Hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, làm gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong đó nổi bật là:
1. Đối với việc hoàn thiện pháp luật, thể chế kinh tế
Cùng với quá trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã có bước tiến lớn trong việc ban hành và sửa đổi hệ thống pháp luật cho phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm làm cho môi trường kinh doanh thông thoáng minh bạch, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển; đó là điều kiện bắt buộc và cũng là yêu cầu cấp thiết khi ta đổi mới đường lối và chính sách đối ngoại, tham gia ngày càng sâu và rộng vào sân chơi quốc tế. Đây là thành tựu quan trọng và nổi bật của việc thực hiện đường lối và chính sách đối ngoại đổi mới, được cộng đồng doanh nghiệp thừa nhận.
Việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài lần đầu tiên vào năm 1987 được coi là bước đột phá trong đổi mới về kinh tế đối ngoại thông qua việc cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được mang vốn, tài sản vào Việt Nam và trực tiếp điều hành quản lý doanh nghiệp kinh doanh tại Việt Nam. Sau nhiều lần sửa đổi bổ sung, đến năm 2005 Luật Đầu tư nước ngoài được hợp nhất với Luật Đầu tư trong nước thành Luật Đầu tư áp dụng cho cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Việc hợp nhất này đã tạo khung khổ pháp lý bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nước, tạo hấp dẫn môi trường đầu tư.
Trong tiến trình đổi mới, ta cũng đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng hình thành khung khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khơi dậy tiềm năng sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế để thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáng chú ý là: Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Cạnh tranh, Luật Giá, Luật Đấu thầu, Luật Ngoại thương…
Với hệ thống văn bản luật này, ta đã kiện toàn hệ thống pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế, làm cho môi trường kinh doanh thông thoáng, đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đấy là những điều kiện chúng ta bắt buộc phải làm để hòa nhập với cộng đồng quốc tế, để ngày càng hoàn thiện hơn trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó là giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được với các hoạt động kinh doanh cũng như là công nghệ, thị trường trên toàn thế giới, giúp cho việc quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm thu hút các dòng kinh doanh từ nước ngoài vào Việt Nam.
Cho đến nay, các luật, pháp lệnh có liên quan tới việc thực thi các cam kết đa phương về cơ bản đều đã được ban hành đầy đủ theo kiến nghị tại Báo cáo số 192/BC-BTP ngày 09 tháng 12 năm 2008 của Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả rà soát pháp luật thực hiện Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP. Bên cạnh đó, chúng ta đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới một số luật, pháp lệnh trên cơ sở nhu cầu nội tại của đất nước trong giai đoạn phát triển hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Thêm vào đó, công tác hoàn thiện thể chế kinh tế trong thời gian gần đây không chỉ hướng tới thực hiện các cam kết quốc tế một cách thụ động, mà đã đi trước một bước nhằm thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế, đồng thời chủ động chuẩn bị cho cộng đồng doanh nghiệp. Tiêu biểu nhất là chuỗi Nghị quyết 19 về cải thiện môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (từ năm 2014) đã thể hiện tinh thần tự cải cách, gắn với tiêu chí đánh giá phổ biến được quốc tế công nhận, để chủ động tháo gỡ những rào cản bất hợp lý đối với hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Nhờ đó, môi trường kinh doanh ngày một cạnh tranh hơn và được quốc tế công nhận: Việt Nam tăng 9 bậc trong năm 2016 và tăng 14 bậc trong năm 2017 (lên thứ 68/190) theo xếp hạng môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới, thậm chí có những lĩnh vực cực kỳ ấn tượng như nộp thuế và bảo hiểm xã hội (tăng 81 bậc trong năm 2017), tiếp cận điện năng (tăng 32 bậc).
2. Đối với tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh
Trong giai đoạn 1986-1990, giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, mặc dù khủng hoảng kinh tế kéo dài nhưng tăng trưởng về kinh tế đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Trong khi tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1986-1990 chỉ đạt 4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991-2011 đạt 7,34%/năm. Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,46%, (là mức cao nhất trong vòng 11 năm trước đó). Mức tăng trưởng này cũng cao hơn nhiều so với trung bình 5,3% của các nước ASEAN và tương đương với tăng trưởng của Trung Quốc.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2007-2017 có ảnh hưởng không nhỏ đối với thể chế kinh tế nói chung và phương thức điều hành kinh tế – xã hội nói riêng. Trong những năm đầu sau khi gia nhập WTO, những điểm yếu cố hữu của nền kinh tế – như mất cân đối đầu tư – tiết kiệm, thâm hụt thương mại, khả năng cạnh tranh chậm cải thiện – bộc lộ rõ nét hơn dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. Đây chính là một trong những cơ sở quan trọng để Đảng, Chính phủ kiên định hơn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.
Do đó, dù mức tăng trưởng trung bình chỉ đạt 6,04%/năm trong giai đoạn 2007-2017 (thấp hơn so với 7,51%/năm trong 2000-2006), song chất lượng và đà phục hồi tăng trưởng kinh tế ngày một vững chắc hơn. Mức tăng trưởng kinh tế năm 2017 đạt 6,81% và năm 2018 đạt 7,08% – một bước phục hồi ấn tượng nhất trong nhiều năm qua. Trong những năm kinh tế thế giới hứng chịu khủng hoảng tài chính và suy thoái, nền kinh tế đã cho thấy sức chống chịu và đạt mức tăng trưởng thuộc diện cao so với mặt bằng thế giới. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, phát huy vai trò của khu vực công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Chúng ta đã gia nhập nhóm các nền kinh tế có mức thu nhập trung bình ngay từ năm 2008, và có mức GDP bình quân đầu người khoảng 2.540 USD vào năm 2018 – cao hơn 3,2 lần so với năm 2006. Đặc biệt, kinh tế Việt Nam 2018 khởi sắc trên cả ba khu vực sản xuất, cung - cầu của nền kinh tế cùng song hành phát triển; chất lượng tăng trưởng và môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, doanh nghiệp thành lập mới tăng mạnh, nền tảng kinh tế vĩ mô được củng cố và từng bước được tăng cường, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng giảm dần, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện…
Chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng (nếu ở giai đoạn 2001-2005 đạt 21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt 17,2%, thì trong giai đoạn 2011-2015 đạt 28,94%). Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát. Ngoài ra, có thể nói thành tựu về tăng trưởng kinh tế được nhìn nhận một cách rõ ràng nhất là đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và ra khỏi danh sách các nước kém phát triển sau 30 năm đổi mới.
Với việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, vị thế của đất nước tiếp tục được cải thiện đáng kể. Ta đã có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 15 đối tác chiến lược và 12 đối tác toàn diện – hầu hết đều được thiết lập trong giai đoạn 2007-2017. Tiếng nói và vị thế của ta được coi trọng, ghi nhận ở không ít tổ chức, diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc, UNESCO, APEC, v.v.
Có được kết quả này một phần là nhờ thực hiện chính sách đổi mới về đường lối đối ngoại hội nhập nên thị trường xuất khẩu được mở rộng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu phát triển từ đó tạo công ăn việc làm và thu nhập cho hàng triệu người lao động, nâng cao đời sống nhân dân. Phần nữa cũng là nhờ môi trường kinh doanh rõ ràng, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng nên đã thu hút được vốn đầu tư nước ngoài và khơi dậy vốn đầu tư trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Nếu không đổi mới chính sách và đường lối đối ngoại thì chắc chắn nền kinh tế không thể phát triển được như vậy.
3. Đối với thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại
Trong 10 năm đầu tiến hành đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng gấp 6 lần, trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng gần gấp 10 lần, kim ngạch nhập khẩu tăng gấp 5 lần so với mức của năm 1986.
Sau 20 năm đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng gần 30 lần, trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng gần 40 lần và kim ngạch nhập khẩu tăng 21 lần.
Đến nay, sau hơn 30 năm đổi mới và hội nhập, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt tới con số hàng trăm tỷ USD. Sự tăng trưởng mạnh mẽ này đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo của ngoại thương Việt Nam, từ một nước phải phải trông chờ vào hàng nhập khẩu viện trợ từ nước ngoài thì đến nay, Việt Nam đã dần dẫn kiểm soát và giảm dần mức độ nhập siêu. Theo đó, cán cân thương mại hàng hóa được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ nhập siêu so với GDP giảm liên tục từ mức 20% trong các năm 2007-2008 xuống còn 8,2% năm 2011, sau đó chuyển sang thặng dư trong khoảng từ 0,1-1,2% GDP trong các năm 2012-2017. Năm 2018, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2018 dự kiến đạt 482 tỷ USD, tăng 12,6% so với năm 2017. Trong đó, tổng trị giá xuất khẩu ước đạt 244 tỷ USD, tăng 13,8%; tổng trị giá nhập khẩu ước đạt 238 tỷ USD, tăng 11,5%. Cả năm 2018, cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam dự kiến thặng dư 7,21 tỷ USD.
Có thể thấy hội nhập kinh tế quốc tế là yếu tố quan trọng tạo điệu kiện thuận lợi cho Việt Nam mở rộng thị trường và tăng cường xuất khẩu, đưa xuất khẩu đã trở thành một động lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Với 10 FTAs đã kí kết và đưa vào thực thi, thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đã được mở rộng đáng kể. Hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng nông lâm thủy sản, có điều kiện tiếp cận và thâm nhập tốt hơn vào các thị trường trong khung khổ các FTA đã kí kết. Các FTAs được xem là có tác động đáng kể đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Số liệu từ Bộ Công thương[1] cho thấy, tất cả các thị trường có FTA của Việt Nam đều ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao so với thời điểm trước khi Việt Nam tham gia FTA. Nhóm các thị trường tăng trưởng mạnh có thể kể đến là Chi Lê (tăng gấp 3,7 lần sau 3 năm, tốc độ tăng bình quân 54,2%/năm), Ấn Độ (tăng gấp 6,4 lần sau 7 năm, tốc độ tăng bình quân 30,4%/năm), Hàn Quốc (tăng gấp 13,5 lần sau 10 năm, tốc độ tăng bình quân là 29,8%/năm), Trung Quốc (tăng gấp 7,6 lần sau 12 năm, tốc độ tăng bình quân là 18,4%/năm). Nhóm các thị trường có mức tăng thấp hơn là ASEAN - tính từ khi có ATIGA (tăng gấp 2 lần sau 7 năm, tốc độ tăng 10,7%/năm), Nhật Bản (tăng gấp 1,7 lần sau 8 năm, tốc độ tăng 7,1%/năm), Úc (tăng gấp 1,3 lần sau 7 năm, tốc độ tăng bình quân 3,3%/năm).
4. Đối với thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cuối năm 1987, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam. Đây là một quyết định lịch sử, đánh dấu sự thay đổi mang tính bước ngoặt về nhận thức, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với ĐTNN, nó không chỉ là tiền đề cho việc mở cửa thu hút ĐTNN, một nguồn lực hoàn toàn mới và vô cùng quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước, mà còn góp phần tích cực để Việt Nam bắt đầu xây dựng và hoàn thiện nền tảng thể chế ban đầu về đầu tư kinh doanh, về kinh tế thị trường. Năm 1990, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân được ban hành và sau đó, vào năm 1994, là Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. ĐTNN đóng vai trò như một “cú hích”, tạo sự đột phá, vừa bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển, vừa khơi dậy các nguồn lực trong nước, để khai thác, tận dụng các tiềm năng, lợi thế, đưa đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn, khủng hoảng.
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN ngày càng phát triển, đã trở thành một trong những khu vực năng động nhất của nền kinh tế. Lũy kế tính đến ngày 20/9/2018, cả nước có 26.646 dự án ĐTNN còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký là 334 tỷ USD và tổng vốn thực hiện khoảng 185,62 tỷ USD, bằng 55,5% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực. Hiện đã có 126 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. ĐTNN đã đóng góp lớn cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước, cụ thể như sau:
Trước hết, ĐTNN là nguồn lực quan trọng đóng góp lớn vào tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và đã trở thành một động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế. Tỷ trọng ĐTNN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng dần, từ gần 15% năm 2005 lên 23,7% năm 2017; riêng năm 2008 tỷ trọng này lên tới 30,8%.
Thứ hai, đóng góp của ĐTNN vào tăng trưởng kinh tế cũng ngày càng cao, nếu giai đoạn 1986 - 1996, khu vực ĐTNN chỉ đóng góp 15,04%, đến giai đoạn 2010 - 2017 đã đóng góp đến 27,7%. Khu vực ĐTNN cũng đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách, với giá trị nộp ngân sách tăng từ 1,8 tỷ USD (giai đoạn 1994 - 2000) lên 14,2 tỷ USD (giai đoạn 2001 - 2010). Giai đoạn 2011 - 2015, thu ngân sách từ khu vực FDI đạt 23,7 tỷ USD, chiếm gần 14% tổng thu ngân sách; năm 2017, khu vực FDI đã đóng góp vào thu ngân sách gần 8 tỷ USD, chiếm 14,46% tổng thu ngân sách nhà nước.
Thứ ba, ĐTNN cũng đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiện nay, 58,2% vốn ĐTNN tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo ra trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, như viễn thông, dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin..., tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa - công nghiệp hóa của đất nước.
Thứ tư, ĐTNN đã góp phần phát triển nhiều ngành dịch vụ chất lượng cao, như tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn luật, vận tải biển, logistics, giáo dục – đào tạo, y tế, siêu thị, khách sạn, du lịch...; tạo ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, góp phần kích thích hoạt động thương mại nội địa; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu, tạo ra một số phương thức sản xuất mới, góp phần cải thiện tập quán canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương.
Thứ năm, ĐTNN cũng đã tác động đến thay đổi cơ cấu kinh tế và thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số địa phương; góp phần chuyển đổi không gian phát triển, hình thành các khu đô thị mới, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt đất nước; cũng như góp phần cải thiện hệ thống cảng biển của Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành một mắt xích trong chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn hàng hải, khai thác cảng biển hàng đầu thế giới.
Thứ sáu, ĐTNN còn đóng góp quan trọng cho thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Khu vực ĐTNN cũng đã thực hiện chuyển giao công nghệ ở một số ngành, lĩnh vực và có tác động lan tỏa công nghệ nhất định tới khu vực doanh nghiệp trong nước; thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ...
Như vậy, việc thu hút và sử dụng ĐTNN trong những năm qua đã góp phần tích cực hoàn thiện thể kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường; nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, hỗ trợ quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
5. Đóng góp của hội nhập kinh tế quốc tế trên một số lĩnh vực khác
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần đẩy nhanh tăng trưởng nông nghiệp, cải thiện đời sống nông thôn. Sản xuất nông nghiệp liên tục tăng trưởng với tốc độ ổn định, kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thủy sản liên tục gia tăng. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa ra đời tạo thêm việc làm, bảo đảm đời sống của nông dân và giữ vững ổn định xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế với sự tham gia của các nhà tài trợ, nhà đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và đầu tư phát triển đô thị, tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu công nghiệp, cải thiện cảnh quan đô thị và chất lượng cuộc sống người dân.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần mở rộng và tăng cường hợp tác, liên kết giữa Việt Nam và các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực, tạo điều kiện xây dựng quan hệ cân bằng, quan hệ đối tác chiến lược với một số nước lớn trong khu vực cũng như nâng cao vị thế của ta với các đối tác khác, tăng cường vị thế trong các tổ chức quốc tế, tăng cường các liên kết đa phương toàn cầu cả về kinh tế và chính trị.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã mang tới những cơ hội để tiếp cận các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo thời cơ để phát triển giáo dục.
Nhờ tăng cường hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa, chúng ta đã có thêm những nguồn lực, cơ hội mới giúp bảo vệ và phát huy có chất lượng, hiệu quả hơn di sản văn hóa Việt Nam. Với việc tham gia các Công ước và nỗ lực từ Trung ương tới địa phương, nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của ta đã được UNESCO công nhận, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội. Mở cửa, đổi mới tạo điều kiện cho sự giao lưu của các luồng văn hóa, đồng thời cũng tạo điều kiện cho việc phổ biến di sản văn hóa của nước ta ra nước ngoài.
Việt Nam đã trở thành điểm sáng trong thực hiện chính sách xã hội ở nhiều mục tiêu: Đạt được hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), đặc biệt về giảm nghèo, giảm trên 3/4 tỷ lệ nghèo, thu nhập bình quân nhân khẩu của hộ nghèo tăng. Các đối tượng xã hội được bảo trợ ngày càng tốt hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra sự đan xen về lợi ích giữa Việt Nam và các nước, các trung tâm quyền lực, tạo thế và lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác trong khu vực, giúp ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh; làm cho sức mạnh kinh tế của đất nước từng bước được nâng lên là điều kiện quan trọng để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước, góp phần nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực và trên thế giới./.
PV (theo báo cáo của Bộ Công thương)