Cuối tháng 6-2019, Hội đồng Lý luận Trung ương phối hợp Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học “Quản lý phát triển xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”.
Có 12 tham luận của các nhà khoa học gửi tới tham gia Hội thảo, phân theo 2 nhóm chủ đề như sau:
- Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế
Có bài của các tác giả: GS.TS Phạm Quang Minh, PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh (Hướng tới một mô hình quản lý phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam); PGS.TS Phạm Ngọc Thanh (Cơ sở lý luận về quản lý phát triển xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay); PGS.TS Đinh Xuân Lý (Vai trò của Đảng và Nhà nước đối với quản lý phát triển xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế); PGS.TS Nguyễn Duy Dũng (Phát triển và quản lý phát triển xã hội: Kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á và gợi ý bài học cho Việt Nam); Bành Thế Đoàn (Tìm hiểu phát triển và lý trị trong xã hội Trung Quốc); GS.TS Đặng Cảnh Khanh (Vai trò của cộng đồng xã hội đối với quản lý phát triển xã hội - Những bài học từ truyền thống).
- Thực trạng và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam
Có bài của các tác giả: GS.TS Hoàng Bá Thịnh (Một số nhân tố tác động đến quá trình quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam: Cơ hội, thách thức và những "nan đề" ); GS.TS Phạm Tất Dong (Đổi mới quản lý phát triển đối với an sinh xã hội, an ninh con người); PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh, GS.TS Phạm Quang Minh (Quản lý phát triển xã hội và an ninh con người trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế); Caitlin Wiesen (PAPI: Xu thế biến đổi trong kỳ vọng của người dân 10 năm qua và hàm ý chính sách cho 10 năm tới); PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà, ThS Nguyễn Văn Thục (Quản lý phát triển xã hội về bất bình đẳng, phân tầng xã hội ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế); GS.TS Nguyễn Hữu Khiển (Tác động của biến đổi khí hậu và chiến lược quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay).
Tại Hội thảo, sau báo cáo đề dẫn của GS.TS Phạm Quang Minh, đã có 15 đại biểu trình bày và trao đổi những vấn đề đặt ra từ Hội thảo. Có thể khái quát kết quả thu được từ hội thảo như sau:
1. Nhận thức về vấn đề quản lý phát triển xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Mặc dù còn có các cách tiếp cận khác nhau, nhưng các ý kiến đều thống nhất cho rằng, quản lý phát triển xã hội là việc sử dụng các công cụ, giải pháp về chính sách để thúc đẩy, điều tiết, xử lý các vấn đề của xã hội, để đảm bảo các mục tiêu của quá trình phát triển xã hội. Quản lý sự phát triển xã hội tổng thể, bao gồm quản lý phát triển kinh tế, quản lý phát triển hệ thống chính trị, quản lý phát triển văn hóa, quản lý phát triển xã hội theo nghĩa hẹp, quản lý phát triển con người, quản lý nguồn lực vật chất nhân tạo, nhất là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Như vậy, nói đến quản lý phát triển xã hội tức là nói đến quá trình hoạt động, hành động của chủ thể quản lý, thông qua các chính sách và các phương tiện, công cụ quản lý, để đạt được mục tiêu đặt ra.
Quản lý phát triển xã hội không thuần túy chỉ là hoạt động một chiều từ chủ thể quản lý, mà còn là một quá trình tương tác liên tục giữa chủ thể với khách thể và các nhân tố tác động. Nói một cách tổng quát: Quản lý phát triển xã hội là sự tác động có chủ đích của hệ thống quản lý hay chủ thể quản lý (trực tiếp là Nhà nước, hoặc các tổ chức ngoài nhà nước) lên hệ thống bị quản lý hay khách thể quản lý (đời sống xã hội), bằng các nguồn lực trong xã hội và các công cụ, phương thức tác động đa dạng, nhằm hướng sự vận hành và phát triển của đời sống xã hội theo các mục tiêu đặt ra.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vấn đề quản lý phát triển xã hội có vai trò rất quan trọng bởi vì, quản lý phát triển xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không đơn thuần là vấn đề về phát triển mô hình kinh tế phù hợp, mà còn là vấn đề đảm bảo sự hài hòa trong thực hiện các chính sách tiến bộ, công bằng xã hội để cùng hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quản lý phát triển xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự chủ động, tích cực về hội nhập quốc tế, cũng như sự tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường. Trên cơ sở đó, hoạt động quản lý phát triển xã hội vận dụng, phát huy các mặt tích cực và giảm thiểu, hạn chế các mặt tiêu cực từ cơ chế thị trường. Quá trình này, nói cách khác vừa là quá trình phát triển kinh tế cũng vừa là quá trình xây dựng và phát triển xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Sự cần thiết phải đổi mới quản lý phát triển xã hội
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo để giải quyết các vấn đề xã hội... Việt Nam đã hoàn thành hầu hết và cơ bản các mục tiêu thiên niên kỷ. Đặc biệt, đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Quan tâm thực hiện chính sách chăm sóc người có công. Đã thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách đối với người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, giảm nghèo bền vững, chăm sóc sức khoẻ cho người dân đồng thời tạo điều kiện để người dân chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro trong đời sống, kinh tế, xã hội và môi trường. Đời sống và thu nhập của người dân không ngừng được nâng lên”. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng như trên, Đại hội XII của Đảng vẫn cho rằng: “…, quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm… Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; …;
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới cho thấy, bên cạnh mặt thành công thì thực tiễn quản lý phát triển xã hội cũng đặt ra những tình huống mới đòi hỏi phải đẩy mạnh thay đổi tư duy quản lý phát triển xã hội, nếu không sẽ dẫn đến những hệ luỵ khó lường. Có thể nêu ra một số đòi hỏi nổi bật sau:
Thứ nhất, phân cực giàu nghèo tiếp tục gia tăng, thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, giữa nhóm giàu với nhóm nghèo, nhất là nhóm giàu nhất với nhóm nghèo nhất, giữa các nhóm dân tộc (người Kinh, người Hoa so với các dân tộc thiểu số khác), giữa khu vực nông thôn với thành thị, giữa các vùng, miền, giữa các tỉnh, thành phố trong một vùng hoặc trên phạm vi toàn quốc. Thêm nữa, sau khi Việt Nam áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, tình trạng phân cực giàu nghèo được thể hiện trên nhiều chiều cạnh khác ngoài chiều cạnh kinh tế. Trên thực tế, công tác giảm nghèo cho đến nay nhà nước vẫn đảm nhiệm vai trò chính, từ nguồn lực đến quá trình tổ chức thực hiện. Trong khi đó, để lĩnh vực giảm nghèo hiệu quả hơn thì cơ chế phối hợp giữa nhà nước với các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân là thực sự cần thiết nhằm gia tăng nguồn lực phục vụ hoạt động giảm nghèo và đa dạng hóa những chiến lược giảm nghèo phù hợp từng bối cảnh cụ thể.
Thứ hai, liên quan đến đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động. Đây là một trong những vấn đề then chốt đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả quan trọng mà nhiều địa phương đạt được trong lĩnh vực đào tạo nghề thì việc đào tạo nghề cho người lao động cũng đặt ra nhiều vấn đề như đã đề cập đến ở trên. Nhiều lý do khác nhau liên quan đến việc đào tạo nghề chưa đáp ứng yêu cầu, trong đó có một nguyên nhân quan trọng là việc huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp, thị trường và tổ chức xã hội trong công tác đào tạo nghề chưa được đẩy mạnh.
Thứ ba, việc tham gia bảo hiểm tự nguyện ở nhiều địa phương rất hạn chế. Điều này có nhiều lý do dẫn đến việc người dân không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Thêm nữa, ở một số địa phương, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa trốn tránh việc đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Thực tế trên cho thấy, một trong những cơ chế quan trọng để gia tăng diện bao phủ bảo hiểm xã hội là xây dựng cơ chế phối hợp tốt hơn giữa nhà nước với các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội; và cần phát huy tốt hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân.
Thứ tư, đối với vấn đề bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở nhiều địa phương, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa trốn tránh việc đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Thứ năm, ở nhiều địa phương, bảo trợ xã hội được thực hiện tốt trên nhiều phương diện do biết dựa vào cơ chế khai thác sức mạnh của thị trường và phát huy vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. Đây là một kinh nghiệm tốt cần phát huy.
3. Kinh nghiệm quốc tế
Trên cơ sở phân tích sâu 3 kinh nghiệm của 4 quốc gia Indonesia, Malaysia, Philippin và Thái Lan: Kinh nghiệm xây dựng chiến lược, chính sách, thể chế và hệ thống phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; Kinh nghiệm thực hiện đồng bộ các chương trình biện pháp đảm bảo an sinh xã hội; Kinh nghiệm tổ chức điều hành, giám sát và thực hiện ở các cấp về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, tác giả đã đưa ra 3 gợi ý tham khảo cho Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới, đó là:
Thứ nhất, phát triển và quản lý phát triển xã hội phải luôn phải được xác định là một trong những chiến lược trọng yếu trong các kế hoạch phát triển dài hạn và trung hạn của đất nước.
Thứ hai, kết hợp có hiệu quả các chính sách, chương trình trong phát triển và quản lý phát triển xã hội trong chính lĩnh vực này và với các chương trình khác của chính phù địa phương.
Thứ ba, tăng cường công tác phân cấp phân quyền, kiểm tra, đánh giá nghiêm minh trong lĩnh vực quản lý và phát triển quản lý xã hội. Điều này không chỉ đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực mà còn chống các tiêu cực, trục lợi, tham nhũng trong lĩnh vực này. Phân quyền đi đối với giám sát ở tất cả các cấp với sự tham gia của của người dân sẽ là cách thức để huy động sự hỗ trợ của xã hội, quốc tế, đảm bảo hiệu quả và công bằng trong phát triển nói chung, lĩnh vực xã hội nói riêng.
Trong một nghiên cứu khác về vai trò của cộng đồng xã hội đối với quản lý phát triển xã hội, những bài học rút ra từ lịch sử, tác giả cho rằng, trong xu hướng chung của việc đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta hiện nay, sự đổi mới phương thức quản lý và điều hành xã hội đã được coi trọng đặc biệt. Vấn đề cải cách hành chính, tìm phương thức tốt nhất để tổ chức xã hội, tạo điều kiện cho mỗi người có khả năng, sức lực và tài sản của mình cho sự ổn định và phát triển đất nước được đặt ở vị trí trọng tâm của chiến lược xây dựng đất nước.
Tình hình thực tế trên đã làm xuất hiện ngày một rõ ràng hơn nhu cầu phải nghiên cứu, xem xét và đánh giá lại một cách khách quan những di sản văn hóa của cha ông nhằm phát huy vai trò của cộng đồng trong điều hành và quản lý xã hội theo những điều kiện mới như: Những bài học truyền thống trong việc đấu tranh chống cơ chế hành chính quan liêu, chấn chỉnh trật tự kỷ cương xã hội; những bài học trong việc kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý, giữa việc xử lý trên cơ sở tình nghĩa với những nguyên tắc chặt chẽ của các chuẩn mực và giá trị truyền thống;.. Trong trường hợp này, những kinh nghiệm trong việc tổ chức và điều hành xã hội truyền thống cần được xem là một trong những nhân tố “phi kinh tế” quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Phát huy sức mạnh của nhân tố này là hết sức cần thiết và quan trọng.
4. Về những đề xuất, kiến nghị
Hội thảo tập trung vào các nhóm chính như sau:
(1) Trên bình diện cơ chế, chúng ta cần chuyển từ cơ chế quản lý phát triển xã hội sang cơ chế quản trị xã hội nhằm giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, đảm bảo an sinh xã hội để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Với nhận thức, quản lý phát triển xã hội là quá trình chủ thể quản lý thực hiện các chương trình, chính sách để giải quyết các vấn đề xã hội một cách phù hợp, hiệu quả, hiệu lực, và có giá trị; từ đó thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, công bằng; quản trị xã hội là quá trình hợp tác của các chủ thể bao gồm chính phủ, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân để điều chỉnh và quản lý các vấn đề xã hội một cách phù hợp, hiệu quả, hiệu lực, và có giá trị để thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, công bằng.
Dưới góc nhìn quản lý phát triển xã hội và quản trị phát triển xã hội thì thực tiễn ở Việt Nam thời gian qua, chúng ta chủ yếu chỉ dừng lại ở quản lý phát triển xã hội chứ chưa rõ nét quản trị phát triển xã hội. Cụ thể là vai trò của Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể trong quản lý phát triển xã hội đã được thể hiện trên nhiều phương diện như: giải quyết bất bình đẳng, phân cực giàu nghèo, phân tầng xã hội, giải quyết mâu thuẫn xung đột xã hội, giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an ninh con người, an sinh xã hội... Tuy nhiên, hiệu quả của việc giải quyết các vấn đề xã hội cũng còn ở chừng mực nhất định do hợp tác giữa chính quyền, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân để điều chỉnh và quản lý các vấn đề xã hội một cách phù hợp, hiệu quả, hiệu lực để thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, công bằng vẫn còn những hạn chế. Để khắc phục tình trạng này, cần phải định hướng chuyển từ quản lý phát triển xã hội sang quản trị phát triển xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội một cách phù hợp, hiệu quả, hiệu lực, và có giá trị nhằm thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, công bằng.
(2) Những điểm cần chú trọng trong đổi mới thể chế chính trị ở Việt Nam nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội.
Một là, nâng cao trách nhiệm giải trình của thể chế tức là trách nhiệm và ứng xử của thể chế đối với nhu cầu của công dân. Điều này nhấn mạnh rằng cấu trúc các cơ quan nhà nước phải đủ linh hoạt để thiết kế và thực hiện có hiệu quả các chương trình, các dự án. Thêm nữa, trách nhiệm giải trình của thể chế còn thể hiện qua việc thiết lập hệ thống các tiêu chí để đo lường sự thi hành nhiệm vụ của các những người làm việc trong các cơ quan nhà nước và cơ chế để đảm bảo những tiêu chí đó được thực hiện. Ngoài ra, trách nhiệm giải trình của thể chế còn phản ánh cơ chế đánh giá sự thực thi nhiệm vụ của thiết chế.
Hai là, minh bạch. Minh bạch đề cập đến sự sẵn có thông tin dành cho công chúng và sự rõ ràng của các quy định, quyết định của các cơ quan nhà nước. Minh bạch giúp giảm bớt sự thiếu chắc chắn và tham nhũng của những người làm việc trong hệ thống các cơ quan nhà nước.
Ba là, sự nhất quán trong việc áp dụng chính sách, luật pháp. Điều này được phản ánh qua sự đầy đủ của luật, quy định, chính sách và sự công bằng cũng như nhất quán trong việc áp dụng các luật, quy định, chính sách. Những cơ sở này giúp mọi người biết được/dự đoán được những cách thức hành động, quyết định và kết quả, hệ quả của các hành động, quyết định của những người có thẩm quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước./.
Nguyễn Tiến (tổng thuật)