Nước Anh được coi là nơi xuất hiện các đảng chính trị đầu tiên trên thế giới, từ cuối thế kỷ XVII, với hai đảng đầu tiên được biết đến với cái tên là đảng Whig và đảng Tory. Nhưng phải đến năm 1834, với sự xuất hiện của Đảng Bảo thủ (Conservative Party), đảng chính trị ở Anh (theo nghĩa hiện đại) mới chính thức ra đời. Từ sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai đến nay, Đảng Bảo thủ và Công đảng luôn thống lĩnh chính trị nước Anh, thay nhau lên nắm quyền. Do vậy, mô hình hệ thống chính trị Anh quốc còn được gọi là mô hình chính trị lưỡng đảng.
1. Khái quát về các đảng cầm quyền ở Anh
1.1. Công đảng
Năm 1900, Công đảng Anh được thành lập với tư cách đại diện chính trị cho những lợi ích của giai cấp công nhân và các tổ chức công đoàn. Tên ban đầu của nó là Ủy ban Đại diện Lao động (The Labour Representation Committee) trên cơ sở liên hợp giữa Tổ chức Nghiệp đoàn (Trade Union Congress) và Đảng Lao động độc lập (Independent Labour Party), đến năm 1906, tổ chức này mới lấy tên là Công đảng (Labour Party). Năm 1924, lần đầu tiên Công đảng trở thành đảng cầm quyền ở Vương quốc Anh và tiếp đó, Công đảng đã nắm quyền lãnh đạo đất nước qua các thời kỳ 1929-1931, 1945-1951, 1964-1970, 1974-1979 và 1997-2010. Từ tháng 9-2015 đến nay, Chủ tịch Công đảng là ông Jeremy Corbyn.
Cơ cấu tổ chức của Công đảng:
- Lãnh tụ Đảng (Leader of Party): Lãnh tụ Đảng vừa là Chủ tịch đảng, vừa là Chủ tịch Đảng Nghị viện, có quyền lực tương đối lớn, do Đảng Nghị viện cùng với một số đại diện từ các cơ sở đảng bầu ra. Khi Công đảng cầm quyền, Lãnh tụ Đảng sẽ đảm nhận chức Thủ tướng, đồng thời chỉ huy các thành viên Nội các; khi Công đảng không nắm quyền sẽ là lãnh tụ của đảng đối lập, đồng thời chỉ định chức vụ cụ thể cho các thành viên của “Nội các bóng” mà Đảng Nghị viện bầu. Khi Công đảng không cầm quyền, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Đảng phải tiến hành bầu lại ở Đại hội Đảng hàng năm (hoặc ở Hội nghị bầu cử do Ban Chấp hành quốc gia đặc biệt bố trí), còn khi đang chấp chính thì không cần bầu lại. Điều đó có nghĩa là, Lãnh tụ Đảng sẽ có nhiệm kỳ Thủ tướng ngang bằng với nhiệm kỳ của Hạ viện (trong trường hợp đặc biệt, Thủ tướng từ chức giữa nhiệm kỳ thì Đại hội Đảng sẽ bầu lãnh tụ mới và tiếp nhận chức vụ Thủ tướng mà không cần phải tổ chức một cuộc bầu cử Nghị viện mới).
- Đại hội Đảng: Đại hội Đảng được tổ chức hàng năm, là cơ quan quyết sách cao nhất của Công đảng. Theo Điều lệ Đảng, hoạt động của Công đảng được tiến hành dưới sự chỉ đạo và kiểm soát của Đại hội Đảng. Đại hội Đảng bầu ra Ban Chấp hành quốc gia (National Executive Commitee - NEC). Thành viên của Đại hội có khoảng hơn 1000 đại biểu được uỷ nhiệm từ các bộ phận của Đảng như: Đảng Nghị viện, công đoàn, khu vực bầu cử,... Đại hội Đảng quyết định chính sách và những vấn đề quan trọng của Đảng. Những đề xuất nhận được ít nhất 2/3 đại biểu tán thành sẽ trở thành một phần nghị quyết của Đảng. Tuy nhiên, Lãnh tụ Đảng kết hợp với NEC có quyền bổ sung thêm các chính sách của Đảng.
- Ban Chấp hành quốc gia (NEC): Là cơ quan quản lý cao nhất của Công đảng, gồm 29 thành viên, trong đó 27 thành viên được toàn thể Đại hội hoặc một bộ phận thành viên Đại hội bầu ra, đại diện cho các bộ phận khác nhau của Đảng. Theo Điều lệ Đảng, NEC chịu sự chỉ đạo, điều hành của Đại hội Đảng và có quyền điều hành hoạt động của Đảng giữa hai kỳ Đại hội.
- Đảng Nghị viện (Parliamentary Labour Party - PLP): Bao gồm các nghị sĩ là đảng viên của Công đảng, có vai trò đại diện cho chính sách, lợi ích của Đảng cũng như lợi ích của các cử tri ở Nghị viện. Đảng Nghị viện luôn giữ vị trí rất quan trọng trong cơ cấu tổ chức của Công đảng (cùng với tổ chức Đảng ở các khu vực bầu cử; công đoàn và các tổ chức phụ thuộc khác). Khi Công đảng là đảng đối lập, LPL có quyền bầu “Nội các bóng” (Shadow Cabinet). Đại hội Đảng có trách nhiệm hướng dẫn Đảng Nghị viện và các thành viên Nghị viện thực hiện chương trình hành động, nhưng biện pháp và thời gian lại do PLP quyết định.
- Tổ chức đảng khu vực bầu cử (Constituency Labour Parties - CLP): Là tổ chức cơ sở của Công đảng, có nhiệm vụ chính là xem xét và quyết định các ứng cử viên tranh cử vào Nghị viện, để Ban Chấp hành quốc gia thông qua. Ngoài ra, CLP còn thực hiện các nhiệm vụ khác như tăng nguồn tài chính, tuyên truyền chính sách của Đảng, tổ chức vận động bầu cử. Tổ chức Đảng ở mỗi khu vực bầu cử đều thiết lập “Hội đồng quản lý” khoảng 50 người gồm đại biểu của đoàn thể đảng viên cá nhân chiếm 60% và đại biểu của các tổ chức phụ thuộc (công đoàn, hợp tác xã…) chiếm 40%.
Quyền lực của Công đảng tập trung chủ yếu ở Lãnh tụ Đảng, Đại hội Đảng và Ban Chấp hành quốc gia. Hệ thống tổ chức và kỷ luật của Công đảng khá chặt chẽ. Mặc dù Công đảng cũng bao gồm nhiều phe phái với những lợi ích hết sức đa dạng và phức tạp, nhưng đấy là vấn đề trong nội bộ Đảng. Còn khi thể hiện ra bên ngoài, họ luôn là một khối thống nhất. Các hoạt động, ngôn luận của ứng cử viên nghị sĩ, người phát ngôn của Đảng và các tổ chức Đảng khu vực bầu cử phải chịu sự chỉ đạo và giám sát của Ban Chấp hành quốc gia và Lãnh tụ Đảng. Nếu các nghị sĩ của Công đảng làm cho danh dự của Đảng bị tổn hại thì Lãnh tụ Đảng có quyền khai trừ họ ra khỏi Đảng[1]. Thông qua những quy định đó, quyền hạn của Ban Chấp hành quốc gia và Lãnh tụ Đảng được tăng cường, quyền hạn của tổ chức cơ sở bao gồm các đoàn thể như công đoàn và tổ chức Đảng khu vực bầu cử bị cắt giảm.
1.2. Đảng Bảo thủ
Đảng Bảo thủ (Conservative Party), có tên chính thức là Đảng Bảo thủ và Liên hiệp (Conservative and Unionist Party), là một đảng chính trị lớn theo đường lối trung hữu ở Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Đảng Bảo thủ có nguồn gốc sâu xa từ Đảng Tory, một đảng bảo hoàng vào thế kỷ XVII. Vì vậy, Đảng Bảo thủ hiện vẫn còn được biết với cái tên Tory Party và các chính trị gia thuộc đảng này cùng những người ủng hộ vẫn được gọi là Tories. Vào đầu thế kỷ XX, Đảng Bảo thủ thành lập một liên minh với phe Liên hiệp của Đảng Tự do (phe Liên hiệp chống lại sự ủng hộ của Đảng Tự do đối với việc trao quyền tự chủ cho Ireland trong Liên hiệp Vương quốc Anh và Ireland). Từ đó, Đảng có tên là Bảo thủ và Liên hiệp như hiện nay.
Đảng Bảo thủ nắm chính quyền trong 2 phần 3 thế kỷ XX. Hiện Ðảng Bảo thủ là đang là đảng cầm quyền (từ năm 2010). Lãnh tụ Đảng là Thủ tướng Theresa May (giữ chức từ ngày 13-7-2016).
Khó có thể xác định được tư tưởng của Đảng Bảo thủ. Đảng Bảo thủ có truyền thống gắn liền với chủ nghĩa thực dụng hơn là lý thuyết, cải cách dần dần hơn là những thay đổi cấp tiến. Tuy nhiên, có hai khuynh hướng cùng tồn tại trong Đảng Bảo thủ, đó là khuynh hướng tự do mới và quốc gia duy nhất. Hai xu hướng này cùng chia sẻ một số giá trị cơ bản và chỉ khác biệt về thái độ đối với các chính sách kinh tế - xã hội. Chẳng hạn, khuynh hướng “tự do mới” ủng hộ tự do, chính phủ có giới hạn, tự do kinh doanh, thuế thấp, chi phí chính phủ thấp trong khi đó khuynh hướng “quốc gia duy nhất” lại ủng hộ sự can thiệp của nhà nước để khắc phục những thất bại của thị trường.
Cơ cấu tổ chức của Đảng Bảo thủ:
Cấu trúc của Đảng Bảo thủ cũng bao gồm các thành phần như Công đảng, nhưng các mối quan hệ đơn giản hơn vì quyền quyết định tối cao của Lãnh tụ Đảng khá rõ ràng.
Lãnh tụ Đảng là người đứng đầu Đảng Bảo thủ và sẽ trở thành Thủ tướng khi Đảng giành được thắng lợi qua bầu cử Hạ viện. Sau những cải cách của Công đảng từ năm 1993, Đảng Bảo thủ cũng tiến hành sửa đổi phương thức bầu lãnh tụ của mình. Theo Điều lệ của Đảng Bảo thủ (được sửa đổi vào năm 1998), ứng cử viên Lãnh tụ Đảng phải được lựa chọn trong số các nghị sỹ của Đảng trong Nghị viện.
Theo quy định, việc bầu chọn Lãnh tụ Đảng được thực hiện khi một lãnh tụ đương nhiệm từ chức, hoặc bị các nghị sỹ của Đảng trong Nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm. Trường hợp thứ hai sẽ diễn ra nếu có trên 15% số nghị sỹ của Đảng đề nghị. Nếu đa số nghị sỹ của Đảng trong Nghị viện vẫn bỏ phiếu ủng hộ lãnh tụ đương nhiệm, thì người này tiếp tục được tại vị. Trường hợp ngược lại, sẽ phải từ chức và không thể ra ứng cử. Việc đề cử các ứng cử viên sẽ do Chủ tịch nhóm nghị sỹ trong Nghị viện chủ trì. Các ứng cử viên phải được giới thiệu công khai bởi ít nhất hai nghị sỹ. Nếu có nhiều ứng cử viên ra tranh cử, các nghị sỹ của Đảng trong Nghị viện sẽ bầu chọn 2 ứng cử viên được tín nhiệm nhất và giới thiệu cho toàn Đảng lựa chọn[2]. Ở vòng bỏ phiếu chung cuộc này, tất cả những đảng viên đã gia nhập Đảng từ 3 tháng trở lên có đủ tư cách đi bầu và ứng cử viên nào giành được số phiếu cao hơn sẽ chiến thắng. Vào năm 2005, một đề xuất thay đổi cách thức bầu chọn lãnh tụ của Đảng Bảo thủ đã được Lãnh tụ Đảng lúc đó là Michael Howard đưa ra, theo hướng loại bỏ quyền bầu lãnh tụ trực tiếp của các đảng viên thường, và trao quyền lựa chọn này cho các nghị sỹ của Đảng trong Nghị viện và Đại hội Đảng, nhưng đề xuất này đã không được thông qua[3].
Ở vị trí đảng đối lập, Lãnh tụ Đảng có quyền lựa chọn các thành viên Nội các bóng, hay còn gọi là Ủy ban tư vấn.
Tiếp đó là Đảng Nghị viện (Parliamentary Conservative Party - PCP), bao gồm các Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ là đảng viên Đảng Bảo thủ. Hạ nghị sĩ Đảng Bảo thủ có quyền bầu ra Lãnh tụ Đảng. Lãnh tụ Đảng bổ nhiệm Chủ tịch và các thành viên chính của Ủy ban điều hành (Conservative Private Members' Committee), Ủy ban này còn được gọi là Ủy ban 1922, có trách nhiệm điều hành Cơ quan Đảng bao gồm cả các Ban Nghiên cứu và có một vai trò quan trọng trong việc lựa chọn Lãnh tụ Đảng (Thủ tướng, khi Đảng cầm quyền). Cuối cùng là Hội nghị Bảo thủ Quốc gia (National Conservative Convention - NCC) có trách nhiệm liên kết các tổ chức Đảng khu vực bầu cử và tổ chức Đại hội Đảng hàng năm.
Đại hội Đảng của Đảng Bảo thủ khác với Đại hội Đảng của Công đảng ở 3 điểm chính: Thứ nhất, thành phần tham dự là đại diện của hiệp hội các khu vực bầu cử và Cơ quan Đảng, chứ không phải là các đại biểu được ủy nhiệm. Thứ hai, các Nghị quyết của Đại hội chỉ có tính chất tư vấn cho Lãnh tụ Đảng. Thứ ba, đây là Đại hội của Hội nghị Bảo thủ Quốc gia chứ không phải của toàn Đảng.
Có thể thấy, cấu trúc quyền lực của Đảng Bảo thủ được tổ chức theo hình tháp có thứ bậc. Quyền lực tập trung ở Lãnh tụ Đảng và PCP. Trong khi đó, cấu trúc quyền lực của Công đảng không phải hình tháp mà là dàn hàng ngang nhau theo đường thẳng giữa các bộ phận. Lãnh tụ Đảng và PLP chỉ là một bộ phận của Đảng.
Cách thức tổ chức của Đảng Bảo thủ và Công đảng là khác nhau. Song ở mỗi cách tổ chức đều có sự thống nhất và kỷ luật đúng mức theo tư tưởng của đảng, chọn ra các ứng cử viên nghị sĩ và Lãnh tụ Đảng theo cách của mình.
2. Nội dung và phương thức lãnh đạo của các đảng cầm quyền ở Anh
2.1. Nội dung lãnh đạo
Thứ nhất, các đảng đều tuyển chọn cán bộ của mình vào nắm giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước.
- Lựa chọn Lãnh tụ Đảng: Lãnh tụ là người thay mặt Đảng vạch ra các định hướng phát triển, điều hành và quyết định những công việc hàng ngày của Đảng. Do vậy, đối với các đảng chính trị ở Anh, việc lựa chọn được Lãnh tụ Đảng có năng lực và uy tín là rất quan trọng. Đây cũng có thể là yếu tố quyết định sự thành công của một đảng chính trị trong sự cạnh tranh với các đảng phái khác trong cuộc đua giành quyền kiểm soát bộ máy nhà nước. Các đảng, dù cầm quyền hay không cầm quyền cũng đều thiết kế quy trình hợp lý để lựa chọn Lãnh tụ Đảng.
Quy trình bầu Lãnh tụ Đảng của Đảng Bảo thủ như sau: Các ứng cử viên cần có sự ủng hộ của 10% của các đảng viên nghị viện mới được tham gia lựa chọn. Lần bỏ phiếu thứ nhất: người chiến thắng cần phải có một đa số phiếu tổng thể của những đảng viên đủ tư cách bỏ phiếu đồng thời phải vượt một tỷ lệ 15% đối với đối thủ cạnh tranh gần nhất. Lần bỏ phiếu thứ hai được thực hiện nếu lần 1 chưa có kết quả. Trong lần này các ứng cử viên mới có thể tham gia, các ứng cử viên cũ có thể tiếp tục hoặc rút lui. Người chiến thắng chỉ cần đạt được đa số phiếu. Lần bỏ phiếu thứ ba được tiến hành nếu lần thứ hai chưa có kết quả. Ở lần này chỉ có hai người đứng đầu ở hai lần bỏ phiếu trước được tham dự. Nếu kết quả ngang nhau sẽ tiếp tục lần bỏ phiếu lần thứ 4.
Còn các ứng cử viên của Công đảng phải có sự ủng hộ của 12,5% PLPs, hoặc 20% nếu muốn cạnh tranh với Lãnh tụ Đảng đương nhiệm[4]. Công đảng sử dụng hệ thống bầu cử ưu tiên. Để chiến thắng ngay, ứng cử viên phải giành được trên 50% số phiếu tính trung bình của cả 3 thành phần của Liên đoàn bầu cử. Nếu không có kết quả ngay lần đầu, những người có số phiếu thấp nhất bị loại bỏ và tiếp tục bầu lại.
Lãnh tụ Đảng trong thời gian làm thủ tướng không thể bị bãi bỏ, trừ khi Đại hội Đảng hàng năm yêu cầu. Nếu như Lãnh tụ Đảng, đồng thời là Thủ tướng bị chết hoặc vắng mặt trong nhiệm kỳ của mình thì Nội các sẽ chọn một trong số thành viên Nội các và đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng cho đến khi Liên đoàn bầu cử của Đảng chọn được người mới. Lãnh tụ Đảng thường là những người có thâm niên trong hoạt động nghị trường, thường trung bình 20 năm, có thời gian làm việc ở Nội các. Vì vậy, họ có cơ hội rèn luyện kỹ năng điều hành Nghị viện và Đảng. Ở cấp Đảng, Nghị viện và Nội các thường thu hút những người có những phẩm chất cá nhân như đáng tin cậy, tự chủ ...
- Lựa chọn các ứng cử viên tranh cử vào Nghị viện: Vì các ứng cử viên của đảng có trúng cử vào Nghị viện hay không sẽ quyết định việc đảng đó có chiếm được đa số ở Nghị viện và thành lập chính phủ hay không, nên việc lựa chọn các ứng cử viên cũng là một nội dung quan trọng của cả đảng đang cầm quyền và không cầm quyền. Các đảng đều có một quy trình riêng để lựa chọn ứng cử viên ra cạnh tranh trong cuộc bầu cử vào Hạ viện. Ở cả Công đảng và Đảng Bảo thủ, chính các nhà hoạt động đảng chuyên nghiệp và các thành viên đảng đóng đảng phí ở mỗi khu vực bầu cử sẽ là người lựa chọn các ứng cử viên của đảng họ.
Việc lựa chọn các ứng cử viên mỗi khu vực bầu cử có vai trò quyết định đến kết quả thắng - thua của các đảng. Vì vậy, công việc này được thực hiện rất công phu và mang tính chuyên nghiệp. Các ứng cử viên khu vực bầu cử được tổ chức đảng khu vực bầu cử xem xét, quyết định. Sau đó hồ sơ về các ứng cử được Ủy ban điều hành của đảng xem xét cẩn thận và phỏng vấn riêng nếu cần. Mặc dù Ủy ban điều hành hiếm khi áp đặt các ứng cử viên của mình tham gia bầu cử ở khu vực địa phương, thì tất cả các ứng cử viên được bầu chọn bởi đảng khu vực bầu cử phải được sự chấp thuận của Ủy ban điều hành. Kết quả là các ứng cử viên - cũng như các thành viên đương nhiệm trong Nghị viện (Member of Parliament - MP) có xu hướng phụ thuộc khá lớn vào Lãnh tụ Đảng. Nếu như Lãnh tụ Đảng từ chối một ứng một ứng cử viên, thì người này sẽ không thể chạy đua vào Nghị viện với tư cách là ứng cử viên chính thức của đảng. Vì vậy, điều đầu tiên cho ứng cử viên nào muốn vào Nghị viện là phải có được sự chỉ định chính thức của đảng chính trị, đứng ở cương vị là đại diện của đảng đó (tất nhiên một người nào đó vẫn có thể tự ứng cử một cách độc lập). Một nghiên cứu về động cơ của việc lựa chọn ứng cử viên cho thấy rằng, các đảng đều lựa chọn ứng cử viên vì khả năng giành phiếu của họ, chứ không phải vì những lý do thuộc về tư tưởng hay bất kỳ lý do nào khác.
Quá trình bầu cử các thành viên Nghị viện cũng đồng nghĩa với việc bầu Thủ tướng chính phủ. Mỗi đại biểu chỉ tranh cử trong khu vực của mình. Vì vậy, các Thủ tướng Anh đều được bầu ra bởi một nhóm cử tri ở một khu vực bầu cử nhỏ, các ứng cử viên ở các khu vực bầu cử khác muốn ủng hộ ai làm Thủ tướng sẽ phải bỏ phiếu cho ứng cử viên của đảng mình ở khu vực bầu cử của mình, với hy vọng đảng sẽ giành được đa số các khu vực bầu cử một thành viên này.
Kết quả bầu cử Nghị viện sẽ quyết định đảng nào cầm quyền được thành lập chính phủ và đảng nào ở vị trí đối lập. Các nghị sĩ của đảng ở Nghị viện là cơ sở, nguồn lực chính cho Thủ tướng thành lập Nội các và chính phủ. Trong hệ thống chính trị Anh, Thủ tướng, Nội các và những bộ trưởng khác đều là thành viên của Nghị viện, đồng thời là đảng viên của đảng cầm quyền. Đây chính là đội ngũ đảng viên của đảng trực tiếp nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Thứ hai, hình thành chính sách, xây dựng, bổ sung những cơ chế và luật lệ cho hoạt động của nhà nước
- Đưa vấn đề chính sách vào chương trình nghị sự: Một vấn đề chính sách được quyết định đưa vào chương trình nghị sự có thể do nhiều áp lực khác nhau: tính cần thiết của vấn đề, chương trình hoạt động của chính phủ, áp lực của đảng hoặc thậm chí của đảng đối lập, của các nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích có thể tác động tới các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân, tạo công luận ủng hộ hoặc phản đối; vận động các đảng, các nhóm tư vấn và các thành viên nghị viện gây áp lực với chính phủ. Trên cơ sở cân nhắc, tính toán trên nhiều mặt, Nội các có thể quyết định đưa vấn đề vào chương trình nghị sự hay không
- Hình thành chính sách: khi vấn đề chính sách được Nội các quyết định, sẽ giao Ủy ban Nội các kết hợp với Bộ có liên quan để phác thảo chi tiết. Sau đó sẽ được bàn bạc, tranh luận, điều chỉnh, sửa chữa ở Bộ, Ủy ban Nội các hay Nội các tuỳ theo mức độ quan trọng và phạm vi ảnh hưởng của chính sách. Tuy được tiến hành ở chính phủ, nhưng giai đoạn này cũng khá phức tạp vì nó đan xen nhiều yếu tố, lợi ích giữa các Bộ, các nhóm, thành viên trong Nội các, đảng... Đây cũng là giai đoạn cần đến tư vấn chuyên môn của các công chức hành chính cao cấp, cũng như các cơ quan nghiên cứu chính sách khác. Đồng thời, đây cũng là lúc các nhóm lợi ích có thể tiếp cận tham gia vào quá trình này theo các cách cung cấp thông tin, kiến thức chuyên môn và hợp tác trao đổi ý kiến, đàm phán với các công chức, các Bộ trưởng hoặc thành viên Ủy ban Nội các... để có thể điều chỉnh, sửa đổi từng phần chính sách hoặc chi tiết nhằm hạn chế những bất lợi, tăng thêm ưu thế của nhóm mình.
Vì chính phủ được sự ủng hộ của đa số các thành viên Nghị viện và thông qua tính kỷ luật cao của đảng, nên chính phủ luôn có khả năng dựa vào quy trình lập pháp để chuyển hầu hết các dự luật của mình thành luật. Sự trung thành đảng phái là vấn đề cốt yếu của sự thống trị của hành pháp ở Nghị viện, đảm bảo cho hầu hết các chính sách của chính phủ đều được thông qua và bảo đảm sự cầm quyền của đảng cho đến cuộc bầu cử mới.
Kỷ luật đảng là một lý do khiến cho các nghị sĩ theo một đường lối chung khi bỏ phiếu ở Nghị viện. Đường lối của đảng được thống nhất sau khi nghe và thảo luận giữa Lãnh tụ Đảng Nghị viện và các đảng viên Nghị viện, và quyết định cuối cùng là bắt buộc đối với tất cả các đảng viên ở Nghị viện. Thành viên Nghị viện nào không tuân theo quy định này sẽ bị khai trừ khỏi đảng. Ở Nghị viện luôn có người phụ trách Đảng (Chief Whip). Lãnh tụ Đảng Bảo thủ có quyền bổ nhiệm người đảm nhiệm vai trò này. Lãnh đạo Công đảng chỉ có quyền bổ nhiệm chức vụ này khi là Thủ tướng, còn ở vị trí đối lập sẽ do Đảng Nghị viện bầu ra. Nhiệm vụ của Chief Whip và các trợ lý là đảm bảo đủ số lượng các thành viên có mặt ở Nghị viện bỏ phiếu theo cách thích hợp và hoạt động như là thành viên trung gian giữa Lãnh tụ Đảng với các thành viên đảng ở Nghị viện.
Đảng đối lập, mặc dù luôn được dành thời gian để tranh cãi các vấn đề, nhưng không kiểm soát được nội dung chương trình nghị sự trong các hoạt động lập pháp. Nghị viện nắm thực quyền trong lập pháp. Với đa số ghế ở Nghị viện, đảng cầm quyền có thể thông qua được hầu hết các dự luật là ý chí của chính phủ, mà Thủ tướng là lãnh tụ đảng cầm quyền. Tuy nhiên có một số đáng kể các trường hợp các nghị sĩ tự thức tỉnh, kiên quyết phủ nhận dự luật của chính phủ.
Thứ ba, tổ chức thực thi và điều chỉnh chính sách.
Nội các, chính quyền địa phương, các cơ quan đại diện hành pháp triển khai thực thi chính sách đã được thông qua. Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách có thể sẽ dẫn đến những vi phạm lợi ích, quyền lợi của các nhóm, cá nhân hoặc thực thi vượt quá giới hạn quyền lực cho phép của các quan chức chính phủ, sẽ bị phản ứng và chỉ trích, thậm chí có thể chống đối ở nhiều mức độ và các kênh khác nhau. Từ bình luận, chỉ trích của các nhóm lợi ích, đảng đối lập, dư luận công chúng, các phương tiện thông tin đại chúng, đến diễu hành, biểu tình, đình công hoặc kiện ra toà án... Nhìn chung ở giai đoạn này, các nhóm lợi ích, nhân dân sẽ phản hồi chính sách, làm cơ sở cho quá trình điều chỉnh, hoàn thiện chính sách.
Như vậy, chính phủ một đảng được đảm bảo bởi đa số ở Nghị viện, kiểm soát Nghị viện, không bị hạn chế bởi sự cân bằng và kiểm soát về mặt thể chế sẽ dễ dàng quyết định, thông qua chính sách. So với các nước dân chủ phương Tây khác, hệ thống chính trị Anh tạo ra nguồn lực to lớn cho đảng cầm quyền. Các nhà phê phán cũng như bảo vệ hệ thống này đều thừa nhận rằng, thiếu những kiềm chế chính thức đối với đa số lập pháp, chính phủ luôn luôn có khả năng thực hiện những chính sách chủ yếu. Nếu khả năng thông qua các chính sách ở Nghị viện phản ánh sức mạnh của chính phủ, thì việc thất bại không thong qua được chính sách (vì các mục tiêu chính sách quá lớn đối với xã hội và kinh tế) có thể coi là dấu hiệu yếu kém của chính phủ.
Thứ tư, giám sát, kiểm tra việc thực thi quyền lực nhà nước.
Tổ chức bộ máy nhà nước Anh không có sự phân biệt rạch ròi giữa các quyền như nguyên tắc tam quyền phân lập được áp dụng tại Mỹ, vì vậy sự cân bằng, kiềm chế và đối trọng chính thức giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp, trên thực tế không xảy ra. Nghị viện có quyền lực tối cao, cộng với đặc điểm Hiến pháp bất thành văn đã tạo cho Nghị viện không phải chịu một sự chế ước, ràng buộc pháp lý chính thức nào. Chính phủ được cân bằng bởi Nghị viện mà nó phải có trách nhiệm về việc thực thi quyền lực của mình. Sự kiềm chế chính thức duy nhất đối với chính phủ, là khả năng Nghị viện buộc chính phủ phải từ chức qua một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm. Điều này trong thực tế ít xảy ra vì tính kỷ luật đảng rất cao. Rất ít đảng viên đi ngược lại chủ trương của đảng. Kỷ luật đảng phái luôn là áp lực buộc họ phải bỏ phiếu theo quan điểm chung của đảng, cho dù nó có thể đi ngược lại với quan điểm cá nhân của mình.
Do vậy, việc kiểm soát quyền lực ở Anh dựa vào những kênh không chính thức lại có hiệu quả hơn, mặc dù không có sự ràng buộc pháp lý nào hạn chế sự lạm quyền của chính phủ. Trước hết là do nhu cầu tồn tại, chính phủ phải đảm bảo được sự thống nhất trong đảng của mình. Các thành viên chính phủ thường đã cống hiến phần lớn cuộc đời của mình cho Đảng và họ hiếm khi mạo hiểm phá vỡ tính thống nhất trong đảng bằng cách hành động mang tính độc đoán và phiêu lưu cá nhân. Họ tự nhận thức rằng, lãnh đạo cũng như các thành viên chính phủ phải đáp ứng và có trách nhiệm ngăn ngừa sự phân tán, làm suy yếu quyền lực của chính phủ, của đảng. Sự tồn tại chính thức của các đảng đối lập cũng là áp lực buộc đảng cầm quyền phải điều chỉnh, kiềm chế hoạt động của mình theo đúng quỹ đạo của một nhà nước dân chủ.
2.2. Phương thức lãnh đạo
Đối với cơ quan lập pháp:Trung tâm của hệ thống chính trị Anh quốc là Nghị viện. Để giành được quyền kiểm soát Nghị viện, một đảng chính trị phải giành được đa số ghế trong cuộc bầu cử, và sau đó giành luôn quyền thành lập chính phủ. Với phương thức trên, khi một đảng thắng cử, họ có quyền kiểm soát cả cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra đối với cả Công đảng lẫn Đảng Bảo thủ là không chỉ tìm cách tác động, hoặc gây áp lực vào quá trình lập pháp, mà phải làm sao để giành thắng lợi trong bầu cử Nghị viện và giữ được sự thống nhất trong đảng khi đảng trở thành đảng cầm quyền. Một khi đã kiểm soát được Nghị viện với đa số áp đảo, Đảng có thể kiểm soát cơ quan lập pháp và dễ dàng thể chế hoá cương lĩnh cũng như đường lối chính trị của mình thành các đạo luật, các chính sách của nhà nước. Các đảng cầm quyền thường áp dụng các phương thức sau:
Một là, chủ động đưa ra các chương trình lập pháp và chỉ đạo quá trình soạn thảo các dự luật trước khi nó được trình tới Nghị viện.
Trong quá trình trên, các Ủy ban chuyên môn của đảng có một vai trò hết sức quan trọng. Ủy ban có nhiệm vụ tiếp thu các ý kiến có liên quan khởi thảo báo cáo chính sách đệ trình để Đại hội Đảng tranh luận và thông qua thành Nghị quyết[5]. Văn kiện chính sách, một khi được Đại hội Đảng thông qua sẽ được đưa vào Cương lĩnh tranh cử của đảng và được thực thi khi đảng thắng cử lên cầm quyền. Ủy ban cũng có thể lấy những văn kiện có liên quan để triển khai hoạt động “đối thoại giữa đảng và chính phủ”, tiến hành trưng cầu dân ý…
Thông qua các mối liên hệ chặt chẽ với các thành viên của Nghị viện và các quan chức cao cấp của chính phủ, các chuyên gia cao cấp trong các Ủy ban đã chứng tỏ quyền lực của mình đối với quá trình hoạch định chính sách quốc gia. Có thể nói, các Ủy ban chuyên môn của các đảng, chứ không phải Nghị viện (cơ quan quyền lực cao nhất), là người giữ thẩm quyền hoạch định chính sách. Bởi vì các Ủy ban của đảng cầm quyền, nơi tập trung các chuyên gia có trình độ cao, dường như đã thay mặt Nghị viện xác định chương trình lập pháp, chi tiết hoá hầu hết các phần cho các lĩnh vực chính sách khác nhau của đời sống kinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội của đất nước. Sự tác động qua lại giữa các cơ chế hoạch định chính sách giúp cho đảng xác định được các vấn đề chính sách trước khi nó được đưa ra Nội các hay Nghị viện quyết định. Việc khởi thảo một dự luật có thể được đảng giao cho một nghị sĩ, một nhóm nghị sĩ, hay một Bộ trưởng nào đó thực hiện nhằm thể hiện các định hướng tư tưởng của đảng. Toàn bộ quá trình trên đều nằm dưới sự giám sát và đánh giá của các cơ chế nghiên cứu chính sách này.
Hai là, cử người vào nắm giữ những Ủy ban quan trọng của Nghị viện để kiểm soát quá trình lập pháp. Các Ủy ban thuộc Nghị viện được giao chức trách điều tra các sự vụ và giám sát mọi hoạt động của chính phủ. Việc tiến hành thảo luận, tranh cãi cũng như sửa đổi các dự luật chủ yếu được tiến hành tại các Ủy ban này. Tại đây, sức mạnh của đảng cầm quyền trong các Ủy ban được xác định bởi sự tương quan lực lượng giữa các đảng trong Nghị viện. Khi một đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện, đảng đó sẽ thường nắm quyền lãnh đạo những Ủy ban quan trọng nhất, nhằm kiểm soát quá trình thông qua chính sách và ngăn ngừa khả năng làm tắc nghẽn quá trình lập pháp bởi các đảng đối lập, còn các Ủy ban ít quan trọng hơn được chia sẻ với các đảng khác. Ngoài ra, đảng cầm quyền còn tìm cách bổ nhiệm các nhà quý tộc có cùng lập trường vào Thượng viện. Có thể nói, các Ủy ban có vai trò rất quan trọng, là nơi quyết định số phận của các dự luật. Một khi dự luật không qua được ở các Ủy ban, nó sẽ bị chết yểu. Điều đó có nghĩa rằng, các dự luật nào không phù hợp với đường lối của đảng cầm quyền, nó sẽ bị cản trở bởi nhiều thủ tục phức tạp. Vì đảng cầm quyền chiếm đa số ghế tại Nghị viện, nên trong quá trình lập pháp, thường chủ động đưa ra các dự luật có lợi cho mình. Hầu hết các dự luật trước khi được đưa ra trình Nghị viện đã được Uỷ ban và giới lãnh đạo của đảng thảo luận trước. Vì vậy, các phiên họp toàn thể của Nghị viện dường như đều bị đảng cầm quyền biến thành các cuộc họp mang tính hình thức, chủ yếu nhằm làm hợp pháp hoá các chính sách của mình mà thôi. Nếu một dự luật nào đó có nội dung trái với chủ trương, đường lối của đảng cầm quyền được thông qua tại một Ủy ban do đảng đối lập kiểm soát, thì đảng cầm quyền cũng có thể có những công cụ hữu hiệu khác để vô hiệu hoá chúng. Sau khi đã hoàn tất những thủ tục tại các Uỷ ban chuyên môn, dự luật được chuyển đến phiên họp toàn thể của Nghị viện để tiếp tục tranh cãi và thông qua. Tại đây, đảng cầm quyền sẽ sử dụng quyền của đa số. Thủ lĩnh của đảng trong Nghị viện sẽ chỉ đạo các nghị sĩ của mình bỏ phiếu chống lại dự luật bằng đa số áp đảo.
Ba là, xây dựng một hệ thống kỷ luật chặt chẽ nhằm chỉ đạo các đảng viên trong Nghị viện bỏ phiếu theo định hướng của đảng.
Khi bỏ phiếu tại Nghị viện, các đảng viên trong Đảng Nghị viện không thể bỏ phiếu theo ý chí của bản thân, mà buộc phải bỏ phiếu theo ý chí chung đã được giới lãnh đạo trong đảng nhất trí thông qua. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi việc trở thành nghị sĩ của họ là do đảng đứng ra giới thiệu. Cử tri bỏ phiếu trước hết là cho đảng, chứ không phải cho cá nhân các nghị sĩ. Kể cả trong trường hợp ứng cử viên đó vốn là đảng viên - quan chức đương nhiệm, sau khi xin ra khỏi đảng và tranh cử với tư cách độc lập. Thường trước mỗi cuộc bỏ phiếu quan trọng, các thủ lĩnh Đảng Nghị viện đều có cuộc họp trù bị riêng để thống nhất phương án bỏ phiếu của các nghị sĩ. Thực tế chính trị cho thấy, sự trung thành đối với phe phái, với đảng của mình, trở thành một trong những tiêu chuẩn của các nhà chính trị. Do vậy, tình trạng “đảo ngũ”, không bỏ phiếu theo sự chỉ đạo của đảng, hầu như khó có thể xảy ra. Có thể nói, trong chế độ Nghị viện nói chung, mô hình chính trị Anh quốc nói riêng, kỷ luật đảng tốt (bỏ phiếu theo định hướng của đảng) là yếu tố quan trọng cho sự tồn tại của chính phủ[6].
Có thể nói, đảng cầm quyền đã áp dụng khá thành công các kỹ năng kiểm soát quá trình lập pháp và duy trì được quyền lãnh đạo của mình trong Nghị viện. Còn khi không cầm quyền, ở vào vị trí đảng đối lập trong Nghị viện, đảng có trách nhiệm tìm ra sự khiếm khuyết của đảng cầm quyền, sẵn sàng thay thế khi đảng này không còn được cử tri tín nhiệm.
Đối với cơ quan hành pháp:Theo cơ chế hiện hành, Chính phủ Anh quốc được hình thành dựa trên cơ sở một đảng duy nhất cầm quyền. Thủ tướng là Lãnh tụ Đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện được bầu. Điều đó cũng có nghĩa rằng, các nguyên tắc và thủ tục lựa chọn Thủ tướng là công việc bị chi phối bởi các đảng chính trị. Trong quá trình trên, các nhà lãnh đạo chủ chốt của đảng là những người có quyền quyết định cao nhất.
Trong khuôn khổ của mô hình Nghị viện, đa số các dự luật được thông qua ở Nghị viện là do cơ quan hành pháp chuẩn bị. Chính Ban lãnh đạo Đảng, những người đang nắm giữ các cương vị trong bộ máy nhà nước hoặc chỉ giữ những cương vị then chốt trong đảng, là lực lượng chỉ đạo bộ máy hành pháp, mà trước tiên là thông qua Thủ tướng và các bộ trưởng. Những người này sẽ phải chuẩn bị các dự án, các chính sách theo đề cương đã được các Ủy ban chuyên môn của đảng soạn thảo. Với quyền ra các văn bản dưới luật, tức là trực tiếp hoá các điều khoản của luật, chính phủ cũng tuân thủ các nguyên tắc lãnh đạo của đảng, thể hiện được tinh thần mà Ban lãnh đạo Đảng đã thông qua. Trong trường hợp xuất hiện những bất đồng trong nội bộ đảng, giữa những người đang nắm giữ cơ quan hành pháp với bộ phận còn lại trong đảng, hoặc giữa đại diện của các phe phái trong chính phủ, thì việc lãnh đạo cơ quan này của đảng sẽ được thực hiện thông qua các đảng viên trong Nghị viện. Các đảng viên trong Nghị viện sẽ sử dụng quyền chất vấn của mình để buộc các Bộ trưởng trong chính phủ phải điều chỉnh chính sách. Ở một mức độ cao hơn, một vị Bộ trưởng có thể phải từ chức do không tìm ra được những đối sách hiệu quả. Ngoài ra, bằng lá phiếu của mình, các đảng viên - nghị sĩ trong Nghị viện có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với chính phủ, buộc Thủ tướng cùng Nội các phải từ chức và thay thế bằng một ê kíp lãnh đạo mới của đảng. Trên thực tế, điều này khó xảy ra. Nhìn bề ngoài, việc Nghị viện bác bỏ các đường lối, chính sách do chính phủ đề xuất là biểu hiện của mâu thuẫn giữa cơ quan lập pháp đối với cơ quan hành pháp, nhưng thực chất đó chẳng qua chỉ là biểu hiện của những mâu thuẫn trong nội bộ của đảng cầm quyền mà thôi.
Đối với cơ quan tư pháp:Tư pháp là một bộ phận quan trọng của công quyền. Sự chi phối đối với cơ quan tư pháp là một mặt quan trọng để đảng cầm quyền củng cố địa vị của mình. Các đảng cầm quyền ở Anh thường sử dụng những phương thức sau để chi phối cơ quan tư pháp: Một là, thông qua Nghị viện để quy định kết cấu và chức năng của cơ quan tư pháp, thông qua việc thực thi điều khoản của pháp luật để quán triệt ý đồ chính trị của đảng. Hai là, thông qua việc giới thiệu hoặc trực tiếp bổ nhiệm nhân viên tư pháp cấp cao để tác động tới cơ quan tư pháp. Ví dụ,theo luật pháp Anh, Chánh án Toà án Tối cao là người đứng đầu tư pháp, nhưng lại là thành viên của Thượng viện, đồng thời cũng là thành viên của hành pháp, có nghĩa là chức vụ này nằm ở giao điểm của 3 nhánh quyền lực nhà nước. Vì vậy, các đảng cầm quyền thường lựa chọn người lãnh đạo cao cấp trong đảng đảm nhiệm chức vụ Chánh án Tòa án Tối cao, thông qua nhân vật này để phối hợp một cách hài hòa giữa hoạt động của cơ quan tư pháp với chính sách của chính phủ, vì vị trí này có quyền căn cứ vào đề cử của cơ quan và các tổ chức tư pháp khác nhau để bổ nhiệm chánh án tòa án cấp thấp và chánh án trị an.
3. Một số kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo đối với Đảng CSVN
Thứ nhất, nhìn chung, cơ chế hoạt động của các đảng cầm quyền ở Anh đều xoay quanh mối quan hệ giữa 3 bộ phận: 1) Ban lãnh đạo Đảng đóng vai trò chỉ đạo và quản lý đảng từ Trung ương đến cơ sở; 2) Đảng Nghị viện bao gồm đảng viên là các nghị sĩ trong Nghị viện; 3) Đảng viên và khối quần chúng cử tri của đảng. Trong “cỗ xe tam mã” của hệ thống tổ chức đảng, thì Đảng Nghị viện rất có ảnh hưởng trong đảng, có thể ví như hạt nhân của toàn đảng, bất kể ở vị thế cầm quyền hay ở vị thế đối lập. Ban lãnh đạo Đảng đóng vai trò là cầu dẫn liên kết giữa Đảng Nghị viện với đảng viên và quần chúng, hai bộ phận này đều triển khai hoạt động phục vụ cho Ban lãnh đạo Đảng. Cuối cùng, hoạt động của 3 bộ phận này đều chịu sự lãnh đạo của Lãnh tụ Đảng.
Sở dĩ Đảng Nghị viện và Lãnh tụ Đảng gây được ảnh hưởng lớn hơn so với toàn Đảng là do những lý do cơ bản sau: 1) Những biện pháp, chính sách cụ thể được thảo luận và thông qua tại Nghị viện chứ không phải các nghị quyết của đảng. Chỉ có Nghị viện mới đưa ra được nghị quyết có hiệu lực pháp luật. 2) Ngày nay, các phương tiện thông tin đại chúng đóng vai trò rất quan trọng, gây ảnh hưởng lớn tới lĩnh vực chính trị. Cho nên, người hiện thân của đảng có vai trò quan trọng đối với bên ngoài xã hội. Quá trình đảng tìm cách hợp pháp hoá đường lối hay Cương lĩnh được thể hiện thông qua đối thoại của Lãnh tụ Đảng trên các phương tiện truyền thông với nhân dân. Cũng chính vì vậy, vai trò của Lãnh tụ Đảng tăng lên rất nhiều.
Thứ hai, khi nắm được chính quyền, đảng cầm quyền ở Anh không trực tiếp chỉ đạo, mà thông qua Thủ tướng và chính phủ để điều hành các hoạt động trong xã hội. Gần như toàn bộ Ban lãnh đạo Đảng tạo thành Nội các và nằm trong Nghị viện. Việc tranh luận và hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước chủ yếu diễn ra trong Đảng Nghị viện. Do việc Lãnh tụ Đảng đồng thời cũng là Thủ tướng, nên trong các vấn đề chính sách giữa đảng và chính phủ sẽ tạo ra sự nhất quán., đảng và Nhà nước (cả Nghị viện lẫn chính phủ) gắn kết hữu cơ với nhau, quy trình hoạch định đường lối chính sách chỉ là một cho cả đảng và cả Nhà nước. Mà như vậy thì không thể xảy ra chuyện chồng chéo chức năng và xung đột chính kiến. Hơn nữa, các vị Bộ trưởng cũng chính là những người cầm đầu các phe nhóm của đảng trong Nghị viện, nên hầu như người ta khó có thể nhận thấy mâu thuẫn nào trong đường lối của đảng cầm quyền với các chính sách mà chính phủ đề xuất và thực hiện.
Tuy nhiên, khi các đảng viên ở trong Nghị viện không được tham gia vào quy trình hoạch định chính sách từ đầu, mà chỉ phải phê chuẩn các chính sách đã được quyết định, thì việc xung đột chính kiến là rất khó tránh khỏi. Đó là chưa nói tới rủi ro của việc hình thành nên hai nhà nước trong một đất nước. Nhưng tất cả đều phải tuân thủ nghị quyết của Đại hội đảng.
Tổ chức đảng ở các cấp không đứng ra thay thế, can thiệp vào hoạt động của chính quyền các cấp mà phát huy vai trò cầm quyền của mình dưới các hình thức: i) Ở trung ương, các bộ trưởng của đảng chỉ đạo và hợp tác với bộ máy viên chức để thi hành đường lối của Đảng v.v...; ii) Thông qua tuyển cử, đại diện của đảng tham gia các tổ chức dân cử ở địa phương và phụ trách một số vấn đề nào đó như giáo dục, y tế, phân phối phúc lợi xã hội...; iii) Thay mặt và cùng các giới, các tổ chức xã hội ở địa phương can thiệp với bộ máy nhà nước ở địa phương để yêu cầu họ chấp nhận những kiến nghị về một vấn đề nào đó.
Thứ ba, về nội dung lãnh đạo: Nội dung lãnh đạo của các đảng cầm quyền ở Anh phụ thuộc vào quan niệm, mục tiêu chính trị của đảng và sự thừa nhận của xã hội về vai trò, chức năng của nhà nước. Chẳng hạn, nếu Chính phủ Công đảng can thiệp quá sâu vào phát triển kinh tế và công bằng xã hội thông qua phân phối lại và tăng cường phúc lợi xã hội, nó sẽ bị phản ứng của Đảng Bảo thủ và các nhóm bị thiệt hại. Do vậy, ngoài đối ngoại, an ninh, quốc phòng là các lĩnh vực điều hành cơ bản của bất kỳ đảng cầm quyền nào, thì ở các lĩnh vực khác như kinh tế, xã hội, văn hóa, sự tác động, điều hành của đảng cầm quyền ở các mức độ khác nhau tùy theo các đảng cầm quyền khác nhau.
Đảng cầm quyền chủ yếu nắm giữ quyền lực trong việc hoạch định chính sách. Các chính sách được coi là sản phẩm chủ yếu của đảng cầm quyền. Việc tổ chức, thực thi chính sách được thực hiện bởi các bộ phận, thành phần khác nhau của nhà nước và xã hội. Do vậy, đầu não và mọi tâm lực của đảng đều tập trung cho quá trình này. Điều đó thể hiện ở việc đảng cầm quyền chủ yếu nắm giữ các vị trí quan trọng của chính phủ và đa số ở Nghị viện mà không nhất thiết phải có vị trí ở bộ máy hành chính hay cơ quan tư pháp (mặc dù điều này là do thể chế quy định, công chức và chánh án, thẩm phán phải trung lập, phi đảng phái).
Thứ tư, về phương thức lãnh đạo: Các đảng cầm quyền ở Anh chủ yếu thực hiện phương thức lãnh đạo trực tiếp bởi đội ngũ lãnh đạo của đảng (đặc biệt là đối với Đảng Bảo thủ). Các tổ chức khác của đảng và đảng viên không thể can thiệp trực tiếp vào quá trình thực thi quyền lực của đội ngũ này, mà chỉ có thể gây sức ép, tác động thông qua chính sách và kỷ luật của đảng.
Đường lối, chính sách của đảng chỉ là những định hướng chung và khá ít, mang tính ổn định. Chẳng hạn chính sách của Đảng Bảo thủ thiên về nhà nước tối thiểu, thị trường tự do…; còn Công đảng thiên về tăng công bằng và phúc lợi xã hội… Vì vậy, hoạt động thực thi quyền lực của đội ngũ đảng viên của đảng cầm quyền là thực quyền, ít bị trói buộc hay can thiệp từ các chính sách của đảng.
TS. Mai Hoài Anh
Phó Giám đốc NXB Lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
TS. Nguyễn Thị Ngọc Loan
Khoa Xây dựng Đảng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
[1] David Butler and Gareth Butler, Thwentieth-Century British Political Facts 1900-2000, Macmiland Press, London 2000, p. 291.
[2] Lưu Văn Quảng, Cơ chế thực hiện dân chủ nội bộ của các đảng cầm quyền ở Vương quốc Anh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 2/2014
[3] Rechard Kelly and Paul Lester, Leadership Elections: Conservative Party, Parliament and Constitution Centre, House of commons, 2005, p.10
[4] Hiện đại hóa trong hệ thống tổ chức của Công đảng Anh, Tạp chí Những vấn đề CNXH thế giới đương đại (Trung Quốc), số 3/2002.
[5] Dennis Kavanagh, British Politics – Continuities and Change, Oxford University Press, 2000, p 204.
[6] Ngô Huy Đức, Đảng chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa, Thông tin Chính trị học, số 15/2003.