Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Củng cố bộ máy tinh gọn, vững mạnh và phù hợp thực tiễn ở Lào

Ngày phát hành: 15/08/2019 Lượt xem 1876


 I. Tầm quan trọng trong cải cách bộ máy Nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh và phù hợp với thực tiễn đất nước

1. Thành lập bộ máy nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Sau khi đất nước được giải phóng hoàn toàn, Nhà nước CHDCND Lào được thành lập vào ngày 2 tháng 12 năm 1975, lúc đó đất nước chưa phát triển, nền kinh tế - xã hội phát triển với mức độ thấp, nhưng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào với tinh thần kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, lãnh đạo xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bộ máy nhà nước CHDCND Lào được thành lập cùng với việc thành lập nước CHDCND Lào, gồm có bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong toàn quốc.

- Ở Trung ương: gồm có Hội đồng nhân dân tối cao (cơ quan lập pháp); có Chủ tịch nước làm Nguyên thủ quốc gia; Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ hoặc cơ quan hành pháp); Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân (cơ quan tư pháp) chưa được thành lập đúng theo chức năng, nhiệm vụ như các cơ quan nêu trên, bước đầu chỉ là một bộ phận (cục) nằm trong cơ quan hành pháp các cấp (cấp Trung ương có Vụ thẩm phán và Viện kiểm sát trực thuộc Bộ Tư pháp, là bộ máy của Chính phủ).

- Ở địa phương: gồm có Hội đồng nhân dân, là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân ở địa phương và có Ủy ban nhân dân, là cơ quan hành chính địa phương. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được thành lập theo đơn vị hành chính địa phương gồm: tỉnh, huyện và xã. Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan trực thuộc Sở Tư pháp cấp tỉnh.

- Về pháp lý: có cơ sở pháp lý làm căn cứ cho việc tổ chức và họat động của các cơ quan nhà nước. Nhà nước đã ban hành Luật Hội đồng nhân dân tối cao của CHDCND Lào (1976); Luật về Hội đồng Bộ trưởng (1978); Luật tổ chức Hội đồng nhân dân tối cao và Ủy ban nhân dân các cấp (1978); Chỉ thị (văn bản dưới luật) của Thủ tướng Chính phủ số 53/CP ngày 15 tháng 10 năm 1976 về việc bắt giam, điều tra và kết án những người vi phạm pháp luật, nhất là những kẻ phản bội đất nước.

Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở cấp Trung uơng và địa phương là phù hợp với nhiệm vụ chính trị của Đảng và đặc điểm của đất nước thời kỳ mới được giải phóng. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn quốc nhằm bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, vừa hàn gắn vết thương chiến tranh và cải thiện đời sống nhân dân các dân tộc. Nói cách khác, Trung ương thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ đất nước.

2. Nguyên tắc tập trung trong việc tổ chức, thực hiện của bộ máy nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Bản chất quyền lực nhà nước trong chế độ dân chủ nhân dân là quyền lực của dân, do dân và vì dân. Bắt đầu từ rất sớm trong việc thành lập bộ máy Nhà nước, Đảng nhân dân Cách mạng Lào đã kiên định các nguyên tắc sau:

- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước các cấp. Đây là nguyên tắc quyết định đến sự ổn định, bền vững của bộ máy nhà nước, đảm bảo sự hoạt động của bộ máy nhà nước đi đúng hướng, hiệu quả, bảo đảm bản chất của nhà nước chế độ dân chủ nhân dân;

- Nguyên tắc đảm bảo mọi quyền lực của dân, do dân và vì dân. Mọi hoạt động của bộ máy nhà nước phải phục vụ nhân dân, tạo cho người dân có cuộc sống ấm no, lấy nhân dân là gốc, là lực lượng của quốc gia, phát huy tính tự chủ, dân chủ trong quá trình quản lý nhà nước.

- Nguyên tắc bảo đảm tập trung dân chủ. Trong hoạt động của bộ máy nhà nước phải đảm bảo sự đoàn kết thống nhất về tư tưởng và hành động của đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước các cấp, phối hợp với việc phát huy sự sáng tạo của cán bộ ở các cơ quan nhà nước.

- Nguyên tắc đảm bảo tính pháp lý (tôn trọng và thi hành pháp lý). Trong hoạt động của bộ máy nhà nước, mọi tổ chức và cán bộ, công chức phải tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm pháp luật, văn bản dưới luật trong mọi hoàn cảnh.

Các nguyên tắc trên được thể hiện rõ trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước và sau đó các nguyên tắc này đã được quy định trong Hiến pháp đầu tiên năm 1991 của CHDCND Lào.

3. Quan điểm của Đảng về cải cách bộ máy nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Quan điểm của Đảng về sự hình thành và cải cách bộ máy nhà nước dân chủ nhân dân được thể hiện từ Đại hội II của Đảng (1972). Đảng đã xác định đường lối, chủ trương và nhiệm vụ cải cách và tăng cường quyền lực chính quyền dân chủ nhân dân. Sau đó, kể từ Đại hội IV (1986), Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện có nguyên tắc của Đảng. Đảng đã xác định quan điểm cơ bản có hệ thống toàn diện về việc hoàn thiện bộ máy nhà nước các cấp để đảm bảo cho quá trình cải cách phù hợp với nhiệm vụ chính trị của Đảng và điều kiện thực tế của đất nước trong việc tiến hành sự nghiệp đổi mới. Những quan điểm cơ bản của Đảng trong việc hoàn thiện bộ máy nhà nước được thể hiện như sau:

- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của bộ máy nhà nước các cấp.

- Thực hiện sự phân cấp, phân công, giao trách nhiệm giữa cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, đồng thời thực hiện chế độ kiêm nhiệm (cả về tổ chức và nhân sự);

- Tuyển dụng và sắp xếp cán bộ, những người có đủ đạo đức cách mạng, trung thành với sự nghiệp cách mạng, có năng lực vào giữ trách nhiệm trong bộ máy nhà nước;

- Xác định rõ chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan, ngành và các tổ chức của nhà nước các cấp.

- Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, giải quyết tốt mối quan hệ trong nội bộ, phân cấp, phối hợp và hoạt động thông suốt có hiệu quả.

- Các tổ chức nhà nước phải có cơ cấu hợp lý, không chồng chéo, có hệ thống thứ bậc khoa học tạo cho bộ máy hoạt động thuận lợi, thông suốt và nhuần nhuyễn.

- Phải có cơ sở vật chất và phương tiện cần thiết để đảm bảo cho việc cải cách và hoạt động của bộ máy nhà nước.

- Phải bố trí cán bộ, công chức có đủ tiêu chuẩn vào đảm nhiệm các chức danh và công việc cụ thể.

II. Thực trạng cải cách bộ máy nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

1. Quá trình cải cách bộ máy nhà nước

Tổ chức bộ máy nhà nước CHDCND Lào trong thời gian qua được cải thiện phù hợp với nhiệm vụ chính trị của Đảng, thể hiện rõ trong các kỳ đại hội của Đảng và thực tế hoạt động trong từng giai đoạn.

- Giai đoạn từ 1975-1986, bộ máy nhà nước được thành lập và hoàn thiện theo định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội theo Nghị quyết Đại hội II, III của  Đảng. Đảng đã tập trung cải cách bộ máy nhà nước các cấp để tạo sức mạnh cho việc bảo vệ thành quả cách mạng và phát triển kinh tế - xã hội theo cơ chế tập trung quan liêu, làm cho bộ máy nhà nước, nhất là các cơ quan hành pháp các cấp trở nên cồng kềnh, với nhiều đầu mối, gồm có 4 cấp: Cấp Trung ương; cấp tỉnh; cấp huyện và xã. Các cấp chính quyền đã thành lập Ủy ban nhân dân gồm: Hội đồng Bộ trưởng, Ủy ban hành chính cấp tỉnh, thủ đô, Ủy ban hành chính cấp huyện và Ủy ban hành chính cấp xã. Đồng thời ở các cấp hành chính đều tổ chức Hội đồng nhân dân 4 cấp (cấp Trung ương có Hội đồng nhân dân tối cao; cấp địa phương có Hội đồng nhân dân tỉnh, thủ đô, huyện và xã).

- Giai đoạn từ 1986-1991: Tiến hành cải cách bộ máy hành chính các cấp theo Nghị quyết Đại hội IV của Đảng phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện có nguyên tắc của Đảng, nhất là đổi mới về kinh tế, chuyển đổi từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường; tiến hành hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, phù hợp và hiệu quả.

- Kể từ năm 1991 đến nay, bộ máy nhà nước các cấp đã được hoàn thiện theo đúng đường lối đổi mới toàn diện có nguyên tắc của Đảng thể hiện qua các kỳ đại hội V, VI, VII, VIII, IX và X, làm cho bộ máy nhà nước “tinh gọn, phù hợp và hiệu quả”, “từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền”; “bộ máy nhà nước vững mạnh, có đủ khả năng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình”; “bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch và vững mạnh”.

 

2. Thành tựu và vấn đề đặt ra trong họat động của bộ máy nhà nước

2.1. Thành tựu

Bản Hiến pháp đầu tiên của CHDCND Lào  được ban hành vào năm 1991. Hiến pháp đã quy định rõ về chế độ chính trị, kinh tế - xã hội và hệ thống bộ máy nhà nước CHDCND Lào. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan quyền lực Nhà nước bao gồm: Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan hành chính địa phương. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên  xác định rõ về hành chính của CHDCND Lào. Đồng thời đến nay, Nhà nước đã ban hành được hơn 130 văn bản luật và hàng ngàn văn bản dưới luật làm công cụ quản lý trong tổ chức, hoạt động và hoàn thiện bộ máy nhà nước các cấp cho phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và văn bản dưới luật.

Hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được đảm bảo và phát huy bằng Hiến pháp và pháp luật, quyền tự chủ, dân chủ của nhân dân được đảm bảo và phát huy theo pháp luật.

Đổi mới hoạt động của Nhà nước CHDCDN Lào theo hướng tiếp tục xây dựng và phát huy chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.

Hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước các cấp từng bước được cải thiện, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của Đảng và tình hình thực tế của đất nước với việc sắp xếp và bố trí lại cơ cấu, nhân sự, lề lối làm việc, cơ chế phối hợp theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, nhanh chóng, có hiệu quả. 

- Cơ quan lập pháp có sự thay đổi về tên gọi từ Hội đồng nhân dân tối cao thành Quốc hội trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa III (1992), là cơ quan đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân các bộ tộc. Từ Quốc hội khóa III (1992) đến Quốc hội khóa VII (2015), Nước CHDCND Lào chỉ có một cấp Quốc hội, ở địa phương chưa có hội đồng nhân dân, chỉ có đại biểu Quốc hội hoạt động ở các đơn vị lãnh thổ bầu cử. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện và xã được thành lập trước đây bị giải tán. Đến Quốc hội khóa VIII (2016), Hội đồng nhân dân cấp tỉnh một lần nữa đã được thành lập, do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là để tạo sự cân đối về quyền lực của Trung ương và địa phương, giao cho Hội đồng nhân dân - cơ quan đại diện của nhân dân, do nhân dân bầu trực tiếp được gần gũi với nhân dân; tạo cho bộ máy quyền lực nhà nước ở địa phương phù hợp với quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Hội đồng nhân dân tỉnh được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2015.

- Cơ quan hành pháp có sự thay đổi về tên gọi từ Hội đồng Bộ trưởng thành Chính phủ (sau khi ban hành Hiến pháp năm 1991), trở thành cơ quan hành pháp và thống nhất toàn quốc.

- Bộ máy tham mưu của cơ quan lập pháp và tư pháp đã được cải thiện và lớn mạnh về tổ chức, nhân sự, lề lối làm việc, ngân sách, cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Nhất là trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp, bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, chuyên môn, kinh nghiệm vào các chức danh quan trọng để đảm bảo tốt việc hoạt động đối nội và đối ngoại của hai cơ quan nhà nước nêu trên.

- Bộ máy hành chính địa phương: Hiến pháp CHDCND Lào (1991) xác định đơn vị hành chính địa phương có 3 cấp: tỉnh, huyện và bản. Đơn vị hành chính địa phương được cải thiện bằng cách xóa bỏ Ủy ban hành chính nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban hành chính cấp huyện và Ủy ban hành chính cấp xã, chuyển sang chế độ thủ trưởng: tỉnh trưởng, huyện trưởng và trưởng bản cho phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, tạo sự nhanh chóng và kịp thời cho việc quản lý nhà nước.

Tại sao Đảng xóa bỏ Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện, xã và xóa bỏ Ủy ban hành chính cấp tỉnh, huyện và xã. Thực tế đã cho thấy nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là để giảm bớt bộ máy cồng kềnh, nhiều khâu trung gian, chồng chéo, triển khai công việc chậm chạp, hoạt động không hiệu quả và tốn kém về kinh phí.

- Cải thiện mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương theo nguyên tắc quản lý theo ngành dọc có sự phối hợp với ngành ngang, phân cấp quản lý bằng cách đề ra nghị quyết của Bộ Chính trị (1993), pháp luật, chỉ thị… để xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm, đảm bảo cho quyền lực nhà nước các cấp được phát huy hiệu lực và hiệu quả.

- Cơ quan tư pháp bao gồm Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, có hệ thống tổ chức bộ máy từ Trung ương đến cấp huyện và ở các cơ quan trong lực lượng vũ trang cũng được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Cải cách tổ chức và nhân sự các cấp trong hệ thống tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân cấp Trung ương, cấp miền, cấp tỉnh và cấp khu vực nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và phù hợp với thực tế về địa lý, đơn vị lãnh thổ, công dân và sự cần thiết. Viện kiểm sát nhân dân có sự thay đổi về tên gọi từ Tiểu ban Viện kiểm sát thành Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001). Tất cả sự thay đổi trên là để đảm bảo trong việc xét xử vụ án cho nhân dân, nhanh chóng, trong sạch, công bằng, tạo sự tin tưởng và sự tôn trọng đối với người dân.

- Quá trình cải cách và hoàn thiện bộ máy nhà nước các cấp nêu trên là nhằm mục đích tạo sự ổn định, bền vững về cơ cấu, nhân sự, lề lối làm việc đúng đắn, hợp lý cho bộ máy nhà nước được hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất trên nguyên tắc tập trung dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật có hiệu quả.

2.2. Vấn đề đặt ra trong cải cách bộ máy nhà nước

Đi đôi với thành tựu đạt được nêu trên, trong cải cách bộ máy nhà nước còn một số bất cập như:

- Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, ba cơ quan quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp và tư pháp, cơ bản phù hợp với một nước nhỏ, kém phát triển, dân số ít. Tuy nhiên, trong cải cách bộ máy nhà nước vẫn chưa nghiên cứu sâu về thiết kế cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng và thực tiễn của đất nước, chưa có giải đáp khoa học trong vấn đề này.

Quốc hội khóa VIII, tổ chức bộ máy được thiết lập một cách có hệ thống (có 7 ủy ban, ban thư ký, các cơ quan tham mưu giúp việc). Có một số ủy ban như: Ủy ban pháp luật, Ủy ban văn hóa - xã hội chưa có sự cân đối giữa tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn (tổ chức nhỏ, chức năng lớn, rộng), cần phải cải cách lại trong nhiệm kỳ Quốc hội tới, có thể thành lập thêm ủy ban hoặc sáp nhập.

Ở địa phương, hội đồng nhân dân tỉnh (không phải là ngành dọc của Quốc hội), không có hội đồng cấp huyện và bản; mô hình như thế nào đã phù hợp chưa trong điều kiện hiện nay, trong trước mắt và lâu dài.

Chính phủ có kết cấu tổ chức bộ máy có hệ thống (gồm 18 bộ, 3 cơ quan ngang bộ), số lượng của tổ chức bộ máy như thế này đã phù hợp chưa, nên có thể cải cách, tách, nhập như thế nào, nhất là cấp bộ, bộ máy tham mưu giúp việc có chức năng gần nhau, giống nhau, chồng chéo.

Ở địa phương, bộ máy hành chính nhà nước được thành lập theo cơ quan hành chính Trung ương đến cấp huyện, tuy nhiên nhìn chung bộ máy tham mưu giúp việc ở cấp huyện họat động chưa có chất lượng đúng theo chức năng, quyền và nghĩa vụ của mình, có nên thành lập bộ máy kiểu bắt chước như vậy không ở cấp huyện.

Cơ quan hành chính cấp bản, bản là một đơn vị hành chính cấp địa phương, tuy nhiên nhân sự đảm bảo trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ chính trị trong hệ thống chính trị cấp cơ sở lại không phải là công chức của nhà nước, không có lương, chỉ có trợ cấp ít ỏi. Đơn vị hành chính cấp tỉnh nhiều nơi, nhất là ở nông thôn không thể hoạt động được, nên cần cải cách như thế nào cho phù hợp.

- Về pháp lý: đã có Hiến pháp và pháp luật, có nghị định quy định rõ về tổ chức và họat động của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp, tuy nhiên việc xác định vị trí, chức năng, sự phân cấp, phân công và việc thực hiện theo quyền hạn của mình, vẫn tồn tại một số bất cập, chưa thực hiện đầy đủ, xác định chưa rõ ràng, chưa phối hợp nhuần nhuyễn và thống nhất, có sự chồng chéo và đẩy trách nhiệm, nhất là cơ quan hành chính các cấp, cơ quan hành chính chưa chuyển đổi theo hướng gọn nhẹ, phù hợp và hiệu quả.

Việc ban hành và sửa đổi bổ sung pháp luật có sự tiến bộ, tuy nhiên một số văn bản pháp luật có sự vội vàng trong ban hành, chưa xem xét kỹ giữa việc xây dựng pháp luật với văn bản dưới luật, cho nên một số pháp luật đã ban hành chưa thật sự đảm bảo tính đầy đủ, chặt chẽ, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến tình trạng sửa đổi, bổ sung sớm. Việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, giải quyết các vấn đề tiêu cực chưa có hiệu lực, thực hiện chưa nghiêm và kịp thời.

- Về phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, nhất là về cung cấp ngân sách, quản lý dự án đầu tư, việc bố trí, phân chia lợi ích chưa phù hợp, vẫn còn hiện tượng tập trung quyền lực ở Trung ương, làm cho cơ quan hành chính địa phương, nhất là cấp huyện - xây dựng thành đơn vị vững mạnh toàn diện gặp nhiều khó khăn. Việc quản lý theo ngành dọc và sự phối hợp quản lý theo ngành ngang ở địa phương chưa thống nhất và thông suốt.

- Về cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy nhà nước các cấp nhiều về số lượng nhưng chất lượng chưa đảm bảo, phong cách làm việc chậm chạp, chưa toàn tâm toàn ý vào công việc chung, cán bộ có tình trạng quan liêu, nhận hối lộ, tham nhũng. Đồng thời việc quản lý, sử dụng, chính sách đối với cán bộ, nhất là về chế độ tiền lương, trợ cấp của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ còn hạn chế, chưa phù hợp.

- Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tổ chức bộ máy nhà nước chưa sâu sát, đôi khi buông lỏng hoặc xảy ra tình trạng chồng chéo về thực hiện quyền lực nhà nước trong quá trình quản lý nhà nước và quản lý xã hội.

Những vấn đề nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân là do đội ngũ cán bộ chưa nhận thức đúng và nắm vững chức năng trong thực hiện quyền lực nhà nước ở các cấp, chưa tự chủ phấn đấu, trải nghiệm, rèn luyện bản thân và đồng thời hạn chế về ngân sách, phương tiện, cơ sở vật chất trong quá trình thực hiện chính sách.

2.3. Một số kinh nghiệm rút ra trong cải cách bộ máy nhà nước

Qua quá trình cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

- Quán triệt, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng nói chung, trong đó phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc về quan điểm của Đảng, phương châm, nguyên tắc và nội dung trong việc cải cách bộ máy nhà nước. Đây là vấn đề cơ bản trong tiến hành cải cách bộ máy nhà nước các cấp đi đúng hướng theo mục tiêu của Đảng đặt ra.

- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường công tác kiểm tra giám sát, hướng dẫn, xúc tiến và giúp giải quyết vấn đề một cách sâu sắc, kịp thời. Đây được coi là yếu tố quyết định trong cải cách bộ máy nhà nước các cấp.

- Xây dựng và sửa đổi bổ sung pháp luật, các văn bản dưới luật liên quan đến việc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trong điều kiện cần thiết, đảm bảo cho bộ máy nhà nước được tổ chức, hoạt động đúng theo chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ một cách an toàn và ổn định.

- Tuyển dụng và bố trí cán bộ, công chức, lựa chọn những người có đủ phẩm chất đạo đức, trung thành với sự nghiệp đổi mới, người có đủ năng lực vào đảm bảo các chức danh trong bộ máy nhà nước. Đây là yếu tố đảm bảo cho quá trình cải cách bộ máy nhà nước đi đúng theo hướng gọn nhẹ, trong sạch, vững mạnh, hiệu quả và đáp ứng với yêu cầu phát triển đất nước.

- Cung cấp ngân sách, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết, chính sách xúc tiến cho công tác cải cách bộ máy nhà nước, nhất là cấp địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ máy nhà nước được hoạt động trôi chảy và hiệu quả.

III. Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, trong schj, vững mạnh và phù hợp với thực tiễn đất nước

Nghị quyết Đại hội Đảng đã đề ra phương hướng chung và yêu cầu phát triển đất nước, theo đuổi mục tiêu trước mắt và lâu dài. Trong đó, “tạo sự ổn định cho Nhà nước dân chủ nhân dân quản lý nhà nước bằng pháp luật”, “tăng cường pháp lý trong nền hành chính và tăng hiệu quả trong quản lý nhà nước…”, “trên cơ sở kiên định nguyên tắc: Đảng lãnh đạo và nắm quyền lực theo pháp luật, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, nhân dân tự chủ, công bằng trước pháp luật…”. Cải cách bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh và phù hợp với thực tiễn là để đáp ứng cho phương hướng chung và yêu cầu trong việc tạo sự ổn định cho nhà nước dân chủ nhân dân. Cải cách bộ máy nhà nước Trung ương và địa phương cần tập trung một số vấn đề sau:

1. Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu bộ máy quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp và bộ máy hành chính địa phương cho phù hợp với Hiến pháp (sửa đổi bổ sung 2015), trên nền tảng kiên trì phương châm, nguyên tắc và nội dung cải cách bộ máy nhà nước do Đảng xác định.

2. Về tổ chức, các cơ quan nhà nước cần thiết lập cơ cấu phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, không phình to, không cồng kềnh, chồng chéo, bộ máy phải gọn nhẹ, hợp lý và hiệu quả. Tránh tình trạng phình to, biên chế nhiều, hiệu quả thấp như thời gian qua. Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh nên hoàn chỉnh, cải cách bộ máy toàn diện và nâng cao trình độ, sửa đổi bổ sung các văn bản pháp lý cho phù hợp, cải cách cơ chế phối hợp nội bộ và phối hợp bên ngoài cho thông suốt, để có thể thực hiện có hiệu quả chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan theo pháp định quy định. Chính phủ và cơ quan hành chính địa phương nên cải cách bộ máy quản lý nhà nước các cấp theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; cải cách thể chế hành chính nhà nước cho phù hợp, đào tạo bồi dưỡng và bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ cho tương xứng với chức danh và trách nhiệm của từng bộ phận. Toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân các cấp nên tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy toàn diện, tạo được sức mạnh, quan tâm đến sự phát triển đội ngũ cán bộ cả hai cơ quan về số lượng và chất lượng, tăng cường giáo dục phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, chuyên môn, lý luận chính trị - hành chính, có khả năng xét xử các vụ án nhanh chóng, trong sạch, đúng đắn và công bằng trong xã hội.

3. Về thể chế, tiếp tục xây dựng, sửa đổi bổ sung văn bản pháp luật và văn bản dưới luật liên quan đến tổ chức và họat động của bộ máy nhà nước, xác định cụ thể, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và cơ chế phối hợp trên nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự lãnh đạo của Đảng. Cải cách phân cấp rõ ràng hơn về bộ máy và nhân sự ở Trung ương và địa phương; Trung ương có thể chịu trách nhiệm về việc xác định các tiêu chí, chính sách, thể chế chung và kiểm tra giám sát trong việc tổ chức thực hiện, còn địa phương tự chủ trong việc cải cách bộ máy và sắp xếp công chức dựa trên tiêu chí, thể chế của Trung ương đề ra. Các bộ, cơ quan ngang bộ, khi tiến hành phân công, chuyển giao cán bộ và ngân sách cho địa phương phải làm cho tổ chức bộ máy, biên chế và ngân sách giảm xuống; các bộ và các ngành Trung ương phải nâng cao năng lực cán bộ ở địa phương có đủ khả năng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ và trách nhiệm được giao theo sự phân cấp quản lý.

4. Về nhân sự, tiếp tục xác định tiêu chuẩn cán bộ, xác định số lượng và chức danh cụ thể, phù hợp với công việc trong thực tế, làm cho bộ máy nhà nước và công chức có sự cân đối trong công việc, không để xảy ra tình trạng cán bộ vừa thiếu vừa thừa (cán bộ nhiều hơn công việc), phải dứt khoát trong việc loại trừ cán bộ không đủ tiêu chuẩn, không đủ trách nhiệm, không tận tụy với công việc, hoạt động vì lợi ích cá nhân (hối lộ, quan liêu, tham nhũng…), vi phạm pháp luật ra khỏi tổ chức và thực hiện nghiêm theo pháp luật. Trong công tác đào tạo cán bộ phải tập trung đào tạo cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có năng lực, có lối sống trung thực, trung thành với nghề, có tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân; xây dựng cán bộ kế thừa trong các chức danh, đảm bảo về giới tính, dân tộc, cơ cấu cán bộ đủ 3 loại và trẻ hóa. Tiến hành quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý, đảm bảo tiêu chuẩn chức danh; đào tạo cán bộ chuyên môn, cán bộ kỹ thuật, tập trung rèn luyện, tập huấn, nghiên cứu chuyên sâu để trở thành chuyên gia, có kinh nghiệm. Tiếp tục thực hiện chính sách cán bộ cho phù hợp. Các cấp ủy đảng phải tiến hành kiểm tra, thu thập thông tin, danh sách cán bộ lão thành cách mạng, người có công đối với Tổ quốc; tiếp tục thực hiện chính sách phát huy hiệu quả của cán bộ về hưu; cải cách cơ chế chính sách đối với cán bộ lãnh đạo quản lý cho phù hợp. Cải cách tiền lương cán bộ theo chức danh đảm nhiệm công việc cụ thể; từng bước đưa các khoản trợ cấp khác vào trong hệ thống lương.

Tóm lại, qua thực tế cho thấy, việc tiến hành cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước gọn nhẹ, trong sạch, vững mạnh và phù hợp với thực tiễn đất nước là vấn đề cấp bách. Nếu thực hiện tốt công việc này sẽ góp phần triển khai các nghị quyết của Đảng có hiệu quả. Ngược lại, nếu coi nhẹ hoặc buông lỏng sẽ tác động đến bộ máy nhà nước hoạt động yếu kém, gây hại cho đất nước./.

 

 TS. Ùn-kẹo Vụt-thị-lạt,

Ủy viên Hội đồng Khoa học Xã hội Quốc gia Lào

 

 

 


 

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết