dựa vào cơ sở lý luận nêu trên, căn cứ tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế, tham khảo tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương đường lối của Đảng, đặc biệt là định hướng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tổ chức ngày 24/11/2021, tác giả bài viết xin đề xuất hệ giá trị quốc gia cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay gồm 8 giá trị như sau: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc, trong đó giá trị "phồn vinh" đã bao hàm hai giá trị "dân giàu, nước mạnh", sự phát triển phồn thịnh cho cả người dân và đất nước. Điều này cũng tương đồng với mục tiêu "xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc" theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XIII. Về mặt từ nguyên, "dân giàu, nước mạnh" khi dịch ra tiếng nước ngoài sẽ không đồng đẳng với các giá trị kia (là một câu, không phải một danh từ, một thuật ngữ).

 

Có thể diễn giải kỹ hơn về nội hàm cũng như căn cứ lựa chọn các giá trị như sau:

 

- Hòa bình, thống nhất, độc lập

 

Đất nước ta đã phải trải qua hàng nghìn năm nô lệ dưới ách thống trị của phong kiến phương Bắc, gần 100 năm dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, rồi phát xít Nhật, đế quốc Mỹ, nên hơn ai hết, chúng ta thấm thìa nỗi thống khổ của người dân mất nước, mất tự do, nếm trải những đau thương, mất mát của chiến tranh, đất nước bị chia cắt. Do vậy, hòa bình, thống nhất, độc lập chính là những giá trị hàng đầu, tối cao đối với mỗi người dân Việt Nam cũng như cả dân tộc. Muốn có quốc gia, trước hết chúng ta phải có lãnh thổ, cương vực, có chủ quyền, độc lập. Muốn quốc gia phát triển, phải có hòa bình, thống nhất. Chân lý đó đã phải trả giá bằng biết bao mồ hôi, xương máu của các thế hệ đi trước trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Đó chính là khát vọng ngàn đời của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử, lắng đọng trong dòng chảy từ "Nam quốc sơn hà" đến "Tuyên ngôn Độc lập".

 

Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến vô cùng phức tạp, khó lường, sự tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo ngày càng căng thẳng, quyết liệt hơn. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng... Do vậy, các giá trị hòa bình, thống nhất, độc lập càng cần được củng cố, gìn giữ và khẳng định.

 

- Dân chủ, công bằng, văn minh

 

Dân chủ là giá trị ưu việt và đặc điểm cơ bản nhất của một xã hội tiến bộ, phát triển. Dân chủ thể hiện ở việc người dân thực sự được làm chủ trên mọi phương diện: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Trước đây, tư tưởng "lấy dân làm gốc", phát huy tinh thần dân chủ làng xã đã giúp cho các triều đại phong kiến Việt Nam quy tụ được sức mạnh toàn dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, dân chủ là một giá trị tiến bộ của thời đại, được các nước tiên tiến đề cao. Tuy nhiên, đây là giá trị hiện nay chúng ta còn đang yếu, nên phải tập trung xây dựng để khắc phục tệ nạn quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Việc xây dựng, củng cố giá trị "dân chủ" là nhằm hoàn thành mục tiêu xây dựng một hệ thống chính trị trong đó quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân.

 

Công bằng cũng thể hiện sự ưu việt của một chế độ, diễn ra trên mọi khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm xóa bỏ những bất công, thiên lệch trong cơ hội làm việc, phân phối kết quả sản xuất, phân phối lợi ích, thụ hưởng phúc lợi xã hội... Công bằng sẽ giúp bảo đảm không chỉ bình đẳng về mặt chính trị giữa các tầng lớp xã hội, bình quyền về mặt giới tính, mà còn bình đẳng cả trong sự phát triển cá nhân.

 

Hiện nay, tuy đất nước ta đang ngày càng phát triển về kinh tế, nhưng sự phân hóa xã hội, khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo ngày càng lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: "Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng"[22]. Mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ áp bức, bất công, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng bất bình đẳng, đặc quyền, đặc lợi trong xã hội. Do vậy, rất cần chú trọng xây dựng giá trị này.

 

Văn minh thể hiện quốc gia ngày càng phát triển theo hướng tiến bộ, hiện đại, dần theo kịp mặt bằng của các nước phát triển. Văn minh không chỉ thể hiện trong đời sống vật chất, trong tiện nghi sinh hoạt, phát triển khoa học - kỹ thuật, mà còn là văn minh trong đời sống tinh thần thể hiện qua văn hóa, nghệ thuật, trong sinh hoạt chính trị, xã hội, trong giáo dục, đào tạo, thực thi pháp luật... Văn minh ở Việt Nam phải là kết quả của sự tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, kết hợp với kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống, thể hiện từ lối sống, nếp sống, cách ứng xử đến trí tuệ, tư duy, đầu óc sáng tạo... Hiện nay, đây là giá trị chưa được phát triển đồng đều ở các vùng miền, tầng lớp xã hội, nên chúng ta rất cần chú trọng xây dựng, phát triển.

 

- Phồn vinh, hạnh phúc

 

Phồn vinh có nghĩa là đời sống nhân dân giàu có, xã hội phát triển tốt đẹp, thực lực quốc gia lớn mạnh. Phồn vinh thể hiện sự phát triển thịnh vượng, sung túc cả về vật chất lẫn tinh thân của từng gia đình cũng như cả quốc gia. Đây là giá trị rất phù hợp với nguyện vọng và mong muốn của mọi tầng lớp nhân dân cũng như các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước.

Sự phồn vinh, thịnh vượng sẽ tạo nên sức mạnh về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của quốc gia, giúp nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Phồn vinh cũng là điều kiện thiết yếu để chúng ta duy trì được độc lập, chủ quyền quốc gia.

 

Hạnh phúc là sự thỏa mãn những nhu cầu căn bản, quan trọng của con người, gắn liền với những niềm vui, sự bình an trong cuộc sống. Hạnh phúc là thước đo cao nhất về sự hài lòng của người dân đối với quốc gia. Trên thế giới, sự phát triển thành công của một đất nước thường được đánh giá qua thang đo là chỉ số hạnh phúc.

Xét trong mối quan hệ biện chứng, phồn vinh, hạnh phúc chỉ đạt được khi có dân chủ, công bằng, văn minh, đồng thòi, có phồn vinh, hạnh phúc thì mới bảo vệ được độc lập, hòa bình, thống nhất đất nước.

 

4, Phương thức xây dựng hệ giá trị quốc gia trong giai đoạn hiện nay

 

Xây dựng và củng cố hệ giá trị quốc gia là một công cuộc lâu dài, khó khăn, phức tạp, rất cần sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự triển khai một cách đồng bộ, căn cơ các giải pháp, sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân. Công việc này phải được tiến hành bền bỉ, kiên trì, thường xuyên, không chạy theo hình thức, phong trào. Dưới đây là một số đề xuất góp phần gìn giữ, củng cố và phát triển hệ giá trị quốc gia Việt Nam.

 

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức một cách thực chất, bài bản về hệ giá trị quốc gia. Nếu có thể thì nên biến thành những phong trào, cuộc vận động sâu rộng, quy mô, mang tầm chiến lược, dài hơi như các cuộc vận động "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", hay phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". Cần nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các phương tiện truyền thông mới trong thời đại số bằng các hình thức đa dạng, linh hoạt, sinh động.

 

Hai là, phát huy vai trò của các thiết chế xã hội quan trọng như: gia đình, nhà trường, cộng đồng trong việc giáo dục, trau dồi các giá trị.

Trước hết, nhà trường phải trở thành "vườn ươm" cho những công dân tương lai có những tố chất đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; bảo vệ hòa bình, thống nhất, độc lập của Tổ quốc. Bên cạnh việc "dạy chữ", nhà trường phải chú trọng "dạy người", "dạy nghề", rèn luyện các giá trị, xây dựng văn hóa công nghiệp, văn hóa phát triển, văn hóa hội nhập. Lồng ghép nội dung giáo dục giá trị quốc gia vào các môn học như: Giáo dục công dân, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý... Thầy cô phải là những người nêu gương trong việc thực hiện các giá trị. Trường học phải trở thành nơi học để "làm người" và "thành người" như ở các nước văn minh, tiên tiến.

 

Nên học hỏi kinh nghiệm Nhật Bản trong việc coi trọng giáo dục các giá trị quốc gia, củng cố niềm tự hào dân tộc từ những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường, bởi lứa tuổi thanh, thiếu niên, sinh viên là lứa tuổi quan trọng để hình thành nhân sinh quan, thế giới quan. Việc định hướng "giá trị quan" trong nhà trường luôn được tiến hành một cách bài bản, khoa học với những triết lý rõ ràng.

 

Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò của gia đình, chiếc nôi đầu tiên hình thành, nuôi dưỡng các giá trị. Ông bà, cha mẹ phải là những "người thầy đầu tiên" giáo dục lòng yêu nước, yêu hòa bình, ý thức quốc gia, lòng tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng đất nước hùng cường.

 

Cộng đồng cũng là một môi trường quan trọng để định hình, điều tiết, vun đắp các giá trị quốc gia vì sự phát triển chung, từ những tập thể nhỏ như làng xã, khu phố đến những cộng đồng lớn như dân tộc, quốc gia.

 

Ba là, các bộ, ban, ngành, các cấp chính quyền, các tổ chức, đoàn thể trên cơ sở hệ giá trị quốc gia triển khai thành các chương trình hành động, phù hợp với thực tiên ngành, giới, địa phương, đơn vị mình. Cụ thể hóa hệ giá trị quốc gia thành những phương châm, nguyên tắc nghề nghiệp, tiêu chí văn hóa thích hợp, sao cho hệ giá trị này trở thành thước đo, định hướng, tiêu chuẩn rèn luyện, phấn đấu của tùng đối tượng như cán bộ, đảng viên, phụ nữ, thanh niên...

 

Bốn là, phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trong xây dựng hệ giá trị quốc gia. Một bộ phim hay, một vở kịch hấp dẫn, một tiểu thuyết có giá trị, một bài hát đi vào lòng người nhiều khi có sức mạnh lan tỏa, cảm hóa, thu phục nhân tâm hơn hàng trăm lời kêu gọi, hồ hào suông. Do vậy, cần đề cao trách nhiệm, ý thức công dân của các văn nghệ sĩ trong việc xây dựng các giá trị cốt lõi của quốc gia. Làm sao để ngày càng có nhiều tác phẩm xứng tầm với lịch sử hào hùng và công cuộc đổi mới của dân tộc, khơi dậy trong nhân dân khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, bảo vệ nền hòa bình, độc lập, thống nhất, thực hiện dân chủ, công bằng, văn minh.

 

Năm là, "xây", phải kết hợp với "chống". Cùng với việc xây dựng, củng cố các giá trị bằng biện pháp khuyến khích, giáo dục ý thức tự giác, cần phát huy vai trò của pháp luật, xử phạt nghiêm minh, giữ nghiêm kỷ cương phép nước, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, quản lý xã hội bằng luật pháp. Khi tất cả đều sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, không ai được đứng trên, đứng ngoài pháp luật, thì mới có thể thực hiện được các giá trị "dân chủ", "công bằng", "văn minh", quốc gia "phồn vinh, hạnh phúc". Rất cần xây dựng một nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

 

Sáu là, nền tảng chung và điều kiện cơ bản nhất để hiện thực hóa hệ giá trị quốc gia nêu trên là sự đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý và điều hành đất nước trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, vì tất cả những điều đó đều có ảnh hưởng trực tiếp tới hệ giá trị. Thể chế nào sẽ sinh ra những mẫu người và văn hóa đó.

 

Trước hết là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để hạn chế những bất cập và kẽ hở về quản lý, sở hữu, phân phối, giảm bớt tình trạng thất thoát, đục khoét, biển thủ tài sản của Nhà nước, các quan hệ lợi ích nhóm, sự bất bình đẳng, thiếu minh bạch... tạo điều kiện cho các biểu hiện phi giá trị, bất công, thiếu dân chủ có cơ hội phát triển.

 

Về thể chế chính trị, cần xây dựng Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh" như Bác Hồ hằng mong muốn, phát huy trí tuệ, tinh hoa, sự sáng suốt của Đảng, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ. Nêu cao vai trò đầu tàu, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thực thi các giá trị. Nếu đảng viên, nhất là các lãnh đạo cấp cao, không nêu gương, nói không đi đôi với làm, thì niềm tin của nhân dân sẽ suy giảm và đương nhiên sẽ tác động tới hệ giá trị của toàn xã hội.

 

Tăng cường hoàn thiện thể chế văn hóa, bảo đảm các điều kiện để văn hóa dân tộc được chấn hưng và phát triển trong mối quan hệ hữu cơ với phát triển kinh tế - xã hội.

 

Ngoài ra, thể chế quản lý trong các lĩnh vực trọng yếu khác như: Y tế, giáo dục, báo chí, ngoại giao, an ninh, quốc phòng cũng còn khá nhiều bất cập, tiêu cực như chúng ta đang chứng kiến gần đây, cần phải tiếp tục được cải cách và chấn chỉnh nghiêm minh.

 

Nhìn chung, việc thực hiện một số giá trị trong hệ giá trị quốc gia này không phải là mới, chúng ta đã tiến hành trong cả quá trình lâu dài xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ ngày nay của chúng ta là tiếp tục giữ gìn, củng cố và phát triển hệ giá trị ấy đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới. Công cuộc này rất cần tới sự đóng góp trí tuệ, tâm huyết, sự chung tay góp sức của cả hệ thống chính trị cũng như mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội.

 

GS.TS Từ Thị Loan *

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, A. A. Radugin (Chủ biên): Từ điển bách khoa Văn hóa học, Viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2002.

2, Nguyễn Duy Bắc (Chủ biên): Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kỉnh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Từ điển Bách khoa và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2008.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.l.

4. G. Endruweit và G.Trommsdorff (Chủ biên): Từ điển xã hội học, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2002.

5. J. H. Fichter: Xã hội học (bản dịch của Trần Văn Đỉnh), Nxb. Hiện đại, Sài Gòn, 1973.

6. Phan Huy Lê: "Giá trị truyền thống và những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục giá trị cho thanh thiếu niên Việt Nam truớc yêu cầu hội nhập và phát triển", in trong sách Hệ giá trị - mục tiêu phát triển nhân cách người học của hệ thống giáo dục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2016.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

8. Hồ Sĩ Quý: "Mây vấn đề về hệ giá trị Việt Nam", in trong sách Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2015.

9. Nguyễn Ngọc Thiện, Từ Thị Loan (Đồng chủ biên): Hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

10. Ngô Đức Thịnh: Hệ giá trị văn hóa Việt Nam, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2019.

11. Yên Kế Vinh: Nguyên lý phân tích chính trị hiện đại, Nxb. Giáo dục cao đẳng, Bắc Kinh, 2007.



* Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

[2]. G. Endruweit và G. Trommsdorff (Chủ biên): Từ điển xã hội học, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2002, tr.156.

[3] J. H. Fichter: Xã hội học (bản dịch của Trần Văn Đỉnh), Nxb. Hiện đại, Sài Gòn, 1973, tr.173.

[4]. A. A. Radugin (Chủ biên): Từ điển bách khoa Văn hóa học, Viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2002, tr.165.

[5]. Ngô Đức Thịnh: Hệ giá trị văn hóa Việt Nam, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2019, tr.25.

[6]. Xem Nguyễn Duy Bắc (Chủ biên): Sự biên đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh tẽ thị trường ở Việt Nam hiện nay, Sđd, tr.273.

[7]       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.l.

[8]       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3.

[9]       Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187.

[10]     Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.341.

[11]     Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.624.

[12]     Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.29.

[13]     Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.143.

[14]     Yên Kế Vinh: Nguyên lý phân tích chính trị hiện đại, Nxb. Giáo dục cao đẳng, Bắc Kinh, 2007, tr.53-77.

[15]     Nguyễn Ngọc Thiện, Từ Thị Loan (Đồng chủ biên): Hệ giá trị văn hoá và con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tê; Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.94.

[16] A (Báo cáo của Hồ Cẩm Đào tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc), http://www.xinhuanet.com/18cpcnc/ 2012-11/17/c_l 13711665_7.html.

[17]     Charlene Tan: Singapore Values, https://www.researchgate.net/publication/263218684_'Our_Shared_ Values '_in_Singapore_A_Confucian_Perspective.

[19] . Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.112.

[20]     Phan Huy Lê: "Giá trị truyền thống và những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục giá trị cho thanh thiếu niên Việt Nam trước yêu cầu hội nhập và phát triển", in trong sách Hệ giá trị - mục tiêu phát triển nhân cách người học của hệ thống giáo dục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2016.

[21]     HỒ Sĩ Quý: "Mấy vấn đề về hệ giá trị Việt Nam", in trong sách Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh 2015, tr.193.

[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.224.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết