Trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng, đã chỉ rõ: “Quán triệt sâu sắc quan điểm “Dân là gốc”, Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân; lấy hạnh phúc, sự hài lòng của Nhân dân làm thước đo và mục tiêu phấn đấu”
1. Nhận thức tư tưởng, lý luận bài học “Dân là gốc”
Thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh “Dân là gốc”, “Nước lấy dân làm gốc” (1) là nền tảng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đảng ta luôn tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân. Làm cách mạng cũng vì nhân dân và vì nhân dân mà làm cách mạng triệt để. Muốn cách mạng thành công phải dựa vào nhân dân, muốn xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa phải phát huy sức mạnh sự đồng lòng, ủng hộ từ nhân dân; muốn đất nước hùng cường, thịnh vượng phải có sự tham gia, đóng góp to lớn của nhân dân. Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (2).
Chính nhân dân là người hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của Đảng, Nhà nước đề ra; nhân dân là lực lượng cách mạng, và làm nên phong trào cách mạng. Từ tư tưởng “dân là gốc”, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn thực hành văn hóa trọng dân; tôn trọng, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Người chỉ rõ: “Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì phải làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh” (3).
Tư tưởng “lấy dân làm gốc” thể hiện nhận thức sâu sắc về lực lượng nơi dân là rất to lớn, rất quan trọng. Sớm xác định rõ bản chất về một nhà nước dân chủ - nhà nước của dân, do dân, vì dân, trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927), Người nhấn mạnh: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc” (4).
Sau khi giành được độc lập, Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (5). Những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động, cũng là văn hóa nghìn đời dựng nước và giữ nước của dân tộc ta được Người nêu lên một cách rất ngắn gọn, rõ ràng cho mọi người, mọi đối tượng đều hiểu, dễ thực hiện.
Trong quá trình hoạt động, lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và quá trình quản lý xã hội của Nhà nước luôn đề cao, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đặc biệt, từ Đại hội VI (tháng 12-1986), Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, mở ra thời kỳ phát triển mới. Trong quá trình triển khai thực hiện, Đảng ta rút ra bài học quý giá và nhấn mạnh: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động” (6). Do đó, Đại hội VI của Đảng xác định cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, đồng thời khẳng định: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nền nếp hằng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình” (7).
Tuy nhiên, phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong quá trình thực hiện chưa thực sự hiệu quả, còn lúng túng, chưa xác định rõ phương hướng để triển khai. Xuất phát từ những hạn chế, bất cập trong triển khai thực hiện, Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) nêu rõ: “Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước” (8). Từ đây phương châm đã được xác định ngày càng rõ hơn, cụ thể hơn trong các văn kiện Đại hội IX, X, XI, XII của Đảng; Nhà nước thể hiện quan điểm nhất quán và không ngừng thể chế hóa, bổ sung, chính sách, pháp luật cho phù hợp với điều kiện thực tế phát triển của đất nước.
2.Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm “Nhân dân là chủ thể, là trung tâm” của công cuộc đổi mới đất nước.
Đại hội XIII, Đảng đề ra phương châm: “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”, đồng thời nhấn mạnh quan điểm: “Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa” (9).
Từ quan điểm “lấy dân làm gốc” đến quan điểm “Nhân dân là trung tâm” trong Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, tiếp tục xác định vì nhân dân mà làm và làm mọi việc vì lợi ích nhân dân. Tuy nhiên, ở góc độ lý luận thực tiễn “lấy dân làm gốc” đến “Nhân dân là trung tâm” là kết quả quá trình bổ sung, hoàn thiện đầy đủ hơn, đã xác định mục tiêu rõ ràng hơn đối với chủ thể, đối tượng là nhân dân. Nghĩa là cần làm những gì có lợi cho người dân, làm như thế nào và người dân sẽ được thụ hưởng thành quả ra sao. Đây là một quá trình chọn lọc khoa học, nâng tầm lý luận và thực tiễn phù hợp với điều kiện cụ thể, hoàn cảnh khách quan của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với thế giới.
Đối với phương châm thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung thêm 2 nội dung quan trọng là “dân giám sát, dân thụ hưởng” và hoàn thiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” (10). Đây là một điểm mới, nổi bật của Đảng ta trong vai trò là đảng cầm quyền duy nhất, đã nhấn mạnh quyền lực thuộc về nhân dân để tạo tiền đề vững chắc, nhiệm vụ hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm “Nhân dân là trung tâm” mà Đảng ta đề ra là khẳng định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện quan điểm này một cách hiệu quả, thiết thực, Đại hội XIII đã cụ thể hóa thành những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp có tính tổng thể, bao trùm và liên quan trực tiếp đến lợi ích “thụ hưởng” của mọi người dân. Điều đó thể hiện tính ưu việt, nổi trội và bản chất tốt đẹp, nhân văn và con đường đúng đắn, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng nêu rõ: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân”.
3. “Nhân dân là chủ thể, là trung tâm” trong phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Ðảng ta tiếp tục khẳng định “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia- dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc’’.
Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ðộng viên và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với yêu cầu mở rộng dân chủ và giữ vững kỷ cương phép nước trong đời sống xã hội.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước vì “Hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”, cần tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí, nghị lực và sức sáng tạo của con người Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó, cần tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây:
Một là, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể cần chăm lo, phát huy và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu đổi mới, chỉ có mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa mới có đoàn kết thật sự và bền vững. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận, phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp nhân dân thiết thực, hiệu quả trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân.
Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước điều vì lợi ích của nhân dân. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp ủy Đảng và chính quyền phải thường xuyên lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân, trao đổi, đối thoại, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tạo nên niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, sự đồng thuận của nhân dân trong xã hội. Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách để phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; Nhân dân là chủ thể quyền lực Nhà nước, do đó phải thật sự bảo đảm quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; tạo sự đồng thuận trong xã hội và góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân trong quá trình phát triển đất nước.
Ba là, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cần đầu tư, quan tâm giáo dục, đào tạo. Bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp của công nhân. Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp và cải thiện chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp. Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chăm lo bồi dưỡng và phát huy vai trò của thế hệ trẻ, đội ngũ doanh nhân, phụ nữ, Cựu Chiến binh, người cao tuổi, các cá nhân tiêu biểu, các nhân sĩ, trí thức, người dân tộc thiểu số, các tín đồ, chức sắc tôn giáo và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển nhanh, bền vững đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Bốn là, đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. Cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp một cách công khai, minh bạch. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch. Vận động đồng bào các dân tộc phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống, tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền, biên giới, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện và thực thi quy định về đạo đức công vụ trong công tác dân vận, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang. Đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên. Củng cố, kiện toàn về tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, hướng mạnh về cơ sở; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện có hiệu quả Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin’’; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân vào công cuộc đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; phê phán, xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức, viên chức thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu dân; tăng cường ý thức, tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân.
Sáu là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng công tác kiểm tra, giám sát, bằng công tác lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quy định cụ thể Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Phát huy quyền làm chủ, tinh thần đoàn kết, sức sáng tạo của nhân dân trong công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện đất nước. Đổi mới phương thức, phương pháp, lề lối làm việc, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị để thực hiện có hiệu quả những nội dung, nhiệm vụ về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục phát huy mạnh mẽ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đảng tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam”.
Giá trị tư tưởng, lý luận của bài học “Dân là gốc”, “lấy dân làm gốc” và thấu suốt quan điểm “Nhân dân là chủ thể, là trung tâm” của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, của công tác dân vận, chính là sự thể hiện lập trường, tư tưởng nhất quán, kiên định của Đảng ta đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam để nhìn nhận thẳng thắn, đánh giá đúng thực tiễn, không né tránh những vấn đề có liên quan đến nhu cầu, quyền lợi của quần chúng nhân dân; từ đó nắm bắt được bản chất của vấn đề, có giải pháp mang tính toàn diện để quy tụ được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiềm năng, khát vọng, ý chí của mọi người dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
TS. Nguyễn Văn Hùng,
Hội đồng Lý luận Trung ương
Tài liệu tham khảo
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.501.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.453.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.21.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Sđd, tr.292.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sdd, tr.232.
(6), (7), (8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.362, 446,447.
(9), (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.27-28, tr. 27.
(11) Xem dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng, ngày 14 tháng 10 năm 2025.