IV. Bài học và kinh nghiệm đối với Việt Nam
Qua phân tích các mô hình phát triển của một số nước Tây Bắc Âu ở trên, xin rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam như sau:
1. Nhận thức rõ về nền kinh tế thị trường định hướng trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng hơn
Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Từ thực tiễn mô hình phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) tại các nước Tây Bắc Âu, có thể thể nhận thức cụ thể hơn về nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế như gồm:
(i) Là nền kinh tế được “thị trường hóa” cao. “Thị trường hóa” không chỉ có nghĩa là cơ chế thị trường tỏ ra hiệu quả hơn so với các loại cơ chế kinh tế khác đã từng tồn tại, mà là một nền KTTT thực sự đầy đủ để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi cho mọi loại hình doanh nghiệp; tăng cường thuận lợi hóa, giảm thiểu ưu tiên, ưu đãi... để có môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng; phát huy được tính hiệu quả của cơ chế thị trường, sự can thiệp của Nhà nước vào nền KTTT phải tuân theo nguyên tắc thị trường, tôn trọng quy luật thị trường.
Phương thức can thiệp của Nhà nước phải theo nguyên tắc phù hợp với cơ chế thị trường, Nhà nước điều tiết KTTT phải tôn trọng vai trò và chức năng của thị trường. Thị trường là một thực thể khách quan, vận động và phát triển theo những quy luật vốn có của nó, không phụ thuộc vào ý chí cá nhân và tổ chức xã hội nào cả, kể cả ý chí của chính phủ. Ở các nền KTTT phát triển hiện nay đều có sự can thiệp của nhà nước ở mức độ nhất định và dưới những hình thức khác nhau, tùy theo quan điểm vận dụng các lý thuyết kinh tế.
(ii) Nền kinh tế hiện đại phát triển dựa trên khoa học và công nghệ hiện đại, phát triển kinh tế tri thức, và có nguồn nhân lực chất lượng cao.
(iii) Cơ cấu kinh tế hiện đại: tỷ trọng nông nghiệp và công nghiệp giảm, tỷ trọng các ngành dịch vụ tăng lên. Các ngành tài chính - ngân hàng, bảo hiểm và dịch vụ kinh doanh trở thành các ngành quan trọng, tạo ra phần lớn giá trị gia tăng của ngành dịch vụ và là động lực thúc đẩy tăng trưởng của toàn ngành kinh tế.
(iv) Nền kinh tế “mở cửa” với sự xuyên suốt của thể chế KTTT theo hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa và hình thành các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương, nhằm tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế không chỉ giới hạn ở một quốc gia mà có sự điều chỉnh xuyên quốc gia.
Sự tiệm cận đến nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế của mô hình KTTT Việt Nam hiện đại vừa phải bao hàm các tiêu chuẩn, nội dung của thể chế KTTT hiện đại.
2. Đối mới mô hình tăng trường, tạo động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân
Bài học từ các nước Tây Bắc Âu cho thấy, phát triển nền kinh tế không thể thể chỉ dựa vào các nguồn lực tài chính công. Việc huy động các nguồn lực xã hội, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân, có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm tạo ra những động lực mới cho sự phát triển của nền kinh tế.
Ở nước ta, việc thu hút đầu tư tư nhân vào sản xuất, kinh doanh, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục hiện nay còn gặp nhiều khó khăn do cả những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã xác định phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thực tế vừa qua cho thấy, các doanh nghiệp tư nhân có những bước phát triển hết sức tích cực, nhưng cũng đã bộc lộ nhiều nhược điểm, đầu tiên là việc lựa chọn cơ hội khởi nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chưa xuất phát từ lợi thế so sánh của địa phương, lợi thế về địa lý, lợi thế của doanh nghiệp, muốn phát triển nóng, có hiệu quả nhanh mà không tạo được nền tảng cho phát triển bền vững, nên thực tế trong 5 năm qua số doanh nghiệp tư nhân (DNTN) bị phá sản rất nhiều.
Bên cạnh đó, trình độ tổ chức sản xuất, kinh doanh của đa phần DNTN ở mức rất thấp. Rất nhiều DN khi ở mức độ thấp, quy mô nhỏ thì quản lý được nhưng khi mở rộng sản xuất với quy mô lớn hơn, kinh doanh đa ngành, đa nghề kiểu tập đoàn đã đi đến đổ vỡ. Lý do là trình độ, năng lực, kỹ năng tổ chức, quản trị doanh nghiệp kém, tùy tiện theo kiểu gia đình mà không dựa trên nền tảng quản trị tiên tiến, hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, không dựa trên các quy định của pháp luật mà có xu hướng “chụp giật”, chạy theo thị hiếu, hiệu ứng đám đông và thậm chí dựa vào quan chức, nhóm lợi ích trong cơ chế “xin - cho” để phát triển. Kế đó là các DNTN còn thiếu tính liên kết, hợp tác, cạnh tranh không lành mạnh, chưa kể đến một bộ phận làm ăn phi pháp, không minh bạch.
Một số DNTN lớn, nhưng chủ yếu vẫn dựa vào lợi thế về đất đai và vốn vay, chưa đi sâu vào phát triển công nghệ, chưa biết từng bước tiếp cận với cách mạng công nghiệp 4.0. Gần đây, một số DNTN đã chú ý hơn đến nghiên cứu, phát triển công nghệ trong các ngành điện, điện tử, internet, hóa dược, cơ khí chế tạo, nhựa – cao su, công nghệ tài chính, ngân hàng... và đã có những thành công bước đầu, song với tổng số các DNTN thì tỷ lệ các doanh nghiệp này còn chưa cao.
Tiếp thu kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của các nước Tây Bắc Âu, xin kiến nghị một số giải pháp sau:
(i) Cần phải tạo ra một sự bùng nổ trong cải cách thủ tục hành chính: công bố rõ ràng người dân được quyền kinh doanh những gì; được tự do đăng ký kinh doanh; thủ tục đăng ký chỉ một cửa và không cần phải phân biệt là có giấy phép mới được kinh doanh.
(ii) Cần áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý để việc kiểm tra phải theo tiêu chuẩn chung chứ không chỉ mang tính chất chủ quan của người quản lý. Hạn chế kiểm tra trực tiếp và áp dụng công nghệ thông tin là một cách quản lý thông minh. Sử dụng kết quả kiểm tra có tính chất liên thông, công bố rõ ràng kết quả kiểm tra; khi phát hiện sai thì kịp thời xử lý nghiêm khắc.
(iii) Cần chính sách ổn định, đặc biệt là chính sách thuế phí và chính sách tín dụng. Tạo môi trường tiếp cận vốn vay nhưng theo phải theo thị trường. Có biện pháp thu hồi nợ xấu và hạn chế các DNTN vay tín dụng “đen”.
(iv) Hỗ trợ về thông tin và đào tạo. Giúp các DNTN có đầy đủ thông tin về nghề nghiệp kinh doanh và những thông tin liên quan đến lĩnh vực của họ. Tổ chức đào tạo cho doanh nhân cách quản lý. Hỗ trợ đào tạo công nhân có tay nghề trong môi trường làm việc thực tế tại doanh nghiệp, trong các trường dạy nghề. Trong hệ thống giáo dục, học sinh học hết lớp 9 có thể chuyển sang học trung học chuyên nghiệp nghề để đi làm.
(v) Khuyến khích chuyển giao công nghệ, khoa học - kỹ thuật và xây dựng mô hình liên kết theo chuỗi DN nhỏ và vừa với các DN lớn và tập đoàn.
(vi) Vấn đề thể chế. Quốc hội đã thông qua nhiều dự án luật trong lĩnh vực kinh tế, như Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Chuyển giao công nghệ... Chính phủ đã có nhiều cố gắng cải thiện môi trường sản xuất, môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia gắn với cải cách, kiểm soát thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian khởi sự kinh doanh, cấp phép xây dựng, đổi mới đối thoại chính quyền - doanh nghiệp, tăng khả năng tiếp cận nguồn lực của DN, giảm chi phí cho DN,... Tới đây, để khuyến khích sản xuất, Nhà nước cần nghiên cứu cơ chế đặt hàng các DN trong nước sản xuất và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ, thay thế cho việc mua của nước ngoài, nhất là các sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao và sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao, kể cả sản phẩm thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
3. Bảo đảm gắn kết xã hội trong bối cảnh áp lực từ quá trình toàn cầu hóa, hội nhập và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Toàn cầu hóa cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra những thay đổi to lớn trong phương thức sản xuất, tiêu dùng, lối sống, văn hóa..., đem lại những lợi ích khổng lồ về sản xuất, tiêu thụ, thông tin, tri thức..., giúp các nước có cơ hội tranh thủ vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý, góp phần phát triển sức sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương mại toàn cầu. Tham gia toàn cầu hóa, các quốc gia còn có cơ hội phát triển trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa thông qua quá trình mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, làm cho con người xích lại gần nhau hơn và tăng khả năng giải quyết một số vấn đề chung của toàn cầu.
Tuy nhiên, toàn cầu hóa về kinh tế và việc phát triển nền kinh tế thị trường, đặc biệt ở nước ta hiện nay là làm nảy sinh tư tưởng thực dụng, vụ lợi, chạy theo lợi ích vật chất, không từ bỏ thủ đoạn nào để kiếm tiền; làm xuất hiện xu hướng thương mại hóa mọi thứ, trong đó có thương mại hóa các sản phẩm văn hóa tinh thần, biến văn hóa trở thành mục tiêu trục lợi; đi kèm đó là không ít các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, làm suy thoái đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, vấn đề “lợi ích nhóm” với những thủ đoạn tinh vi đã lũng đoạn, làm méo mó chính sách, gây mất công bằng trong xã hội, đe dọa lợi ích toàn dân cũng như lợi ích quốc gia, làm băng hoại các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đe dọa sự an toàn văn hóa của cá nhân và cộng đồng, có thể gây ra những rạn nứt văn hóa trong xã hội. Các thế lực thù địch tận dụng toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hòng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, phá hoại văn hóa - tư tưởng bằng cách truyền bá, phổ biến các loại tư tưởng, các sản phẩm văn hóa phản động, độc hại, lấn át các giá trị văn hóa dân tộc; khai thác và phát triển tâm lý hưởng lạc vật chất tầm thường, đánh vào thị hiếu thấp kém của một bộ phận dân chúng và cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị, làm thay đổi quan niệm của họ về giá trị văn hóa truyền thống; gieo rắc và khuyến khích các tệ nạn xã hội phát triển nhằm từng bước hủy hoại sức sống văn hóa dân tộc; tạo mâu thuẫn xã hội, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm họ dần xa rời, phủ nhận các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ cũng là “đồng minh” của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa.
Trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho Đại hội XIII cần chú ý nghiên cứu vấn đề gắn kết xã hội khi triển khai các mục tiêu kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng và thách thức của cách mạng công nghệ 4.0:
(i) Củng cố đồng thuận xã hội về lợi ích bảo trùm của hội nhập và cải cách. Kết hợp với bồi dưỡng lòng yêu nước, khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm của mỗi công dân trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộcTiếp tục đưa nội dung “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa trong nội bộ”, “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”….
(ii) Coi con người là trung tâm của sự phát triển. Quan triệt quan điểm “tăng trưởng bao trùm”, “không ai bị bỏ lại phía sau”, để lợi ích phát triển và hội nhập lan tỏa đến mọi tầng lớp người dân và toàn xã hội. Đầu tư nhiều hơn nữa cho giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế. Giáo dục đào tạo không chỉ nhằm đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế hội nhập và nâng cao sức cạnh tranh mà còng để đảm bảo cho mọi người dân và các thế hệ tương lai có năng lực đóng góp, công hiến và phát triển trong quá trình hội nhập đó của đất nước. Chăm sóc y tế, xã hội cũng cần đảm bảo sự công bằng, chú ý đến những bộ phận yếu thế trong xã hội. Đồng thời, sử dụng tối đa nguồn lực để đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn các quyền con người được công nhận trong pháp luật quốc tế và quốc gia.
Việt Nam chúng ta đã gia nhập và ký kết 7/9 công ước cơ bản và hàng chục điều ước quốc tế khác liên quan đến quyền con người. Các quyền con người đã được ghi nhận và thể chế hóa về mặt lập hiến và lập pháp, được thực thi về mặt hành pháp và được bảo hộ về mặt tư pháp; thông qua các chính sách phát triển tổng hợp từ chính trị đến kinh tế, xã hội, văn hóa; thông qua hợp tác quốc tế..
Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là để phát triển thể chế thị trường hiện đại, văn minh, nhằm ngay từ đầu, trong suốt quá trình và từng bước bảo đảm quyền lợi kinh tế, xã hội và văn hóa cho mọi thành viên xã hội, theo nguyên lý phát triển bao trùm. Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là về xóa đói, giảm nghèo, đều nhằm bảo đảm cho người dân thụ hưởng quyền có mức sống ngày càng được cải thiện, đã được cộng đồng quốc tế công nhận. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đưa ra nội dung về bảo đảm an ninh con người trước các mối đe dọa của tự nhiên và xã hội, yêu cầu thể chế hóa thành pháp luật để bảo vệ tốt hơn an ninh con người.
Hiến pháp năm 2013 cơ bản được xây dựng trên cơ sở cách tiếp cận dựa trên quyền con người, là đạo luật gốc của nền pháp luật quốc gia hướng vào việc điều tiết, thúc đẩy việc bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang được tiếp tục xây dựng, hoàn thiện là nhằm thúc đẩy phát triển, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Quá trình cải cách hành chính nhà nước được tiến hành từ năm 2000 đến nay cũng nhằm xây dựng nền hành chính công phục vụ người dân.
Nhà nước cũng đồng thời thực hiện nhiều biện pháp, dự án để đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, thanh tra. Đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thực thi pháp luật, như thẩm phán, luật sư, cán bộ điều tra, hội thẩm nhân dân,... ngày càng được đào tạo chính quy hơn với số lượng ngày càng tăng. Nhà nước rất coi trọng khuôn khổ pháp lý nhằm nâng cao vai trò của các luật sư phản biện tại các phiên tòa và chất lượng của các cuộc xử án, như đề cao và thực hiện nguyên tắc “suy đoán vô tội”, tranh tụng và vai trò độc lập trong xét xử của tòa án, nhằm xét xử kịp thời, công bằng và công khai. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã giảm nhiều tội danh hình sự, án tử hình và thực hiện án tử hình nhân đạo.
Tuy nhiên, không phủ nhận rằng hiện nay Việt Nam đang phải đối diện với không ít những vấn đề tác động trực tiếp đến bảo đảm quyền con người, như sự phân hóa giàu nghèo có khuynh hướng gia tăng; tình trạng quan liêu, tham nhũng chưa được đẩy lùi; tình trạng người dân chưa được hưởng các hàng hóa, dịch vụ tương xứng với chất lượng và giá cả,...
5. Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước
Tại các nước Tây Bắc Âu, chế độ bảo hiểm được coi là ưu việt nhất thế giới, đảm bảo cho toàn dân. Bảo hiểm xã hội được coi là công cụ an ninh xã hội đồng thời công cụ thúc đẩy phát triển vì khi an ninh được đảm bảo thì xã hội ổn định và người dân tham gia các hoạt động kinh tế thuận lợi hơn. Tuy nhiên, cũng cần đảm bảo để bảo hiểm xã hội không thành gánh nặng ngân sách bất hợp lý và trở lại cản trở phát triển. Ở nước ta chính sách bảo hiểm xã hội cũng có vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát triển và coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực đối với sự phát triển bền vững đất nước cũng như thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và người lao động; sự hỗ trợ, hợp tác hiệu quả của các quốc gia, tổ chức quốc tế, hệ thống chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần quan trọng vào nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả chính sách BHXH cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém, như diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật cũng như quy mô tham gia BHXH trên thực tế còn thấp, chưa hướng đến bao phủ toàn dân. Hệ thống BHXH về cơ bản còn thiết kế đơn tầng, sự kết nối giữa chính sách BHXH với các chính sách xã hội khác chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ. Bảo hiểm xã hội bắt buộc còn bỏ sót một số nhóm đối tượng có nhu cầu và có khả năng tham gia. Mục tiêu đến năm 2020, có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH theo Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 10-6-2012, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” và Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 22-11-2012, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020”, không đạt được. Các nguyên tắc công bằng, đóng - hưởng, chia sẻ và bảo đảm bền vững tài chính chưa được quán triệt đầy đủ, quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn, chính sách BHTN nặng về giải quyết hậu quả khi người lao động thất nghiệp mà chưa chú ý thỏa đáng đến phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp….
Tiếp thu kinh nghiệm từ các nước Tây Bắc Âu, chính sách BHXH của nước ta trong giai đoạn tới cần thực thiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
1) Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc làm, BHXH. Thể chế hóa các chủ trương và hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHXH phải kết hợp với hoàn thiện chính sách, pháp luật về chế độ tiền lương, việc làm, chính sách đối với người có công với cách mạng và chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan khác. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về BHXH theo hướng tiến tới thực hiện BHXH toàn dân; thiết kế hệ thống BHXH đa tầng; hoàn thiện các quy định về đóng - hưởng BHXH, bảo đảm các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Rà soát, sửa đổi các quy định về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, người nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam tham gia BHXH bắt buộc, gắn với việc đẩy mạnh đàm phán, ký kết hiệp định song phương về BHXH.
2) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH, nhất là trong việc hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật BHXH. Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách BHXH, kịp thời xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh. Nâng cao tính tuân thủ pháp luật về BHXH thông qua thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, tư pháp để tăng số người tham gia BHXH, đi đôi với chú trọng tăng số người thụ hưởng quyền lợi BHXH, đặc biệt là chế độ hưu trí. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về BHXH, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các hành vi trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền BHXH. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để đẩy mạnh việc phân cấp cho các cơ quan BHXH; thực hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH cho các địa phương; phân định rõ quản lý nhà nước với quản trị bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH. Tăng cường công tác phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính, thuế, lao động để nâng cao hiệu quả quản lý đối tượng tham gia BHXH và thực thi chính sách BHXH. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về BHXH. Xây dựng cơ sở dữ liệu về BHXH, bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng cung ứng dịch vụ của cơ quan BHXH.
3) Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHTN. Hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHTN theo đúng tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của Hội đồng Quản lý bảo hiểm xã hội. Thực hiện chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán và thông tin báo cáo về BHXH theo quy định của pháp luật.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả các lĩnh vực BHXH, BHTN; hoàn thiện, đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách. Tiếp tục hiện đại hóa quản lý BHXH, đầu tư phát triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện BHXH, BHTN. Kịp thời ngăn chặn tình trạng gian lận, trục lợi chính sách BHXH, BHTN.
Triển khai có hiệu quả các chính sách BHTN, phát huy đầy đủ các chức năng của BHTN, bảo đảm BHTN thực sự là công cụ quản trị thị trường lao động. Chi phí tổ chức thực hiện chính sách BHTN lấy từ nguồn Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, không lấy từ ngân sách nhà nước. Có cơ chế tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, nhất là trong bối cảnh thị trường lao động biến động nhanh chóng và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm biến đổi cấu trúc của thị trường lao động.
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, việc cải cách chính sách BHXH là vấn đề hệ trọng, liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân. Để hoàn thành được các mục tiêu đã đề ra, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, có sự vào cuộc với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, nhằm góp phần quan trọng trong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
(Hết)
Bùi Thanh Sơn
Đinh Toàn Thắng