Thứ Sáu, ngày 26 tháng 04 năm 2024

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng, thực hiện hệ tiêu chí phát triển đất nước trong thời gian tới

Ngày phát hành: 11/08/2021 Lượt xem 5362

         

 

I. Kinh nghiệm quốc tế và những giá trị tham khảo cho Việt Nam

 Cho đến nay, việc xác định và thực hiện chỉ tiêu, mục tiêu phát triển trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn luôn có vị trí quan trọng hàng đầu đối với các quốc gia. Mặc dù có mô hình, thể chế chính trị, trình độ phát triển khác nhau, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm tới việc xây dựng, thực hiện mục tiêu phát triển. Điều này có ý nghĩa to lớn, là cơ sở để xây dựng các chính sách, giải pháp thực hiện, vừa thể hiện trọng tâm ưu tiên, thông qua vai trò Nhà nước và sự vận động của cơ chế thị trường để phân bổ có hiệu quả các nguồn lực. Các mục tiêu khi được xác định, là tiền đề cho việc xây dựng hệ chỉ tiêu trên từng lĩnh vực, thông qua việc thực hiện, cũng thể hiện năng lực, uy tín của Nhà nước đối với người dân. Bởi vậy, có một số nguyên tắc chung trong việc xây dựng, thực hiện mục tiêu và chỉ tiêu được nhiều quốc gia đã tiến hành là:

Một là, mục tiêu cần được xác định rõ ràng phù hợp với đặc điểm mỗi quốc gia và xu thế phát triển của thế giới.

Xây dựng mục tiêu cần phải đảm bảo các yêu cầu: 1).Tạo được động lực phấn đấu của người dân, doanh nghiệp thông qua việc chỉ rõ lợi ích người dân được thụ hưởng, tránh  để tham vọng chính trị lấn át khả năng hiện thực hóa trên thực tế; 2).Các mục tiêu đặt ra kỳ vọng phát triển, song phải rõ ràng, không mơ hồ, có thể định lượng được, có tính khả thi; 3).Vừa có tính kế thừa, vừa dự liệu khả năng đạt được gắn với bối cảnh trong nước, thế giới luôn thay đổi, phù hợp với đặc điểm mỗi nước và mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc; 4). Xác định mục tiêu vừa có tính động, mở nhưng phải rõ hướng ưu tiên, có khả năng điều chỉnh qua từng giai đoạn. Kinh nghiệm đưa ra định hướng mục tiêu của một số nước khá rõ ràng, thể hiện khát vọng, không gây tranh cãi, như: Mục tiêu trong Chiến lược 2011-2025: Phát triển Inđônêxia tự chủ, tiến bộ, công bằng và thịnh vượng; với Thái Lan là tầm nhìn phát triển 2017-2036: An ninh, Thịnh vượng và bền vững; Trung Quốc xây dựng toàn diện xã hội khá giả..

Hai là, hệ các chỉ tiêu đặt ra không nên quá nhiều, nhất là các chỉ tiêu pháp lệnh, đồng thời chuyển từ đo lường tăng trưởng, phát triển về lượng sang chất lượng phúc lợi người dân được thụ hưởng.

Xây dựng hệ chỉ tiêu phục vụ mục tiêu phát triển đất nước chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó có vai trò của Nhà nước và mức độ hoàn thiện của thị trường. Các nước phát triển, vai trò can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế ít hơn, chẳng hạn ở Anh, khi xây dựng mục tiêu dài hạn, xác định xây dựng một nền kinh tế mạnh  hơn và bảo đảm  tốt hơn cho sự phát triển đất nước bằng việc xác định 5 chỉ tiêu: giảm thâm hụt ngân sách; cắt giảm thuế; tạo thêm việc làm; bảo đảm phúc lợi và giảm nhập cư; cung cấp trường học tốt nhất. EU chỉ xác định có 6 chỉ tiêu pháp lệnh. Các mục tiêu, chỉ tiêu này phần lớn mang ý nghĩa cam kết của chính phủ, hoặc để giải trình chi tiêu, không có ý nghĩa pháp lý chính  phủ  phải đạt được. Bên cạnh đó, điểm mới trong việc xây dựng mục tiêu, tiêu chí hiện nay là chuyển  từ đo lường tăng trưởng, phát triển kinh tế và thu nhập sang phúc lợi cho người dân, lấy người dân làm trung tâm. Cách  tiếp cận này có sự giống nhau ở các nước phát triển, đặc biệt là các nước Bắc Âu.

Ba là, việc xây dựng và thực hiện mục tiêu, hệ tiêu chí luôn tính đến các nhân tố bất thường khi nền kinh tế gặp cú sốc lớn, nhất là chiến tranh, thiên tai, khủng hoảng, bệnh dịch...điều đó đòi hỏi:

- Xây dựng cơ chế tự điều chỉnh các chỉ tiêu, các ngưỡng tài chính, ngân sách. Khi có nhân tố bất thường, các cơ chế điều chỉnh tự động và phản hồi chính sách được kích hoạt, giúp chính phủ tăng cường hiệu lực thực, điều chỉnh các nguồn lực. Chẳng hạn, đối với nợ công: Ba Lan và Slovakia đặt mức trần nợ công ở mức tương đương 60% GDP. Tại Slovakia, khi tỷ lệ nợ lên 50% GDP, Bộ trưởng Tài chính có nghĩa vụ giải trình trước Quốc hội và đưa ra những giải pháp giảm nợ công; khi lên tới mức 53% GDP, chính phủ có thể sẽ thông qua một gói các biện pháp để giảm mức nợ; và khi tới mức 55% GDP, chi tiêu công có thể sẽ bị cắt giảm tự động 3% và chi tiêu cho năm kế tiếp sẽ bị “đóng băng”, trừ các quỹ liên kết với EU. Đối với cân đối NSNN: Quy tắc cân bằng cơ cấu ngân sách của Thụy Sĩ và Đức có cơ chế tự điều chỉnh nhằm “phanh  nợ”. Khi sự chênh lệch tích lũy vượt một ngưỡng thì cơ chế “chỉnh sửa” nhằm  làm giảm chênh lệch sẽ được kích hoạt, với thời hạn cho điều chỉnh được xác lập sẵn.

- Quy định trường hợp được phép miễn áp dụng các nguyên tắc tài chính, ngân sách hiện hành khi khẩn cấp. Các điều khoản miễn áp dụng các quy định tài chính, ngân sách, cụ thể là : 1). Giới hạn và xác định rõ những yếu tố, những trường hợp được phép miễn áp dụng; 2). Đưa ra chỉ dẫn rõ ràng về việc nội dung, cách thức giải trình, lý giải và việc xác định các trường hợp; 3). Xác định lộ trình quay trở lại áp dụng các quy định đã bị hoãn để xử lý những sai lệch. Các điều khoản miễn áp dụng này được thực hiện ở Brazil, Colombia, Đức, Mexico, Jamaica, Panama, Peru, Romania, Slovakia, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ, nhất là trong giai đoạn suy thoái kinh tế, thiên tai hay giải cứu hệ thống ngân hàng (Slovakia).Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, nhiều nước đã tạm thời không áp dụng cơ chế, nguyên tắc tài chính, ngân sách hoặc được điều chỉnh bằng cách nới lỏng theo hướng linh hoạt hơn…

Bốn là, một số chỉ tiêu là ngưỡng an toàn cần phải điều chỉnh theo giai đoạn, nhất là khi bối cảnh mới tác động mạnh đến điều kiện thực hiện

- Các ngưỡng nêu trên hầu hết có ý nghĩa cảnh báo cho các nước, trong quá trình điều hành kinh tế vĩ mô, điển hình là trường hợp ngưỡng an toàn về nợ công, nợ nước ngoài như ở một số quốc gia châu Âu. Đối với ngưỡng về dự trữ ngoại hối, một số nước như:Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,..  không tính đến các ngưỡng thông thường do có dự trữ  nhiều. Gần đây, IMF (2013) đã đưa yếu tố nhận kiều hối, là nhân tố quan trọng trong đánh giá tính bền vững của nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia..

- Một số nhân tố ảnh hưởng tới việc áp dụng và cảnh báo các chỉ  tiêu có liên quan tới chuẩn mực an toàn, quy định về thống kê, thu thập dữ liệu, việc phân tích, công khai chỉ tiêu và khả năng so sánh quốc tế, đặc biệt là các yếu tố chính trị, kinh tế,… ảnh hưởng tới việc xây dựng và áp dụng các chỉ tiêu kinh tế của mỗi quốc gia cũng cần được điều chỉnh.

Năm là, xây dựng và thực hiện mục tiêu, hệ tiêu chí phát triển đất nước hiện nay ở các nước ASEAN cần tính đầy đủ, sâu sắc các nhân tố tác động mới, như: 1). Tác động của Đại dịch Covid-19; 2). Tác động của căng thẳng trong quan hệ Mỹ-Trung lên các lĩnh vực thương mại và đầu tư, tài chính, những điều chỉnh chính sách của chính quyền mới ở Mỹ; 3). Gia tăng xu hướng Nam tiến (ASEAN) của các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, vùng lãnh thổ Đài Loan; 4). Tranh chấp lãnh hải và thay đổi lớn trong các tuyến hàng hải quốc tế qua biển Đông; 5). Tác động của tiến bộ công nghệ, đặc biệt là Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư; 6). Sự phân tán đầu tư quốc tế từ các trung tâm dịch, các nước phát triển ra các nước khác; 7).Chi phí nhân công trong nước ngày càng tăng; 8). Nguy cơ tăng ô nhiễm môi trường; 9). Hệ lụy của biến đổi khí hậu và xâm mặn.

 

 

II.  Các nguyên tắc, yêu cầu, điều kiện trong xây dựng và thực hiện chỉ tiêu, mục tiêu phát triển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045

1. Về nguyên tắc

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra mục tiêu, xây dựng  các chỉ tiêu đến năm 2030. Trong đó, đã có các chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn 2021-2025 và một số chỉ tiêu của 2030, do đó yêu cầu đặt ra là cần thực hiện tốt chỉ tiêu giai đoạn 2021-2025 và xây dựng và thực chỉ tiêu của giai đoạn 2026-2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Bởi vậy, cần có các nguyên tắc chung trong xây dựng và thực hiện mục tiêu, hệ chỉ tiêu phù hợp với thực tiễn Việt Nam, cụ thể là:

- Nguyên tắc chung:

Một là, quán triệt đầy đủ các quan điểm chỉ đạo được nêu trong  các văn kiện của Đảng từ Đại hội XIII và các nhiệm kỳ tiếp theo; xử lý đúng đắn các mối quan hệ lớn trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế, đây là các nguyên tắc chung, bao trùm chi phối toàn bộ sự phát triển của đất nước hiện nay và giai đoạn tiếp theo.

Hai là, tiếp tục cụ thể hóa mục tiêu, chỉ tiêu thể hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, chủ động lựa chọn, tiếp thu các tiêu chí thể hiện xu hướng văn minh, tiến bộ của nhân loại.

Ba là, đảm bảo tính nhất quán, đồng bộ, gắn kết chặt chẽ giữa chủ trương của Đảng với thể chế, chính sách pháp luật của Nhà nước; giữa phát triển bên trong và tranh thủ bên ngoài, trong đó giữ ổn định, phát triển bên trong có vai trò quyết định.

Bốn là, luôn xác định các hướng ưu tiên, khâu đột phá trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu, phục vụ mục tiêu phát triển, nhất là trong điều kiện có những tác động bất lợi từ bên ngoài. Đây là cơ sở để tạo đột biến trong phát triển.

- Các nguyên tắc cụ thể:

Việc lựa chọn mục tiêu, chỉ tiêu ưu tiên phải dựa trên cơ sở phân tích chính xác, đúng những điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức của đất nước trong thời kỳ kế hoạch. Hàng năm, trong quá trình thực hiện, có sự ưu tiên, lựa chọn sẽ khác nhau, tùy theo điều kiện phát triển của đất nước. Không dập khuôn, cứng nhắc theo một mẫu kế hoạch với các tiêu chí, các mục giống nhau hàng năm. Việc xây dựng và thực hiện cần:

1). Có tính kế thừa, phản ánh được thành quả phát triển, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, mục tiêu, chỉ tiêu đề ra cần bám sát với tầm nhìn chung, càng cụ thể càng dễ thực hiện, việc đặt ra các mục tiêu quá chung chung dễ dẫn đến việc thực hiện không đầy đủ, dẫn tới mất định hướng.

2). Đảm bảo tính nhất quán, đồng bộ, gắn kết chặt chẽ giữa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, là cơ sở để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, đặc biệt là các khâu đột phá, các hướng ưu tiên.

3). Phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và những khuyến nghị hợp lý của một số tổ chức quốc tế uy tín như WB, IMF, ADB…, đặc biệt là các chỉ tiêu liên quan tới phát triển bền vững và chất lượng tăng trưởng.

4). Cụ thể, dễ hiểu- đo lường được- khả thi- có khung thời gian thực hiện. Việc đề ra mục tiêu, chỉ tiêu cần đảm bảo có thể thực hiện được, không quá cao, không quá thấp. Mục tiêu, chỉ tiêu cần được xác định thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định.

5). Là công cụ để đánh giá các khía cạnh của nền kinh tế về quy mô, tốc độ, hiệu quả, bền vững, sáng tạo và bao trùm. Mục tiêu, chỉ tiêu được lượng hóa cao càng dễ dàng kiểm tra, kiểm soát tiến độ hoàn thành mục tiêu.

2. Những yêu cầu trong xây dựng và thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu       

Khi xây dựng và thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu cần đảm bảo các vấn đề sau:

- Tính nhất quán: Trong việc xây dựng, đề ra mục tiêu, chỉ tiêu cần thống nhất; giữa các mục tiêu cụ thể không trái ngược, mâu thuẫn nhau và phải nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát; mục tiêu tổng quát trong từng giai đoạn phải phù hợp với Cương lĩnh của Đảng. Mục tiêu dài hạn, mang tính định hướng, khái quát, mục tiêu ngắn hạn, phải đảm bảo tính cụ thể.

- Xác định vấn đề cần ưu tiên: Trong điều kiện đất nước còn khó khăn, các mục tiêu, chỉ tiêu cần xác định các trọng tâm thực hiện, đặc biệt là những lĩnh vực có tính đột phá. Nguồn lực hạn chế cần phải được tập trung vào các lĩnh vực then chốt, quan trọng, tạo đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế, xã hội, môi trường, tránh  dàn trải.

- Phân bổ nguồn lực: Đảm bảo vừa thực hiện theo cơ chế thị trường, vừa có vai trò của Nhà nước, nguồn lực được phân bổ hợp lý để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đã xác định..

- Bảo đảm sự gắn kết trong xây dựng và thực hiện chỉ tiêu, mục tiêu: giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa kinh tế, xã hội và môi trường, cụ thể hóa định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và thực hiện chỉ tiêu, mục tiêu. 1). Lấy con người là trung tâm của sự phát triển,phát triển con người Việt Nam toàn diện, cả về vật chất, tinh thần và tiến bộ là mục tiêu cuối cùng.2). Thực hiện nguyên tắc phát triển hài hòa, bền vững giữa kinh tế, xã hội và môi trường, luôn được chú trọng trong quá trình phát triển . 3). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ, nhất là ở những ngành và lĩnh vực sản xuất có ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng, như công nghệ thông tin, internet, kinh tế số, xã hội số…4). Nâng cao chất lượng, năng lực quản trị của Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hoạt động hiệu lực, hiệu quả. 5). Phát triển nhanh, bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương;  đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp và mọi người dân.

3. Điều kiện áp dụng để xây dựng và thực hiệu có hiệu quả mục tiêu, chỉ tiêu phát triển đất nước

Thứ nhất, ổn định chính trị - xã hội;

Thứ hai, các giải pháp phòng chống Covid- 19 ở Việt Nam đạt hiệu quả cao trong thời gian tới, đặc biệt là tỷ lệ tiêm phòng vacxin cộng đồng phải đạt 70 % trở lên trong năm 2021 và các năm tiếp theo.

Thứ ba, tình hình biển Đông cơ bản kiểm soát tốt, không có những đột biến bất lợi lớn

Thứ tư, hệ thống thể chế phát triển, đặc biệt là thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn thiện, thực thi hiệu quả.

Thứ năm, vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững, kỷ luật, kỷ cương xã hội được giữ vững

Thứ sáu, vai trò lãnh đạo, lòng tin của nhân dân với Đảng tiếp tục được củng cố, nâng cao; cuộc chiến đấu chống tham nhũng đem lại kết quả tích cực

 

 

III. Những căn cứ điều chỉnh, bổ sung một số chỉ tiêu đảm bảo thực hiện thắng lợi mục tiêu Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa

1. Một số căn cứ chính

  Một là, tác động tích cực của Cách mạng công nghiệp lần thư tư, đây là cơ hội lớn, Việt Nam đã từng bước thích ứng xây dựng kinh tế số, xã hội số với các chỉ tiêu thành phần từng bước cụ thể hóa trong từng năm.

  Hai là, những hiệu ứng tốt của các hiệp định tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia, chuẩn bị có hiệu lực với các phương án tích cực

   Ba là, Việt Nam và thế giới đã từng bước kiểm soát được đại dịch Covid-19, kinh tế thế giới dự báo phục hồi mạnh trong thời gian tới

  Bốn là, hệ thống thể chế phát triển của Việt Nam tiếp tục được hoàn thiện; hạ tầng kinh tế- xã hội được bổ sung, phát triển mới; kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lớn mạnh hơn.

  Năm là, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được nâng lên, quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng hiệu lực, hiệu quả sau 40-50 năm đất nước đổi mới, từ 2025 trở đi.

2. Điều chỉnh và bổ sung chỉ tiêu 

  Từ những căn cứ trên đề xuất điều chỉnh một số chỉ tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường

 Thứ nhất, về chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, xã hội và môi trường giai đoạn 2026- 2030, tầm nhìn đến 2045:

  - Cần phân loại rõ hơn trong cơ cấu chỉ tiêu phát triển: 1). Nhóm chỉ tiêu về phát triển, phản ánh khái quát tình hình phát triển trong từng giai đoạn  đến năm 2030, tầm nhìn 2045. 2). Nhóm chỉ tiêu về chất lượng phát triển của nền kinh tế, liên quan đến tính bao trùm, tính bền vững của nền kinh tế và chất lượng cuộc sống của người dân. 3. Nhóm chỉ tiêu về động lực phát triển, tập trung vào các vấn đề thể chế phát triển, môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng, chất lượng đổi mới sáng tạo và nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Các nhóm chỉ tiêu về động lực cần bám sát các khâu đột phá trong từng giai đoạn 2030, 2045.

 - Điều chỉnh tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến 2045: đề xuất chỉ tiêu tăng trưởng 2026-2030: 1). Mức tăng trưởng kinh tế điều chỉ từ 7-7,2%, thu nhập bình quân đầu đạt từ 7500-8000 USD. Phương án này cho thấy, nếu như giai đoạn 2021-2025, tốc độ tăng trưởng dự kiến từ 6,5-7%, nhưng do tác động của đại dịch Covid 19, năm 2021 dự kiến tăng trưởng dưới 6%. Hiện nay, kết thúc quý II/2021, tăng trưởng của Việt Nam chỉ đạt 5,64%, tuy nhiên diễn biến tình hình Covid 19 hết sức phức tạp, đến đầu tháng 8/2021 số ca nhiễm đã đạt tới trên 150.000 ca, với trên 40 tỉnh, thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và nhiều địa phương, vùng động lực kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề. Do vậy, các năm còn lại phải có tốc độ tăng trưởng cao hơn. WB dự kiến năm 2022 Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 6,7%, đây là mức tăng phù hợp. Từ năm 2023-2025, mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể đạt từ 6,7-7,2%. 2). Giai đoạn 2026-2030, theo tính toán mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phải đạt từ 7-7,5%, tương ứng với các chỉ tiêu thành phần về, GDP theo đầu người khoảng 7500-8000 USD, cơ cấu kinh tế, đóng góp của kinh tế số, TFP, ICOR, năng xuất lao động và tỷ lệ đô thị hóa, môi trường, tuổi thọ trung bình... 3). Giai đoạn 2030-2045, để đạt mục tiêu thu nhập bình quân theo đầu người 18000 USD, Việt Nam là nước phát triển thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng bình quân cả giai đoạn này phải đạt 7-7,5 %. Tương ứng với chỉ tiêu thu nhập theo đầu người có các chỉ tiêu về tuổi thọ trung bình, về môi trường kinh tế, xã hội, về chỉ số GINI, chỉ số hạnh phúc.

Thứ hai, bổ sung một số chỉ tiêu đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế đến 2045:

 - Theo các phương án nêu trên, đến 2045 Việt Nam có mức thu nhập 18000 USD trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, đó là quá trình liên tục, thực hiện mô hình tổng quát phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng chỉ tiêu, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước là quá trình liên tục, từ thấp đến cao, trong đó vấn đề phát triển bền vững, gắn kinh tế với xã hội là thuộc tính của mô hình nay, đòi hỏi gắn ngay từ đầu, trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.

- Tính định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong mối quan hệ đồng bộ giữa kinh tế, xã hội và môi trường, từ thấp đến cao trong nhiều nhiệm kỳ vừa qua, đặc biệt là các chỉ số về tuổi thọ, GINI, xóa đói giảm nghèo, các mục tiêu thiên niên kỷ so sánh Việt Nam với nhóm nước cùng trình độ.

- Tuy nhiên, đến 2030 và tầm nhìn đến 2045, các chỉ tiêu mang tính dẫn dắt về kinh tế, xã hội, môi trường và một số chỉ tiêu đặc thù khác cần được xác định mang tính ưu tiên, minh bạch và có tính hiện thực cao, nhóm nghiên cứu đề xuất bổ sung:

+ Mức độ hoàn thiện thể chế phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa

+ Chỉ tiêu về giảm mức độ tham nhũng hàng năm

+ Chỉ tiêu về mức độ hài lòng của người dân ở một số dịch vụ công cơ bản

+ Chỉ số đánh giá mức tín nhiệm lãnh đạo Đảng, Nhà nước với 2 mức, tín nhiệm và không tín nhiệm, 2 năm một lần, có chế tài xử lý cụ thể.

+ Hoàn thiện chỉ số về tổ chức đảng, đảng viên trong sạch, vững mạnh, đảm bảo chất lượng

- Trong quá trình phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, cần giảm bớt các chỉ tiêu pháp lệnh về kinh tế; nhấn mạnh hơn một số chỉ tiêu đột phá, động lực như khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, các chỉ tiêu về tiến bộ xã hội, sự hài lòng của người dân.

Kiến nghị

1 Bộ Chính trị

 - Ban hành chỉ thị về hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phục vụ mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa

- Giao cho các cơ quan tiếp tục nghiên cứu, làm rõ những tiêu chí mới, tiến bộ của nhân loại, nghiên cứu làm rõ hơn các đặc trưng, thuộc tính của chế độ xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa thành các tiêu chí có thể đo lường được, làm cơ sở để xây dựng và thực hiện trong các giai đoạn phát triển của đất nước, đặc biệt là năm 2030, tầm nhìn 2045

2. Đảng đoàn Quốc hội

- Hoàn thiện thể chế phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các giai đoạn năm 2030, tầm nhìn đến 2045.

- Quốc hội cần sửa đổi một số luật phù hợp với giai đoạn mới của đất nước, khi Việt Nam tham gia ngày càng nhiều Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

3.Ban cán sự Đảng Chính phủ

- Xem xét, điều chỉnh một số chỉ tiêu giai đoạn 2021-2030 và bổ sung một số chỉ tiêu định hướng đến 2045 như đề xuất nêu trên.

- Sớm có các giải pháp mới, phù hợp đảm bảo Việt Nam có miễn dịch cộng đồng, kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh, tạo tiền đề cho sự phát triển trong thời gian tới.

- Thực hiện tốt các nhóm giải pháp xây dựng và thực hiện hệ chỉ tiêu  phát triển đất nước trong trạng thái bình thường mới./.

 

PGS.TS Phạm Văn Linh

                                         Phó Chủ tịch HĐLLTW

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết