Thứ Sáu, ngày 19 tháng 04 năm 2024

COP26 – Cần một nỗ lực tập thể và rõ ràng (Phần cuối)

Ngày phát hành: 06/11/2021 Lượt xem 1529


(chathamhouse.org)
Thúc đẩy Bộ quy tắc Paris
Việc thúc đẩy Bộ quy tắc Paris, hướng dẫn các bên về cách thức truyền đạt các NDC cũng như đánh giá tiến độ thực hiện của từng nước và trong tập thể các nước, là yếu tố quan trọng để thực hiện các mục tiêu của Hiệp định Paris.
COP21 tại Paris là thành tựu mang tính bước ngoặt của các nỗ lực quốc tế nhằm phối hợp ứng phó với biến đổi khí hậu. Điều quan trọng là trước COP24 năm 2018, các bên đã có 3 năm để tiến tới sự thống nhất về Bộ Quy tắc Paris nhằm thực hiện Hiệp định Paris. Hiệp định Paris đã xây dựng được khuôn khổ hành động, trong khi Bộ quy tắc Paris chỉ ra các quy trình và công cụ để thực hiện thỏa thuận này. Việc thúc đẩy Bộ quy tắc Paris sẽ đưa ra những hướng dẫn có giá trị về cách thức truyền đạt các NDC cũng như cân nhắc tiến độ thực hiện của mỗi nước và của tập thể. Tuy nhiên, bất đồng giữa các bên đã dẫn đến sự chậm trễ trong việc thúc đẩy bộ quy tắc này. Năm 2018, tại COP24 ở Katowice, Ba Lan, các bên đã nhất trí về hầu hết các nội dung của bộ quy tắc liên quan đến Bộ quy tắc khí hậu Katowice, với các ngoại lệ quan trọng, như cải thiện quy trình đánh giá nguồn lực toàn cầu, giải quyết các bất đồng về Điều 6, sử dụng một phần nguồn thu từ hoạt động thương mại carbon, thống nhất các quy tắc để tránh trùng lặp, nâng cao tính minh bạch và năng lực quản trị, thiết lập thời hạn chung cho việc thực hiện các NDC.


Cải thiện quy trình đánh giá nguồn lực toàn cầu
Việc đánh giá nguồn lực toàn cầu là cơ sở để nâng cao tham vọng và do đó đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc Hiệp định Paris. Quy trình này cung cấp thông tin nền tảng cho việc nâng cao tham vọng tại các vòng thảo luận về NDC trong tương lai, dựa trên thành tựu chung trong việc thực hiện mục tiêu giảm phát thải carbon. Quy trình đánh giá nguồn lực toàn cầu đầu tiên sẽ kết thúc vào năm 2023. Các bên đã nhất trí về quy trình này tại COP24, nhưng một số vấn đề then chốt vẫn chưa được quyết định trước thềm COP26. Chẳng hạn, các bên muốn cải cách các thủ tục liên quan đến quy trình đánh giá nguồn lực toàn cầu vì hiện chưa thiết lập được lịch trình và hoàn thành giai đoạn thứ ba (đánh giá kết quả) để gây ảnh hưởng đến chương trình nghị sự vốn định hình các NDC của các nước. Mặc dù các nước đã nhất trí xem xét các cách thức giảm thiểu tác động của tổn thất và thiệt hại, nhưng không có cách nào để có thể đưa những nỗ lực này vào quá trình đánh giá nguồn lực toàn cầu. Mặc dù Bộ quy tắc Paris chỉ rõ các yếu tố đầu vào của quá trình đánh giá nguồn lực toàn cầu, nhưng việc xem xét kỹ lưỡng các nguồn thông tin phục vụ quá trình này có thể là tâm điểm của COP26. Hơn nữa, bất chấp nỗ lực thúc đẩy quy trình đánh giá trên nguyên tắc công bằng, nhưng hiện vẫn chưa có thỏa thuận về cách thức đánh giá kết quả của quy trình này.


Giải quyết bất đồng về Điều 6
Điều 6 đề cập đến các vấn đề hóc búa xung quanh thị trường carbon và thương mại phát thải, được xem là một trong những khái niệm phức tạp nhất và khó tiếp cận nhất của Hiệp định Paris. Sau đó, tại COP25 được tổ chức tại Madrid vào năm 2019, Điều 6 đã trở thành một trong những nội dung gây tranh cãi nhất trong các cuộc đàm phán. Kể từ COP24, những bất đồng xung quanh các vấn đề liên quan đến Điều 6 đã làm suy yếu lập trường của các bên tham gia đàm phán, đe dọa tiến triển tại COP26. Chủ tịch COP26 Alok Sharma đã nhắc lại mục tiêu của Anh về việc giải quyết những bất đồng từ lâu xung quanh Điều 6 về quản lý thị trường của Hiệp định Paris cũng như đạt được sự thống nhất về bộ quy tắc đối với thương mại phát thải quốc tế sau năm 2020.
Việc giải quyết bất đồng về Điều 6 tại COP26 có ý nghĩa quan trọng vì điều này giúp thiết lập cơ sở cho các quy tắc quản lý thị trường carbon quốc tế. Những người ủng hộ lập luận rằng việc liên kết các thị trường carbon quốc tế - dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp để tạo ra một thị trường lớn hơn nhằm mang lại lợi nhuận - sẽ giúp các nước tìm ra cách thức ít tốn kém để giảm thải hoặc mua hạn ngạch phát thải từ các nước đã giảm thải nhiều hơn mức cam kết để đáp ứng mục tiêu NDC. Việc xây dựng các hệ thống định giá carbon và tạo cơ hội chuyển đổi các đơn vị giảm phát thải có thể giúp huy động nguồn tài chính đáng kể để thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu hiệu quả tác động của biến đổi khí hậu. Trong khi một số người xem Điều 6 là yếu tố quyết định thành công hay thất bại của các thị trường carbon trong tương lai, những người khác lại cho rằng cho đến nay việc thiếu thỏa thuận của Liên hợp quốc về các thị trường carbon không cản trở việc phát triển các cách tiếp cận hiện tại sử dụng các thỏa thuận song phương về thương mại carbon.
Hiện nay, khoảng 40 quốc gia và 20 thành phố hoặc vùng lãnh thổ đang sử dụng các cơ chế định giá carbon, bao gồm khoảng 13% lượng phát thải khí nhà kính hàng năm trên toàn cầu. Việc định giá carbon được tiến hành thông qua hai hình thức chủ yếu: các hệ thống thương mại khí thải (ETS) và thuế carbon. Mặc dù các hệ thống thương mại phát thải được sử dụng rộng rãi, nhưng các tiêu chuẩn và quy định mới cũng dần xuất hiện. Chẳng hạn, EU dự kiến thực hiện Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) - nền tảng của Thỏa thuận “xanh” châu Âu - nhằm giải quyết tình trạng rò rỉ carbon, khiến các công ty có xu hướng dịch chuyển hoạt động sản xuất sang các nước có tiêu chuẩn khí thải không quá khắt khe. Các nhà hoạch định chính sách ở một số nước không sẵn sàng áp dụng thuế carbon mà ưu tiên các phương pháp tiếp cận thay thế như hỗ trợ để giảm phát thải carbon hoặc phí cho các hoạt động thải ít carbon. Mọi lĩnh vực kinh tế đều có thể tiếp cận các thị trường carbon tự nguyện nhằm thực hiện NDC bằng việc mua lại hạn ngạch phát thải, khiến nhu cầu này ngày càng tăng. Trong khi đó, điều này là bất khả thi đối với các thị trường carbon bắt buộc, vốn liên quan đến một số lĩnh vực công nghiệp cụ thể và khí nhà kính.
Điều 6 có 3 đoạn đang có hiệu lực, bao gồm 2 đoạn về thị trường carbon và 1 đoạn về các cách tiếp cận phi thị trường nhằm thực hiện NDC. Tuy nhiên, cho đến nay, những khái niệm chính được trình bày trong những đoạn này vẫn chưa được thống nhất. Điều 6 nêu ra 2 thị trường carbon quốc tế được hình thành thông qua các phương pháp tiếp cận mang tính hợp tác (từ Điều 6.2 đến Điều 6.3) và cơ chế phát triển bền vững (từ Điều 6.4 đến Điều 6.7). Theo Điều 6, các bên có thể thực hiện các NDC cũng như nâng cao tham vọng về các mục tiêu tăng cường khả năng chống chịu thông qua hợp tác. Khoảng 50% các bên tham gia dự kiến sẽ tham gia các thị trường carbon quốc tế sau năm 2020.
Việc trao đổi các đơn vị carbon là cơ sở của Cơ chế chuyển nhượng kết quả giảm phát thải quốc tế (ITMO) - khái niệm chỉ việc chuyển nhượng hạn ngạch phát thải giữa các bên tham gia Hiệp định Paris. Để làm rõ khái niệm này, Nghị định thư Kyoto đã thiết lập 2 giai đoạn cam kết cho các bên tham gia là các nước phát triển - giai đoạn đầu từ năm 2008 đến năm 2012 và giai đoạn hai từ năm 2013 đến năm 2020. Trong các giai đoạn này, các bên cam kết đưa ra chỉ tiêu cụ thể cho việc cắt giảm phát thải khí nhà kính. Các bên tham gia Nghị định thư Kyoto đã nhất trí về các mục tiêu quốc gia về việc hạn chế hoặc giảm thiểu phát thải, được phân chia thành các mức độ phát thải cho phép gọi là các “đơn vị phát thải được ấn định” (AAU). Nghị định thư cũng quy định các hạn ngạch phát thải được chứng nhận (CER) - các đơn vị phát thải được áp dụng theo Cơ chế phát triển sạch (CDM) nhằm giúp các nước đang phát triển đạt được mục tiêu phát triển bền vững.
Hiện tại, chưa có cơ sở pháp lý để chuyển các đơn vị phát thải đã có trước năm 2021 từ Nghị định thư Kyoto sang Hiệp định Paris, vì đây là hai hiệp ước riêng rẽ. Khuôn khổ pháp lý của Nghị định thư Kyoto không cho phép chuyển giao các hạn ngạch phát thải sau giai đoạn cam kết 2013-2020. Không thể chuyển giao AAU và CER sang các giai đoạn cam kết khác. Vì nguồn cung CER vượt quá nhu cầu, nên mức giá mua bán hạn ngạch phát thải theo Điều 6 sẽ rất thấp nếu cho phép chuyển giao CER. Ngoài ra, tổng số CER và AAU hiện tại lớn đến mức có thể làm giảm tham vọng giảm phát thải theo Hiệp định Paris, vốn đang không đáp ứng mục tiêu của thỏa thuận là duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới ngưỡng 1,5°C. Nói cách khác, nếu các hạn ngạch phát thải từ giai đoạn trước được phép chuyển giao sang các giai đoạn tiếp theo, thì thị trường sẽ bị “bội thực” hạn ngạch và điều này có thể làm giảm động lực thúc đẩy các nước hành động để giảm thiểu phát thải.
Tuy nhiên, một số nước không muốn để mất hạn ngạch phát thải trước đó, vì điều này sẽ làm suy yếu các cam kết của họ và có thể làm giảm cả hiệu quả của các cơ chế trong tương lai. Tại COP25 ở Madrid, Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil đã đấu tranh để được phép chuyển giao các hạn ngạch phát thải từ thời Kyoto theo cơ chế được quy định tại Điều 6.4, vì những nước này hiện nắm giữ nhiều CER. Cả EU và các nước dễ bị tổn thương vì biến đổi khí hậu đều phản đối việc chuyển giao các đơn vị phát thải thời Kyoto và cho rằng các CER sẽ làm giảm tham vọng về giảm phát thải. Theo đánh giá của tổ chức tư vấn chiến lược Climate Analytics, nếu Australia sử dụng các AAU dư thừa và Trung Quốc, Brazil sử dụng các CER để đáp ứng các mục tiêu NDC trong nước, thì điều này sẽ làm giảm 25% tham vọng toàn cầu. Theo đó, các dự án phát hành CER sẽ không còn tuân thủ nguyên tắc cốt lõi của các thị trường tự nguyện: nguyên tắc phái sinh, đòi hỏi phải xem xét mọi hoạt động giảm thiểu phát thải dựa trên cơ chế thị trường để chứng tỏ khó có thể giảm thiểu phát thải ở mức độ tương ứng khi không có cơ chế thị trường. Do vậy, việc chuyển giao các đơn vị phát thải là một vấn đề đáng bàn vì điều này có thể không thực sự phản ánh tình hình giảm phát thải và có thể ảnh hưởng đến thị trường carbon toàn cầu.
Liên quan đến việc chuyển giao các đơn vị phát thải là vấn đề về các hạn ngạch phát sinh từ quá trình chuyển giao CDM. Vấn đề quan trọng là SDM theo quy định tại Điều 6.4 được xây dựng dựa trên các cơ chế Kyoto và có nhiều điểm chung với nghị định thư này, nhất là về CDM và việc phối hợp thực hiện. CDM được vận hành theo Nghị định thư Kyoto, vốn đặt ra các mục tiêu phát thải có tính ràng buộc về mặt pháp lý đối với 6 trong số các khí nhà kính chủ yếu tại các nước phát triển trong giai đoạn 2008-2012. Tuy nhiên, hiện nay, không chỉ các nước công nghiệp phát triển mà tất cả các nước đều có những mục tiêu phát thải bắt buộc. Đây là một vấn đề đáng bàn vì các nước đang phát triển sẽ có ít hạn ngạch để bán hơn và việc loại bỏ những nước này khỏi cơ chế giảm phát thải ít tốn kém này là điều không nên. Do đó, SDM vừa phải đảm bảo mục tiêu giảm phát thải tổng thể vừa phải thúc đẩy sự phát triển bền vững trong khuôn khổ nghị trình phát triển bền vững năm 2023 bao trùm hơn, đặc biệt là các mục tiêu phát triển bền vững (SDG).


Phân bổ một phần nguồn thu
Một vấn đề nữa chưa được giải quyết là việc sử dụng một phần nguồn thu (SOP), khoản thuế đánh vào các hoạt động theo cơ chế thị trường carbon, được nêu tại Điều 6.6. Việc phân bổ SOP sẽ phần nào giúp các nước đang phát triển tăng cường khả năng thích ứng và chống chịu. Theo CDM của Nghị định thư Kyoto, SOP dưới dạng tiền mặt đến từ việc phát hành hạn ngạch (SOP hành chính) và SOP dưới dạng sản phẩm hoặc dịch vụ đến từ 2% hạn ngạch carbon đã phát hành được phân bổ cho Quỹ thích ứng (SOP thích ứng).
Hiện tại, SDM sẽ thay thế CDM. Vấn đề đặt ra đối với các nhà đàm phán COP26 là liệu SOP sẽ được áp dụng cho thị trường SDM tập trung hay cho tất cả các giao dịch, bao gồm cả các thỏa thuận song phương. SOP theo quy định tại Điều 6.6 của Hiệp định Paris bắt nguồn từ các hoạt động được triển khai thông qua các cơ chế được nêu tại Điều 6.4 và cơ chế trung tâm của Liên hợp quốc cho việc mua bán hạn ngạch phát thải phát sinh từ các dự án được chỉ định, chứ không liên quan đến SOP được nêu tại Điều 6.2, vốn quy định khuôn khổ cho các phương pháp tiếp cận thị trường mang tính hợp tác. Tại Katowice, các cuộc đàm phán đã rơi vào bế tắc khi một số liên minh (bao gồm Nhóm châu Phi, Nhóm Arập, các nước kém phát triển nhất và các nước đang phát triển cùng chí hướng) tìm cách mở rộng SOP tại Điều 6.2 trong khi các liên minh khác (trong đó có EU) phản đối điều này. Các bên đã nhất trí về SOP dưới dạng tiền mặt và SOP dưới dạng sản phẩm hoặc dịch vụ được nêu tại Điều 6.4, nhưng vẫn bất đồng về các vấn đề khác như cách đánh thuế SOP, cách chuyển đổi hạn ngạch thành lợi tức, cách sử dụng nguồn thu và tỷ lệ giữa SOP dưới dạng tiền mặt và SOP dưới dạng sản phẩm hoặc dịch vụ. Các lựa chọn khác nhau này đều có những tác động về mặt kỹ thuật, mà một vài trong số đó cần được giải quyết ở cấp Liên hợp quốc để tránh tình trạng các cuộc đàm phán song phương kéo dài và ngắt quãng.


Giải quyết vấn đề tính toán trùng lặp
Các quy tắc hạch toán là thách thức kỹ thuật khi xét tới sự khác biệt giữa các nước về NDC, cụ thể là về khung thời gian, lĩnh vực áp dụng và loại khí nhà kính. Điều 6.2 và Điều 6.4 là những rào cản chính trị trước mắt. Vấn đề then chốt cần được tranh luận tại COP26 là làm thế nào để hạch toán thương mại giữa các nước đặt ra mục tiêu và khung thời gian NDC khác nhau. Khi các nước trao đổi hạn ngạch phát thải, một tấn CO₂ có thể được nhiều nước tính hai lần, gây khó khăn cho việc xác định và báo cáo mục tiêu. Tiếp đó, nếu không thực hiện hạch toán đầy đủ, thì việc mua bán hạn ngạch theo Điều 6.2 có thể cho phép các nước đạt được mục tiêu theo từng năm mà không phải cắt giảm lượng phát thải. Ngoài ra, căng thẳng xung quanh việc hạch toán trùng tập trung vào vấn đề thương mại carbon quốc tế được nêu tại Điều 6.4 về các điều chỉnh tương ứng. Tuy nhiên, việc gia tăng tỷ trọng thương mại carbon bằng vốn tư nhân mà không có những cải thiện tương ứng về chính sách công có nguy cơ phá hỏng các cuộc đàm phán. Những nỗ lực đáng kể, chẳng hạn như việc xây dựng Lực lượng mở rộng quy mô thị trường carbon tự nguyện, có thể bỏ lỡ mục tiêu của hạn ngạch carbon là giảm thiểu hoặc loại bỏ CO₂ khỏi bầu khí quyển.


Đảm bảo sự minh bạch
Vấn đề về sự minh bạch gắn chặt với vấn đề hạch toán trùng lặp. Hiệp định Paris không đặt ra các tiêu chuẩn để đánh giá mức độ tuân thủ và thực thi, do đó sự minh bạch là yếu tố quan trọng để đảm bảo trách nhiệm giải trình và uy tín theo quy định tại Điều 13. Yêu cầu về sự minh bạch cũng được đưa vào Điều 6, theo đó các bên có trách nhiệm đảm bảo sự liêm chính và minh bạch về môi trường, kể cả trong việc quản trị. Hiện tại, vai trò của quy trình COP là xác định cách thức có thể chấp nhận được để thực hiện hạch toán rõ ràng, nhất là để tránh tình trạng hạch toán trùng lặp và đảm bảo tính chính xác trong việc báo cáo kết quả giảm thiểu phát thải.
Các NDC là nền tảng cơ bản của các cam kết theo Hiệp định Paris và hạch toán NDC là cơ sở để tiến hành đánh giá nguồn lực toàn cầu. Do đó, tranh chấp hàng đầu cần được giải quyết tại COP26 liên quan đến đoạn 77 (d) trong khuôn khổ về tính minh bạch, trong đó đưa ra phương pháp tránh hạch toán trùng lặp theo Điều 6.2, đề cập đến việc phát thải nhưng không liên quan đến hạch toán NDC. Vấn đề này đã khiến COP24 rơi vào bế tắc khi một số nước phản đối việc định lượng NDC theo CO₂e hoặc CO₂ vì cho rằng điều này trái với bản chất của Hiệp định Paris là cho phép các nước được lựa chọn các chỉ số NDC riêng. Cách tính theo CO₂e thường gây tranh cãi nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với một số lĩnh vực nhất định - việc thiếu vắng các hướng dẫn minh bạch có nguy cơ khiến hệ thống hạch toán carbon không đảm bảo mục tiêu giảm phát thải. Mặc dù các bên đã nhất trí về bộ quy tắc liên quan đến việc sử dụng các dấu hiệu cho thấy khả năng nóng lên toàn cầu (GWP100) làm thước đo chung để báo cáo về lượng phát thải CO₂e, nhưng theo UNFCCC, có sự khác biệt về cách tính metan giữa các nước phát triển và đang phát triển: Các nước phát triển báo cáo lượng khí thải bằng cách sử dụng các trị số GWP100 từ Báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC (25 lần tác động) trong khi các nước đang phát triển sử dụng các trị số từ Báo cáo đánh giá lần thứ hai của IPCC (21 lần tác động). Những đánh giá này (21 lần so với 25 lần tác động) khác nhau vì các trị số GWP được cập nhật theo các định lượng khoa học mới liên quan đến thời gian tồn tại của khí metan hoặc sự thay đổi nồng độ trong khí quyển gây ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ năng lượng của 1 tấn khí bổ sung so với một tấn khí khác. Do đó, có sự khác biệt về số liệu giữa báo cáo theo Hiệp định Paris và báo cáo theo UNFCCC. Tuy nhiên, việc thiếu sự thống nhất về đơn vị báo cáo gây khó khăn trong việc đánh giá mức độ tham vọng. Trong trường hợp không có đủ thông tin để so sánh và rút ra kết luận, việc đánh giá mức độ thỏa đáng của hành động và trách nhiệm giải trình của các bên theo khuôn khổ hiện hành về tính minh bạch sẽ trở nên khó khăn hơn.


Thiết lập các khung thời gian chung
Một số người cho rằng việc thiết lập các khung thời gian chung là vấn đề bị xem nhẹ và gây hiểu lầm nhiều nhất trong các cuộc thảo luận về biến đổi khí hậu, vì điều này tác động đáng kể đến cuộc thảo luận về việc nâng cao tham vọng và gia tăng các cam kết. Trong khi hành động chống biến đổi khí hậu diễn ra đều đặn, thì các khung thời gian đóng vai trò là những mốc kiểm soát về thời điểm có thể gia tăng tham vọng chống biến đổi khí hậu. Do đó, sự thiếu vắng khung thời gian chung cho việc báo cáo và hành động có thể dẫn tới tình trạng mất cân bằng về áp lực đối với các bên tham gia. Theo quy định của COP24, từ năm 2031, các nước phải đề ra NDC theo khung thời gian chung và quyết định mốc thời gian cụ thể sau đó. Tuy nhiên, các cuộc thảo luận tại COP25 đã không đi đến sự thống nhất về khung thời gian này - 5 năm, 10 năm hay cả hai. Nguyên nhân là do một số bên tham gia, trong đó có Nga và Nhật Bản, cho rằng giống như NDC, khung thời gian cũng phải do từng nước quyết định.
Các bên khác, chủ yếu là các nước dễ bị tổn thương vì khí hậu và có thu nhập thấp như Brazil, lo ngại rằng mốc thời gian dài hơn 10 năm có nguy cơ làm giảm tham vọng do không thích ứng kịp thời với công nghệ “xanh” mới và kết quả của quá trình đánh giá nguồn lực toàn cầu. Việc báo cáo thường xuyên cũng có thể tránh được trường hợp các quốc gia chỉ đưa ra NDC để hướng tới mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 mà không có kế hoạch thực hiện. Nếu không có khung thời gian chung sẽ khó có thể so sánh và phân tích các NDC vì sự khác biệt về phạm vi, thời hạn và mức độ đóng góp. Các khung thời gian chung cũng sẽ giúp giải quyết vấn đề liên quan đến khả năng so sánh và sự minh bạch trong các nỗ lực đánh giá nguồn lực toàn cầu. Bộ trưởng các nước Thụy Sĩ và Rwanda đã dẫn dắt các cuộc tham vấn về lĩnh vực này trước thềm COP26.


Đạt được kết quả tích cực tại COP26
COP26 có thể mang lại những kết quả gì? COP26 có thể cung cấp thông tin chi tiết về quy trình đánh giá nguồn lực toàn cầu, dự kiến sẽ được thực hiện từ năm 2022-2023, cũng như cách thức và thời điểm chuẩn bị và chia sẻ thông tin giữa các nước. Thỏa thuận về thời điểm hoàn thành giai đoạn ba của quy trình đánh giá nguồn lực toàn cầu để kịp thời điều chỉnh các NDC đến năm 2025 và sự thống nhất về cách thức báo cáo kết quả đánh giá là những gì được mong chờ tại COP26.
Các vấn đề nổi bật tại Điều 6 có ý nghĩa then chốt nhưng lại khó có được sự đồng thuận của các bên. Đối với các nhà đàm phán tại COP, việc nhanh chóng loại bỏ carbon đòi hỏi phải có thêm nhiều hành động chính sách ngoài việc định giá carbon và đưa ra các sáng kiến về thị trường quốc tế. Các vấn đề chính sách cần được cân nhắc bao gồm việc giảm phát thải trong các lĩnh vực công nghiệp và giao thông vận tải, cũng như việc đặt ra các quy định về sự quản lý trực tiếp của chính phủ. Mặc dù việc thúc đẩy sự thống nhất về các quy định tại Điều 6 trong các cuộc họp trù bị trước và trong thời gian diễn ra COP26 có vai trò quan trọng, nhưng việc tăng cường hỗ trợ các lộ trình chính sách và thị trường bổ trợ nhằm giảm phát thải cũng phải được xúc tiến đồng thời.
Tuy nhiên, việc không có thỏa thuận còn tốt hơn là việc có một thỏa thuận tồi tệ, vì việc đạt được một thỏa thuận ít tham vọng bằng cách tạo áp lực sẽ tác động tiêu cực đến Hiệp định Paris. Việc không đạt được sự thống nhất về các vấn đề cốt lõi có thể làm giảm tính chặt chẽ của hiệp định này, cũng như làm tăng vai trò của “các câu lạc bộ carbon” và các biện pháp thị trường. Cho dù kết quả của COP26 có như thế nào, thì các thị trường carbon đã thực sự tồn tại. Khi CBAM của EU bắt đầu có hiệu lực và các nước cân nhắc các biện pháp chính sách tương tự, COP26 có thể tạo ra các cơ hội khuyến khích sự kết hợp hài hòa giữa hạch toán dựa trên sản lượng và hạch toán dựa trên tiêu dùng, cũng như tránh được cuộc chạy đua đến cùng hiện nay.
Việc vạch ra lộ trình rõ ràng cho việc sử dụng SOP có thể là cơ hội để COP26 giải quyết những lỗ hổng về tham vọng và tăng cường hỗ trợ cho các nước dễ bị tổn thương vì khí hậu mà có thể bị mất lợi ích trên các thị trường carbon do lượng phát thải thấp. Việc sử dụng cả SOP bắt buộc lẫn SOP thích ứng cũng như kết hợp giữa thanh toán bằng tiền với thanh toán bằng sản phẩm hoặc dịch vụ theo quy định tại Điều 6.4 (và theo đề xuất trong dự thảo Katowice) là lựa chọn phù hợp cho các nhà đàm phán tại COP26, vì điều này sẽ giúp làm giảm chi phí giao dịch, hạn chế gánh nặng cho các nhà phát triển đề án và mang lại cơ hội thu lợi khi giá cả thị trường gia tăng.
Về vấn đề khung thời gian chung, các nhà đàm phán tại COP26 cần đạt được sự thống nhất về thời hạn tối đa 5 năm cho việc báo cáo trong giai đoạn sau năm 2031. Cuộc thảo luận về khung thời gian chung cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình tranh luận về cách giải quyết vấn đề hạch toán trùng lặp. Hơn nữa, các khung thời gian chung sẽ giúp cải thiện sự minh bạch và khả năng so sánh cần có để thực hiện quy trình đánh gia nguồn lực toàn cầu. Việc các nước được phép chọn khung thời gian riêng cho việc báo cáo sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện cơ chế đa phương về khí hậu này. Để giải quyết các vấn đề liên quan đến hạch toán trùng lặp, việc thảo luận về nguyên tắc San José để nâng cao tham vọng và sự minh bạch trên thị trường Carbon quốc tế - được hình thành trong thời gian chuẩn bị cho COP25 với sự tham gia của EU, một số nước Mỹ Latinh, các vùng lãnh thổ và hải đảo nhỏ - có thể là bước khởi đầu phù hợp.
Việc đạt được tiến triển về khuôn khổ minh bạch liên quan đến hạch toán NDC là bước cần thiết để đánh giá tham vọng một cách hiệu quả. Khung thời gian chung cho việc báo cáo nhằm cải thiện sự minh bạch và xây dựng tinh thần hợp tác là kết quả quan trọng cần đạt được tại COP26. Sự thu gọn các lựa chọn hạch toán sẽ đem lại tiến triển trong lĩnh vực này.

Kết luận và khuyến nghị
Để đạt được các kết quả tích cực tại COP26, cần phải có những tiến triển đáng kể trong việc nâng cao tham vọng về các NDC, tăng cường hỗ trợ các nước dễ bị tổn thương vì biến đổi khí hậu và hoàn thiện Bộ quy tắc Paris.
Trong thập kỷ qua, biến đổi khí hậu từ chỗ chỉ là một vấn đề thứ yếu đã trở thành vấn đề chính trị cần ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, những nỗ lực hiện tại nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng này vẫn đang bị chệch hướng một cách nguy hiểm. COP26 là cơ hội lịch sử để thúc đẩy hành động quốc tế nhằm đối phó với biến đổi khí hậu. Đóng góp và sự ủng hộ của các bên đối với Hiệp định Paris là như nhau. COP26 cần mang lại kết quả tích cực trong ba lĩnh vực sau:
Nâng cao tham vọng về các NDC
Câu hỏi quan trọng tại COP26 là liệu các mục tiêu mới cho giai đoạn từ nay đến năm 2030 có đủ tham vọng để đảm bảo lộ trình duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới ngưỡng 1,5°C hay không. Sự sụt giảm giá nhiên liệu và công nghệ tái tạo, như điện mặt trời và điện gió, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình loại bỏ carbon cũng như giảm thiểu đến mức tối đa chi phí sản xuất năng lượng. Điều này sẽ khuyến khích các nước phát thải nhiều, đặc biệt là các nước G20 như Trung Quốc, tiếp tục giảm lượng phát thải. Nếu các nước không nâng cao tham vọng về NDC trước thềm COP26, thì vào đầu những năm 2020, họ cần đưa ra một chiến lược nhằm hướng thế giới đi theo đúng lộ trình duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới ngưỡng 1,5°C. Chiến lược này nên bao gồm việc đánh giá lại các NDC chưa đủ tham vọng trước thời hạn được quy định tại Hiệp định Paris (vào năm 2023 thay vì năm 2025) và đẩy nhanh quá trình loại bỏ carbon thông qua các sáng kiến theo từng lĩnh vực. Mặc dù chính phủ các nước là các bên chính thức tham gia UNFCCC, nhưng các chính quyền địa phương và các chủ thể phi nhà nước khác - chẳng hạn như các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân và xã hội dân sự - đều đóng vai trò quan trọng việc thực hiện các mục tiêu giảm thiểu, cũng như các hoạt động và công nghệ tham vọng hơn nhằm giảm thiểu carbon.
Tăng cường hỗ trợ và xoa dịu quan ngại của các nước đang phát triển dễ bị tổn thương vì biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những tác động nghiêm trọng. Tất cả các nước đều bị ảnh hưởng, nhưng những nước phát thải ít nhất thường là những nước chịu tác động nặng nề nhất. Để hỗ trợ những nước ở tuyến đầu của cuộc khủng hoảng khí hậu và xây dựng lòng tin, cần phải nâng cao tham vọng và tăng cường hành động nhằm mở rộng nguồn tài chính, nâng cao khả năng thích ứng cũng như giảm thiểu tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra. COP26 cần được những kết quả tích cực, bao gồm nâng cao nhận thức về mục tiêu 100 tỷ USD, tăng cường đầu tư vào việc nâng cao khả năng thích ứng, đạt được tiến triển trong các cuộc đàm phán về mục tiêu tài chính sau năm 2025, xác định mục tiêu toàn cầu về khả năng thích ứng, tiếp tục vận hành Mạng lưới Santiago và thúc đẩy việc mở rộng chương trình nghị sự đề giải quyết những tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra.


Thúc đẩy Bộ quy tắc Paris
Bộ quy tắc Paris là cơ sở để thực hiện Hiệp định Paris và vạch ra các quy trình báo cáo chính, cơ chế minh bạch và công cụ kỹ thuật. Các tiêu chuẩn quan trọng đối với Bộ quy tắc tại COP26 bao gồm việc cải thiện quy trình đánh giá nguồn lực toàn cầu, giải quyết các bất đồng về Điều 6, tránh hạch toán hai lần, phân bổ SOP, thống nhất về sự minh bạch và các quy trình quản trị, cũng như thiết lập các khung thời gian chung. Sự nhất trí về các khung thời gian chung là yếu tố quan trọng để giám sát và đánh giá hiệu quả của các NDC.
Việc đạt được tiến triển đáng kể trong ba lĩnh vực trên có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe con người và duy trì sự tồn tại của Trái đất. Trong năm qua, chính phủ các nước đã có những bước đi quan trọng nhằm gia tăng hành động về khí hậu. Tuyên bố của Chủ tịch Tập Cận Bình về việc Trung Quốc sẽ đạt được mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2060 là một ví dụ điển hình. Việc EU và Mỹ điều chỉnh các NDC, cũng như việc Tổng thống Biden chủ trì hội nghị thượng đỉnh về khí hậu, đã tạo thêm động lực thúc đẩy hành động phối hợp của cộng đồng quốc tế. Các hội nghị quốc tế khác - như hội nghị của nhóm G7 và G20 - đã mang lại những kết quả tích cực, cho dù những kết quả này đôi khi chưa đủ. Tuy nhiên, việc tăng cường hành động trước và trong thời gian diễn ra COP26 là điều hết sức cần thiết.
Cho dù chưa có nhiều hành động thỏa đáng trước thềm COP26, thì các nước cũng không nên chìm vào tâm trạng thất vọng. Thay vào đó, các chính phủ, công ty, tổ chức phi chính phủ và những nhân vật có tư tưởng cấp tiến cần gia tăng áp lực đối với những đối tượng không chịu hành động. Như báo cáo gần đây nhất của IPCC đã nhấn mạnh, vẫn chưa muộn để đạt được mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới ngưỡng 1,5°C. Tuy nhiên, các nước cần gấp rút phải hành động nhiều nhất có thể.
Mặc dù không phải mọi vấn đề đều đạt được sự thống nhất dưới sự dẫn dắt của Anh và Italy, nhưng việc bàn giao chức vụ chủ tịch COP cho một quốc gia châu Phi có lộ trình rõ ràng để đảm bảo được mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới ngưỡng 1,5°C và hỗ trợ được các nước dễ bị tổn thương vì biến đổi khí hậu có ý nghĩa quan trọng trong việc đối phó với các tác động của biến đổi khí hậu.
Kỳ vọng lớn nhất trong việc giải quyết hiệu quả các mối đe dọa từ biến đổi khí hậu là COP26 có thể đạt được một kết quả đầy tham vọng nhằm duy trì động lực và biến động lực đó thành những hành động cụ thể cấp quốc gia. Việc hạn chế lượng phát thải CO2, do tác động của đại dịch đối với các nền kinh tế và xã hội, là kết quả ít được kỳ vọng hơn và lượng khí thải đã vượt quá mức trước năm 2020. Điều này nhắc nhở rằng việc phong tỏa các nguồn phát thải là không đủ. Về cơ bản, điều cần thiết là phải tiến hành chuyển đổi một cách nhanh chóng và công bằng từ các hệ thống kinh tế dựa trên carbon sang các xã hội trung hòa carbon./.


HẾT

 

Theo TTXVN

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết