Thứ Sáu, ngày 29 tháng 03 năm 2024

Động lực tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu năm 2022

Ngày phát hành: 27/01/2022 Lượt xem 1466

Cảng container ở Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ảnh: THX/TTXVN


Theo báo “Liên hợp buổi sáng” ngày 14/1/2022, sau gần hai năm phục hồi chậm chạp, kinh tế toàn cầu đã hoàn toàn thoát đáy, mặc dù có thể sẽ xuất hiện những thăng trầm trong giai đoạn tiếp theo, nhưng nhìn chung xu hướng tăng trưởng mang tính phục hồi sẽ khó thay đổi.  


Về vấn đề này, trong Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới mới nhất, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) không những dự báo kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng 4,9% trong năm 2022, mà còn nhấn mạnh tốc độ tăng trưởng của kinh tế thế giới năm 2022 sẽ cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng bình quân 3% trong 50 năm qua, đồng thời sẽ trở thành năm kinh tế toàn cầu tăng trưởng mạnh mẽ nhất kể từ đầu những năm 1970 đến nay.


Tuy nhiên, phân tích nhận định của IMF phát hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2022 sẽ thấp hơn đáng kể so với năm 2021, hơn nữa so với nhận định trước đó, dự báo mới nhất của IMF đã hạ xuống. Mặt khác, dù kinh tế năm 2022 tiếp tục phục hồi, nhưng vẫn chưa trở về mức bình thường như trước khi dịch bệnh bùng phát. Đồng thời, vẫn cần phải chú ý đến dự báo mà IMF đưa ra - tăng trưởng kinh tế tổng thể không đồng nghĩa với việc tăng trưởng kinh tế của tất cả các nước đều chạm đỉnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nhiều nước trên toàn cầu vẫn có thể chậm lại trong năm 2022, đặc trưng tăng tưởng kinh tế không đồng đều vẫn đang nới rộng.  


Dịch COVID-19 vẫn là trở ngại lớn nhất trên con đường phục hồi kinh tế toàn cầu, nhận định chung là cùng với việc các nước có nhiều kinh nghiệm phòng chống dịch bệnh hơn, đặc biệt là tỷ lệ tiêm vaccine phòng COVID-19 ngày càng tăng lên, những ràng buộc và tác động tiêu cực mà COVID-19 gây ra cho sản xuất và đời sống sẽ giảm. Tuy nhiên, lý do chính khiến virus SARS-CoV-2 ít có khả năng biến mất trong năm 2022 là là chính phủ và người dân các nước có nhận thức và hành động khác nhau đối với virus, chừng nào con đường lây truyền của virus chưa được cắt đứt, thì dịch bệnh vẫn có khả năng bùng phát mang tính giai đoạn và cục bộ.    

Mấu chốt của vấn đề là quá trình nghiên cứu và phát triển vaccine luôn đi sau tốc độ biến thể của virus, nếu xuất hiện biến thể virus mới, thì số lượng biến thể cuối cùng, độc tính của virus và khả năng lây truyền… đều trực tiếp quyết định mức độ nặng nhẹ của tình hình dịch bệnh, ảnh hưởng đến nền kinh tế ở những mức độ khác nhau.
Giống như việc dịch bệnh vẫn tiếp tục tồn tại bằng các biến thể khác nhau, lạm phát kéo dài trong một năm qua cũng sẽ không biến mất trong năm 2022. Tuy nhiên, vấn đề là lạm phát sẽ kéo dài bao lâu, liệu có tiếp tục diễn biến tiêu cực và khi nào sẽ đạt đỉnh?


Trang mạng Bloomberg News đã thực hiện một cuộc khảo sát toàn cầu vào cuối năm 2021, hầu hết các chuyên gia kinh tế được phỏng vấn đều cho rằng lạm phát sẽ giảm trong năm 2022. Cụ thể, vật giá có thể tăng nhẹ vào nửa đầu năm 2022, nhưng sẽ giảm xuống đáng kể vào nửa cuối năm, đến cuối năm giá tiêu dùng trên toàn cầu sẽ giảm xuống 2,6%, song vẫn cao hơn mức độ bình quân trong 10 năm trước khi xảy ra dịch bệnh là 1,8%.  


Mặc dù luôn có sự hoài nghi về kết quả của các cuộc khảo sát như vậy, nhưng điều có thể khẳng định là việc thắt chặt chính sách tiền tệ toàn cầu trong một năm tới ít nhiều sẽ phát huy tác dụng kiềm chế đối với vật giá, giúp lạm phát duy trì ở mức độ ôn hòa. Nếu đúng như vậy, thì sẽ có lợi cho việc cải thiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và mở rộng chu kỳ thương mại.


Mặc dù thắt chặt chính sách tiền tệ đã trở thành xu hướng chủ đạo của năm 2022, nhưng việc một số nước cắt giảm quy mô mua trái phiếu vẫn chỉ là ứng dụng của công cụ định lượng, mấu chốt của vấn đề là bên cạnh việc huy động công cụ định lượng, liệu có sử dụng công cụ giá và điều quan trọng nhất là Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ (FED) có khởi động việc tăng lãi suất hay không, với tần suất và biên độ tăng lãi suất như thế nào? Rõ ràng câu hỏi này không có đáp án chính xác, nhưng có một điểm có thể khẳng định là FED không thể cùng lúc đưa ra công cụ lãi suất để thắt chặt chính sách tiền tệ trước khi chưa hoàn thành kế hoạch cắt giảm quy mô mua trái phiếu. Do đó, việc tăng lãi suất có thể sẽ trì hoãn đến quý II/2022, hơn nữa FED vẫn cần quan sát diễn biến của tình hình lạm phát, nếu đến thời điểm đó lạm phát vẫn chưa suy yếu thì sự khởi động tăng lãi suất bất kỳ lúc nào, nhưng nếu vật giá giảm hoặc mức độ tăng không lớn thì FED chắc chắn sẽ lựa chọn phương án quan sát.


Như vậy, xét thấy cục diện lạm phát cao trước thấp sau trong một năm tới, số lần tăng lãi suất trong năm của FED sẽ không quá nhiều. Ngoài ra, khác với thời kỳ khủng hoảng tài chính, chính sách nới lỏng định lượng do FED thực hiện đã kéo dài trong khoảng 6 năm, vòng nới lỏng định lượng này kể từ khi bắt đầu cho đến khi thu hẹp chỉ kéo dài hơn hai năm, càng thu hẹp thì cú sốc đối với thị trường càng lớn. Sau khi cân nhắc đến khủng hoảng tài chính, không ít chi phí cơ hội sẽ được phát sinh từ quá trình thắt chặt chính sách, dự đoán trước mỗi lần tăng lãi suất, FED đều sẽ lựa chọn cách duy trì kết nối kịp thời với thị trường, biên độ tăng lãi suất cũng sẽ được kiểm soát ở phạm vi 25 điểm cơ bản/lần để giảm nhẹ cú sốc của việc thắt chặt chính sách gây nên đối với thị trường tài chính và nền kinh tế vĩ mô.


Chính sách tài khóa đáng để mong đợi
Có thể nói chính sách tài khóa là động lực thay thế tốt nhất sau khi động lực của chính sách tiền tệ suy yếu trong năm 2022, tăng thêm kỳ vọng cho sự phục hồi ổn định của nền kinh tế toàn cầu. Trong đó, các kế hoạch cứu trợ nền kinh tế của Chính quyền Joe Biden, đặc biệt là việc triển khai kế hoạch xây dựng cở hạ tầng, bên cạnh việc đầu tư 1.200 tỷ USD để cải tạo và nâng cấp hệ thống cầu, sân bay, đường thủy, giao thông công cộng, Mỹ còn khởi động kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng toàn cầu có tên gọi “Xây dựng lại thế giới tốt đẹp hơn”. Kế hoạch này sẽ phối hợp với Liên minh châu Âu (EU), các nước thành viên G7 bao gồm Nhật Bản để cùng tài trợ vốn, đầu tư trên 10 dự án cơ sở hạ tầng lớn ở nhiều nơi trên thế giới.


EU đã cam kết huy động 300 tỷ euro để đầu tư cơ sở hạ tầng trên toàn cầu, tập trung vào các lĩnh vực như số hóa, sức khỏe, năng lượng, khí hậu… Anh cũng đưa ra “Sáng kiến sạch và xanh” trị giá 3 tỷ bảng Anh, dự định giúp các nước đang phát triển thực hiện rộng rãi công nghệ xanh, tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng bằng phương thức bảo vệ môi trường.  
Tổng dự toán ngân sách của EU năm tài khóa 2022 lên đến 170,6 tỷ euro, Nhật Bản cũng tăng ngân sách bổ sung lớn nhất từ trước đến nay cho năm tài khóa 2022, hơn nữa đa số những khoản ngân sách bổ sung này đều sẽ dùng cho việc phục hồi kinh tế. Ngoài ra, là nền kinh tế mới nổi lớn nhất, Chính phủ Trung Quốc cam kết sẽ triển khai trước một số dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, rất có thể năm 2022 sẽ trở thành “năm xây dựng cơ sở hạ tầng” của Trung Quốc. Chỉ cần các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc tăng tốc đầu tư, thì kinh tế thế giới sẽ không mất động lực tăng trưởng cơ bản.  


Sự bình thường hóa của chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng chắc chắn sẽ trở thành thước đo quan trọng để đánh giá triển vọng phục hồi kinh tế toàn cầu. Bên cạnh việc chuỗi sản xuất của các nước đang tích cực tìm kiếm cách thức khơi thông các mắt xích then chốt, tình trạng thiếu các sản phẩm trung gian mang tính toàn cầu như chip cũng đã vượt qua thời kỳ căng thẳng nhất. Bloomberg dự báo chậm nhất đến nửa cuối năm 2022, có triển vọng chuỗi cung ứng phục hồi trạng thái ổn định. Ngoài ra, theo báo cáo nhìn lại và dự báo thường niên về các nhà kinh doanh cảng container trên toàn cầu của công ty tư vấn Drewry (Anh), năng lực khai thác các cảng container trên toàn cầu trong 5 năm tới sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 2,5%/năm, nhưng nhu cầu toàn cầu trong thời gian này sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 5%/năm. Chu kỳ phục hồi tăng trưởng của ngành vận tải biển vào 2-3 năm, điều này cũng có nghĩa là ngành vận tải biển toàn cầu có thể vẫn sẽ chịu hạn chế bởi các yếu tố như năng lực hoạt động của container, tàu thuyền và bến cảng giảm xuống, nhưng ít nhất sẽ không xuất hiện tình trạng ùn tắc và mắc kẹt hiếm thấy như năm 2021.   


Trong đó, vấn đề đáng chú ý nhất là chỉ số thuê tàu hàng khô Baltic (BDI), đại diện cho mức giá vận tải biển toàn cầu, đã bắt đầu liên tục giảm từ tháng 10/2021, mặc dù tăng trở lại do tác động của biến thể Omicron, nhưng cuối cùng vẫn quay về quỹ đạo ổn định thấp, điều này phản ánh giai đoạn tồi tệ nhất của chuỗi cung ứng toàn cầu đã qua đi.


Dưới tiền đề áp lực dần nới lỏng và các kênh ngày càng thông suốt, nhu cầu hàng sản xuất của doanh nghiệp và nhu cầu hàng hóa sinh hoạt của người tiêu dùng sẽ tăng lên, cũng như sự cộng hưởng giữa đầu tư và tiêu dùng chắc chắn sẽ tăng thêm động lực cho tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu.


Đương nhiên, cũng phải nhận thức một cách tỉnh táo rằng rủi ro nợ của một số nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển triển đang gia tăng và có thể xuất hiện cục diện ngày càng nghiêm trọng. So với các nước phát triển, lý do khiến nhiều nước đang phát triển không có năng lực vay nợ mới trả nợ cũ không phải là do mức độ tài trợ tín dụng không được như các nước phát triển, mà vấn đề quan trọng hơn là chi phí trả nợ của các nước đang phát triển tăng lên đáng kể.  
Trong bối cảnh Mỹ vẫn thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, xuất phát từ nhu cầu khống chế dịch bệnh và phục hồi nền kinh tế, các thị trường mới nổi sẽ tận dụng thời cơ chi phí tài sản xuống thấp để trả nhiều khoản nợ nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ của FED cơ bản đã được xác định, lãi suất bằng đồng USD tăng lên chắc chắn sẽ làm tăng gánh nặng nợ của các nước đang phát triển và các thị trường mới nổi, đặc biệt là các nước như Argentina, Venezuela và Thổ Nhĩ Kỳ vốn là những nước chưa bao giờ thoát khỏi tình cảnh khó khăn về nợ. Hiện nay, cộng thêm khoản nợ mới nên không loại trừ khả năng xuất hiện kịch bản vỡ nợ diện rộng trong bối cảnh năng lực trả nợ hạn chế.  
Ngoài ra, việc FED chuyển hướng chính sách tiền tệ cũng sẽ khiến cho dòng vốn đổ vào các thị trường mới nổi trước đó tháo chạy với quy mô lớn. Bên cạnh tài sản của các thị trường nới nổi được định giá lại, sức ép tỷ giá lao dốc cũng sẽ gia tăng, làm tăng rủi ro tái huy động vốn và trả nợ của những nước này. Chừng nào các nền kinh tế mới nổi vẫn bị chèn ép và tác động do điều này, quá trình phục hồi của nền kinh tế toàn cầu, bao gồm cả các nền kinh tế phát triển vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn./.

 

Theo TTXVN


Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết