Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Những biến động của thế giới hiện nay

Ngày phát hành: 23/04/2019 Lượt xem 50933

  

Thế giới đương đại đang có những chuyển biến lớn lao với biết bao sự kiện diễn ra một cách nhanh chóng, vừa mang đến cho con người những thời cơ, vận hội và thắp sáng những hy vọng tương lai, lại vừa đặt ra trước mắt những nguy cơ, thách thức và những lo lắng bất an.

Rõ ràng là chưa bao giờ như bây giờ, thế giới đã và đang trở thành thế giới toàn cầu, cả thế giới là một thị trường, hàng tỷ người ở mọi vùng miền khác nhau có thể cùng xem một trận bóng đá, cùng thưởng thức những chương trình văn hóa nghệ thuật, cùng theo dõi những sự kiện trọng đại đang diễn ra trên trái đất. Với tác động của khoa học công nghệ, thế giới như được phẳng ra, những khoảng cách về không gian đang thu hẹp lại bởi giao thông đa phương tiện hết sức nhanh chóng, thuận lợi và thông tin liên lạc ngày càng dễ dàng, thông suốt. Các sản phẩm hàng hóa tiêu dùng cho con người ngày càng thông minh hơn, đi trước và hướng dẫn cảm thụ tiêu dùng của con người.

Nhưng cũng có mặt khác của thế giới rất đáng lo ngại. Đó là những vấn đề nóng bỏng từ giải trừ vũ khí hạt nhân đến biến đổi khí hậu; sự cạn kiệt nguồn lực, những dịch bệnh, đói nghèo dai dẳng hàng tỷ người sống dưới đáy đến những cuộc khủng hoảng kinh tế; chủ nghĩa khủng bố quốc tế đang lan rộng cùng với nạn buôn người, tội phạm xuyên biên giới; không khí thù hận cùng với tiếng bom rơi, đạn nổ vẫn đang gây ra những cảnh chết chóc thảm khốc ở nhiều nơi. Tất cả điều đó đặt ra cho chúng ta phải có cách nhìn nhận hết sức khoa học về tình hình thế giới hiện nay, từ đó đưa ra những chủ trương và cách thức để tận dụng cơ hội cũng như để vượt qua những thách thức không hề nhỏ.

I.Về những biến động của thế giới

1. Sự chuyển dịch quyền lực và sự điều chỉnh chiến lược

Thế giới đã chứng kiến 3 cuộc chuyển giao quyền lực lớn làm thay đổi cơ bản đời sống quốc tế trên mọi mặt, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hóa. Cuộc chuyển giao quyền lực thứ nhất là sự trỗi dậy của châu Âu từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII dưới tác động của cách mạng công nghiệp, thương mại và đầu tư. Cuộc chuyển giao thứ hai là sự trỗi dậy của Mỹ bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945), Mỹ trở thành siêu cường chi phối trật tự quốc tế cho tới cuối thế kỷ XX. Bước vào thế kỷ XXI, do suy yếu tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nước, nổi bật là Trung Quốc và Ấn Độ dẫn tới sự chuyển dịch quyền lực lần thứ thứ ba trên phạm vi toàn cầu. Đó là sự chuyển dịch trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đông và dẫn tới sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Sự chuyển dịch lần thứ ba này đã và đang tác động đến quan hệ quốc tế, tập hợp lực lượng giữa các nước không chỉ trong phạm vi các khu vực mà biến động sâu sắc tới toàn cầu. Sự chuyển dịch đó làm cho cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn.

Trong bối cảnh như vậy, sự cọ sát và cạnh tranh chiến lược, điều chỉnh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, quyết liệt, tác động sâu rộng đến an ninh, chính trị thế giới.

 

 

Mỹ với mục tiêu duy trì vị thế siêu cường duy nhất, tiếp tục đẩy mạnh chiến lược quân sự, an ninh toàn cầu bằng việc tập hợp lực lượng, điều chỉnh chiến lược với từng khu vực để khống chế, kìm hãm các thế lực thách thức “ngôi vị số 1” của Mỹ. Việc tỷ phú Donald Trump thắng cử và lên làm Tổng thống Mỹ là cú sốc lớn đối với chính trường Mỹ cũng như chính trị quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chính quyền Trump vừa phải thận trọng trong việc tìm cách cân bằng lợi ích của Mỹ trên thế giới, vừa củng cố và tăng cường vị thế siêu cường của Mỹ, đưa nước Mỹ “vĩ đại trở lại”, đảm bảo Mỹ vẫn là quốc gia đặt ra luật chơi trong quan hệ quốc tế. Hiện tại, về kinh tế, Mỹ vẫn là nền kinh tế số một với 18.000 tỷ USD năm 2015, gần bằng 25% (tổng GDP?) toàn cầu. Tài sản tư nhân của Mỹ còn cao hơn thế, đã vượt 90.000 tỷ USD bằng 34% toàn thế giới, giàu hơn cả khối châu Âu và cao hơn nhiều so với có 9% của nền kinh tế Trung Quốc. Mỹ tiếp tục dẫn đầu trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư. Ngân sách quân sự của Mỹ hiện nay gần 700 tỷ USD/năm, chiếm gần 50% chi phí quân sự trên toàn cầu, bằng tổng ngân sách của 12 nước đứng sau. Chi tiêu cho nghiên cứu quốc phòng của Mỹ chiếm 50% tổng chi dành cho nghiên cứu của tất cả các nước khác.

Trung Quốc với sức mạnh được tăng lên sau nhiều năm phát triển, đang mở rộng không gian chiến lược để khẳng định vị thế cường quốc khu vực và quốc tế. Hiện thực hóa “giấc mộng Trung Hoa”, Trung Quốc triển khai nhiều biện pháp chiến lược, như tăng thực lực quân sự, chú trọng phát triển nhanh chóng lực lượng hải quân để mở rộng hoạt động ra hướng biển, gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, Đông Á, từng bước cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương. Tiến bước xa hơn, Trung Quốc đẩy mạnh thực thi chiến lược “Vành đai và con đường”, tham gia và thúc đẩy nhóm nước kinh tế mới nổi (BRICS) và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), hướng tới xây dựng cơ chế hợp tác lấy Trung Quốc là trọng tâm, động lực. Căng thẳng, mẫu thuẫn giữa Trung Quốc với Mỹ đã, đang và sẽ diễn ra tại nhiều khu vực trên thế giới, nhưng ở châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đông theo hướng ngày càng gia tăng.

Tại liên bang Nga, Tổng thống V.Putin đẩy mạnh triển khai chiến lược nhằm giành lại vị thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế nhưng Nga vẫn khẳng định vai trò của một cường quốc. Trong cuộc khủng hoảng Ucraina, Ucraina mong muốn trở thành đồng minh NATO, Nga tìm mọi cách buộc Mỹ và phương Tây muốn giải quyết vấn đề Ucraina phải có sự tham gia của Nga. Đặc biệt, Nga chủ động sáp nhập Crưm đã gây biến động chính trị lớn ở châu Âu khiến căng thẳng giữa Nga, Mỹ và phương Tây càng gay gắt. Mỹ và phương Tây áp dụng nhiều biện pháp trừng phạt về kinh tế và đe dọa về quân sự với Nga… Đối phó với các động thái của phương Tây, Nga tăng cường lực lượng, vũ khí, triển khai tấn công và giành nhiều thắng lợi trong việc sử dụng vũ khí công nghệ cao để không kích lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) ở Syria. Điều đó chứng tỏ, Nga có đủ lực và sẵn sàng bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời buộc Mỹ và phương Tây phải tính tới vai trò của Nga trên thế giới.

Đến năm 2020, Nhật Bản vẫn là cường quốc kinh tế thế giới nhưng nhiều khả năng sẽ bị Ấn Độ thách thức ở vị trí số 3. Mục tiêu chiến lược của Nhật Bản là trở thành một cường quốc phát huy ảnh hưởng cả về kinh tế, chính trị và quân sự trong khu vực và trên thế giới. Chính phủ Nhật Bản triệt để phát huy công cụ “ngoại giao kinh tế”, sửa đổi Hiến pháp, gỡ bỏ ràng buộc nội bộ để tăng quyền tự do hành động trong một số vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, tăng cường quan hệ đồng minh với Mỹ, cùng Mỹ liên kết chặt chẽ và chia sẻ trách nhiệm. Ở khu vực, Nhật Bản tập trung xử lý quan hệ với Trung Quốc về kinh tế và căng thẳng gia tăng trong tranh chấp vùng biển. Nhật Bản quan tâm tới Đông Nam Á vì lợi ích chiến lược và lợi ích kinh tế, tham gia tích cực hơn các cơ chế hợp tác do ASEAN chủ đạo để có vai trò lớn hơn.

Nhiều dự báo cho thấy, Ấn Độ ngày càng rút ngắn khoảng cách với Nhật Bản để vượt lên thành nền kinh tế thứ 3 thế giới. Ấn Độ tiếp tục duy trì cân bằng quan hệ với các nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung Quốc, nhưng cạnh tranh lợi ích với Trung Quốc sẽ gay gắt hơn. Ấn Độ tiếp tục khẳng định ảnh hưởng của mình ở khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương, đẩy mạnh chiến lược “hướng Đông” và gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, quan tâm hơn tới an ninh biển và bảo vệ trật tự biển.

Tình hình Liên minh châu Âu (EU) trong những năm qua cho thấy chính sách đang hướng vào bên trong để xử lý các vấn đề nổi cộm như Brexit, khủng hoảng nợ công, khủng hoảng nhập cư, phòng chống khủng bố quốc tế, vì vậy sự quan tâm và nguồn lực dành cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương có chiều hướng giảm đi. Tuy nhiên, EU vẫn duy trì quan hệ với các đối tác ở các khu vực khác trong đó có ASEAN.

Trong bối cảnh chung của thế giới, ASEAN tiếp tục giữ và khai thác vị trí địa chiến lược của mình, bảo đảm khả năng thích ứng và tự chủ trong quan hệ với các nước lớn. ASEAN ưu tiên triển khai tầm nhìn 2025 và các kế hoạch hợp tác trên 3 trụ cột chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội; thu hẹp khoảng cách phát triển và tăng cường kết nối; duy trì đoàn kết nội khối; tăng cường quan hệ đối ngoại với tất cả các đối tác ngoài khu vực, trong đó có EU.

Như vậy, cạnh tranh quyền lực, lợi ích và vị thế chiến lược giữa các nước, đặc biệt là giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga đang diễn ra ngày càng quyết liệt. Tình hình đó dẫn tới xu hướng liên minh, liên kết, tập hợp lực lượng và chạy đua vũ trang mang tính đối đầu có chiều hướng gia tăng. Từ đó sẽ nảy sinh những điểm nóng tại nhiều khu vực trên thế giới, làm cho tình hình an ninh thế giới có nhiều biến động.

 

 

2. Các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống ngày càng nghiêm trọng

Ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều chịu tác động của vấn đề toàn cầu như khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa thiên tai, thảm họa môi trường sinh thái, nghèo đói và dịch bệnh, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng. Trong những vấn đề gay cấn và là những thách thức to lớn đó, cạn kiệt tài nguyên, nhất là năng lượng và nguồn nước đang là vấn đề nổi trội, tác động tới an ninh và phát triển của nhiều nước, nhiều khu vực. Nhu cầu về tài nguyên của các nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế của các nước đang phát triển sẽ tăng vọt dẫn tới việc cạnh tranh các nguồn tài nguyên vốn đã gay gắt sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.

Cùng với những vấn đề đe dọa an ninh toàn cầu nêu trên, an ninh biển cũng đang nổi lên trong thời gian tới. An ninh biển không chỉ liên quan đến an toàn các tuyến đường hàng hải mà ngày càng mở rộng ra các khía cạnh khác như an ninh môi trường biển, các nguồn lợi hải sản. Do tác động của việc gia tăng các tranh chấp biển, đảo và các chuyển biến của an ninh phi truyền thống khác, an ninh biển sẽ trở thành một trong những vấn đề chi phối quan hệ giữa các nước.

Trong một bài phát biểu của mình, nguyên Tổng Thư ký Liên hợp quốc  Ban Ki-moon đã nhận xét: “chân trời có vẻ tối đi”. Thế giới đang ở trong thời kỳ có nhiều xáo động. Chủ nghĩa dân tộc nổi lên rất mạnh, chủ nghĩa phân hóa cũng đang phát triển và những tư tưởng cũng như hành vi cường quyền, cực đoan đang trỗi dậy. Trong khi các cuộc “Cách mạng màu” đã làm tan hoang một số nước tại Trung Đông, Bắc Phi; thì chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố quốc tế chưa bao giờ phức tạp như bây giờ. Chủ nghĩa khủng bổ, điển hình là IS vẫn đang duy trì hoạt động tại Irắc, Syria và ở một số nước khác, đã không chỉ gây ra những bất ổn và biến động chính trị, quốc phòng, an ninh tại nhiều nước mà còn lôi cuốn nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực vào “chảo lửa” này. Nguy hiểm hơn, các tổ chức khủng bố đang mở rộng địa bàn hoạt động sang châu Âu, châu Á gây mất an ninh, an toàn xã hội. Những vụ tấn công nhằm vào Pháp, Bỉ, Anh, Nga, lan sang một số nước Đông Nam Á như Philippin, Indonexia cho thấy tất cả những điều đó không thể giải quyết trong một sớm, một chiều, mà sẽ kéo dài, vô cùng phức tạp.

3. Trào lưu dân túy, xu hướng bảo hộ có chiều hướng gia tăng

(1) Về trào lưu dân túy

Trào lưu dân túy trong thời gian gần đây đang ngày càng gia tăng, nổi lên mạnh mẽ ở các nước phát triển. Ở châu Âu, lần đầu tiên các đảng dân túy có mặt tại hầu hết các quốc hội, chiếm ít nhất 10% số phiếu ủng hộ tại 16 nghị viện châu Âu, là lực lượng lớn nhất trong quốc hội 6 nước (Hy Lạp, Hunggari, Italia, Ba Lan, Slovakia và Thụy Sỹ). Trào lưu dân túy ở châu Âu có đặc điểm là phản đối xu hướng liên kết hội nhập, phê phán các chính sách ủng hộ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chống nhập cư, phản đối việc đặt lợi ích của EU lên trên chủ quyền và lợi ích quốc gia. Ở Mỹ, trào lưu dân túy cánh hữu nổi lên lôi kéo sự tham gia của nhiều thành viên Đảng Cộng hòa và đỉnh điểm là thắng lợi trong bầu cử Tổng thống D.Trump, đánh dấu việc lần đầu tiên một ứng cử viên theo đường lối dân túy nắm quyền lãnh đạo nước Mỹ với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết”. Trào lưu dân túy hiện đang gây ra một số tác động khá tiêu cực. Ở trong nước, các trào lưu dân túy cổ vũ cho việc xây dựng một nhà nước mạnh và chuyên chế, đủ năng lực để kiểm soát chặt chẽ lãnh thổ và biên giới quốc gia, bảo vệ lợi ích của người dân. Kết quả lại làm tăng thêm các mâu thuẫn nội bộ, đẩy tình trạng bất ổn lên cao, làm cho chính sách đối nội và đối ngoại bất định. Đối với bên ngoài, trào lưu này chống liên kết, hội nhập quốc tế và khu vực, gắn ưu tiên thậm chí ly khai khỏi các cơ chế đa phương như trường hợp Anh rút khỏi EU, Mỹ rút khỏi TPP và rút khỏi Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu. Điều đó làm giảm hợp tác, tăng cạnh tranh, xung đột và do đó đưa đến những căng thẳng mới trong quan hệ quốc tế.

(2) Xu hướng bảo hộ

Gần đây xu hướng bảo hộ hoặc còn gọi là chủ nghĩa bảo hộ phát triển mạnh tại Mỹ và một số nước Tây Âu. Tại các nước này, những lực lượng ủng hộ tự do hóa kinh tế đang suy yếu và co lại, trong khi trào lưu phản kháng tự do hóa, phản kháng toàn cầu hóa lại trỗi dậy, nhất là sau sự kiện Brexit và bầu cử Tổng thống Mỹ. Thực hiện theo xu hướng đó, số lượng biện pháp bảo hộ tăng mạnh, lĩnh vực bảo hộ mở rộng với nhiều biện pháp phức tạp, tinh vi hơn. Theo thống kê của WTO, trong giai đoạn từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 10 năm 2016, các nước thành viên G20 đã áp dụng 85 biện pháp hạn chế thương mại. Bảo hộ không còn chỉ giới hạn trong lĩnh vực trao đổi hàng hóa dịch vụ, mà còn bao gồm cả tài chính, bảo hộ đầu tư, sở hữu trí tuệ, dịch vụ tự do lao động.

Việc quay trở lại chủ nghĩa bảo hộ, đóng cửa thị trường, hạn chế liên kết kinh tế, giảm sự ủng hộ đối với tự do thương mại đa phương, cản trở thương mại và đầu tư quốc tế đã và đang tạo ra hệ lụy tiêu cực đến tiến trình tăng trưởng kinh tế thế giới và làm chậm lại quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng trên thế giới. Xu hướng bảo hộ ở một số nền kinh tế lớn, đặc biệt là Mỹ sẽ làm tăng mâu thuẫn, bất đồng vốn có về một số vấn đề kinh tế, thương mại, do đó làm gia tăng va chạm lợi ích, không loại trừ có những hành động “trả đũa” dẫn tới chiến tranh thương mại, tỷ giá. Tình hình đó làm cho liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu đứng trước nhiều khó khăn, toàn cầu cầu hóa có xu hướng bị chậm lại.

II. Thời cơ và thách thức đối với các nước vừa và nhỏ  

1. Thời cơ

Các nước vừa và nhỏ trong đó có Việt Nam sẽ trở thành đối tượng lôi kéo, tranh giành của các nước lớn trên thế giới, không những về chính trị mà còn về kinh tế. Nếu các nước vừa và nhỏ biết tận dụng thời cơ này, củng cố đoàn kết, tăng cường tiếng nói trong đời sống chính trị quốc tế, cùng nhau đưa ra những “luật chơi” mới về chính trị, kinh tế để đỡ bị thiệt thòi, để được tôn trọng, bình đẳng, công bằng hơn, thì các nước lớn sẽ phải có những nhượng bộ, tuy không lớn.

Các nước vừa và nhỏ tăng cường quan hệ với tất cả các nước lớn, không nghiêng hẳn về bên nào, không để bị biến thành lệ thuộc vào nước lớn nào. Sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc đem lại sự thay đổi mạnh mẽ trong việc tập hợp lực lượng. Các nước không còn chú trọng gắn kết với nhau theo ý thức hệ như trước, mà dựa trên những lợi ích đan xen về kinh tế, chính trị, an ninh với mục tiêu chính là phục vụ cho lợi ích quốc gia, đồng thời bảo vệ lợi ích của mình trên thế giới. Chính điều này đã làm giảm ảnh hưởng của Mỹ, khó có thể buộc các nước phải phục tùng Mỹ như trong trật tự thế giới “hai cực” trước đây.

Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cục diện khu vực mới với sự can dự ngày càng mạnh mẽ của Mỹ, sự lớn mạnh của Trung Quốc và sự dính líu ngày càng sâu vào các vấn đề khu vực của các cường quốc trên thế giới mở ra thời cơ để các nước trong khu vực phát triển quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ cũng như với các cường quốc khác, tạo ra môi trường quốc tế rất thuận lợi cho tăng cường xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển của khu vực. Trong bối cảnh đó, đặc điểm về hợp tác và cạnh tranh giữa các nước lớn ở tầm toàn cầu cũng được thể hiện trong khu vực.

Mặc dù ASEAN còn có không ít khó khăn và hạn chế, nhưng nhiều khả năng ASEAN sẽ tiếp tục là nhân tố thúc đẩy hợp tác khu vực, vì:

Thứ nhất, nghi kỵ và thiếu niềm tin chính trị giữa các nước lớn tạo điều kiện cho ASEAN đóng vai trò “trung tâm” trong việc xây dựng các cơ chế hợp tác khu vực. Các nước lớn sẽ dễ dàng hơn trong việc xem xét các cơ chế hợp tác, đối thoại do ASEAN khởi xướng, điều phối.

Thứ hai, thành công của từng nước thành viên ASEAN trong sự nghiệp phát triển đất nước theo hướng hiện đại hóa và của cả khối ASEAN trong vai trò duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực làm cho ASEAN trở thành một trong những tổ chức khu vực tiếp tục có vai trò đối với trật tự ở khu vực Đông Á.

Thứ ba, ASEAN đã hình thành Cộng đồng với ba trụ cột từ cuối năm 2015, theo đó, hợp tác sẽ đi vào thực chất hơn. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để ASEAN đóng vai trò hạt nhân trong hợp tác giữa ASEAN với các nước lớn. Do cạnh tranh chiến lược với nhau, nên các nước lớn đều ủng hộ vai trò của ASEAN trong nỗ lực xây dựng thể chế hợp tác khu vực. Các diễn đàn như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Đối thoại Shangri-La, Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS),...là những cơ chế hợp tác - dù còn một số hạn chế - được xem là không thể thay thế ở châu Á - Thái Bình Dương. Nói cách khác, ASEAN đang đóng vai trò thúc đẩy hợp tác khu vực, tạo nên đặc điểm quan trọng ở châu Á - Thái Bình Dương là một khối các nước nhỏ được các nước lớn ủng hộ, đang chi phối tiến trình, hợp tác khu vực.

Do đó, để ASEAN có thể duy trì và tăng cường vai trò của mình ở Đông Á từ nay đến 2020 thì ASEAN phải thích ứng tốt hơn trước các thách thức mới nảy sinh, chủ động và hiệu quả hơn trong môi trường Đông Á đang thay đổi. Muốn vậy, ASEAN nói chung và từng thành viên ASEAN cần có một số điều chỉnh trong phương cách tham gia hợp tác ASEAN.

Như vậy, vai trò của các nước vừa và nhỏ sẽ được các nước lớn tranh thủ, đề cao nếu tập hợp lại trong một tổ chức khu vực có cơ chế hoạt động chặt chẽ, đoàn kết; có khả năng bảo vệ được quyền lợi của mình trong một trật tự thế giới đang hình thành, và trong cục diện thế giới, khu vực đầy biến động.

2. Thách thức

Tuy nhiên, cục diện thế giới theo xu thế “đa trung tâm” cũng như sự can dự của nhiều nước lớn đặt ra những thách thức đối với các nước vừa và nhỏ trong việc giữ vững độc lập, tự chủ.

Các nước lớn sẽ tìm cách tranh thủ, bành trướng thế lực bằng “quyền lực mềm”, buộc các nước lệ thuộc nhiều hơn thông qua các quan hệ kinh tế, đầu tư, thương mại, chuyển giao công nghệ, viện trợ, cho thuê lãnh thổ làm “đặc khu kinh tế”,... dẫn tới lệ thuộc về chính trị vào một “cực”, một “trung tâm” nhất định. Thách thức gay gắt đặt ra cho các nước vừa và nhỏ là tránh nguy cơ bị phụ thuộc, nhất là phụ thuộc kinh tế, vào một cường quốc.

Sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc một cách nhanh chóng đã gây ra quan ngại lớn cho nhiều quốc gia trên thể giới, đặc biệt là Mỹ. Mỹ coi Trung Quốc là cường quốc có nhiều khả năng nhất thách thức vị thế lãnh đạo số một của Mỹ trong tương lai, do vậy Mỹ tìm mọi cách tập hợp lực lượng nhằm kiềm chế Trung Quốc. Bản thân Trung Quốc cũng luôn chú ý lôi kéo các nước khác, nhằm tăng cường sức mạnh, phạm vi ảnh hưởng của mình và phá vỡ thế bao vây của Mỹ. Cho nên, một thách thức lớn khác đối với các nước vừa và nhỏ là phải tạo thế “cân bằng” tương đối trong quan hệ với các nước lớn, không quá thiên về bất kỳ nước lớn nào để trở thành đối đầu với cường quốc khác, hứng chịu xung đột vũ trang và chiến tranh. Kinh nghiệm cũng cho thấy, khi quyền lợi giữa các nước lớn bị cọ sát, có thể xảy ra xung đột, thì các nước lớn tìm cách chuyển hóa xung đột ấy sang các nước vừa và nhỏ. Nói cách khác, nước lớn sẽ tìm cách tiến hành “chiến tranh ủy nhiệm” như trong thế kỷ XX tại các nước vừa và nhỏ, nhất là ở nơi tập trung cao độ mâu thuẫn lợi ích giữa các nước lớn.

Mọi động thái tập hợp lực lượng của Mỹ hoặc Trung Quốc để kiềm chế lẫn nhau đều gây ra những căng thẳng, xung đột lợi ích nhất định và đặc biệt là sự nghi kỵ lẫn nhau giữa hai nước cũng như với quốc gia khác ngày càng tăng lên. Mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định “phát triển hòa bình”, nhưng lịch sử bành trướng, tham vọng chủ quyền, đặc biệt là những biểu hiện cứng rắn gần đây của Trung Quốc ở các vùng biển làm nhiều nước lo ngại, có thể dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực. Tình hình ấy đặt ra các nước vừa và nhỏ đứng trước thách thức là phải dành nguồn lực nhất định cho sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. 

Bên cạnh đó, việc phải tìm cách giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống (thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh nguồn nước...) cũng như khắc phục những hệ lụy do các chính sách theo chủ nghĩa dân túy và xu hướng bảo hộ gây ra tiếp tục đặt ra những thách thức đối với các nước vừa và nhỏ không chỉ về nhân lực, vật lực, tài lực, mà còn phải có cách hiểu mới, cách ứng xử mới về khái niệm “chủ quyền quốc gia” thời kỳ hội nhập quốc tế, trong đó, các quốc gia ngày càng lệ thuộc nhau sâu sắc hơn.

 

 

Những biến động đang diễn ra trên thế giới đã dẫn tới nhiều hệ lụy to lớn đối với vấn đề hòa bình, ổn định và phát triển của nhân loại. Thực tế các vấn đề đó vẫn đã và đang tiềm ẩn những yếu tố có thể dẫn đến biến động phức tạp hơn và phạm vi rộng lớn hơn. Vì vậy, ngăn chặn xung đột, dập tắt những mầm mống gây ra biến động là vấn đề bức thiết đối với các quốc gia và với toàn thế giới trong đó các đảng chính trị đóng vai trò quan trọng.

Đảng Cộng sản Việt Nam “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế… Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”[1]./.

 

GS.TS. Vũ Văn Hiền

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.153.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết