Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị, khóa XI, về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, đến nay đã thực hiện được gần 7 năm, đã khẳng định tính đúng đắn của những định hướng nghiên cứu những năm vừa qua, có đóng góp to lớn vào thành quả nghiên cứu lý luận nhiệm kỳ Đại hội XI, XII. Từ đó, tạo tiền đề tiếp tục triển khai và thực hiện tốt công tác nghiên cứu lý luận 2025 và tầm nhìn đến năm 2030- kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
I. Tình hình thực hiện Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị về công tác nghiên cứu lý luận chính trị
1. Về lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu lý luận
Thứ nhất, là một đảng cầm quyền, sau các kỳ Đại hội, Đảng ta đều tiến hành tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tiếp. Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, đến Đại hội VIII, Đảng ta tiến hành tổng kết 10 năm đổi mới; Đại hội IX, tổng kết 15 năm đổi mới; Đại hội X, tổng kết 20 năm đổi mới và Đại hội XI, tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, tổng kết 20 năm thực hiện Hiến pháp 1992 và 30 năm đổi mới đất nước. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ khóa IX, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 "Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới" và trong nhiệm kỳ khóa X, tại Hội nghị Trung ương 5, thông qua Nghị quyết "Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới".
Đại hội Đảng khóa XI, cũng với việc ban hành nhiều văn kiện quan trọng, trong đó có Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), cũng nhiều nghị quyết quan trọng khác, đều là kết quả của công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ này, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014, về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030. Trên cơ sở đó, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, công tác nghiên cứu lý luận tiếp tục được đẩy mạnh, nhiều văn kiện quan trọng của Đảng được ban hành, trong đó có việc tổng kết 10 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, các cơ quan nghiên cứu, đào tạo của cả hệ thống chính trị triển khai nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu…Điều này càng khẳng định, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của lý luận, trực tiếp ban hành nhiều văn bản có tính pháp lý cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nghiên cứu lý luận.
Thứ hai, ở Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo nhiều vấn đề lớn trong công tác lý luận; nghe các cơ quan nghiên cứu, các nhà lý luận trình bày kết quả, đóng góp ý kiến về những vấn đề mà Đảng, Nhà nước quan tâm; cho ý kiến về kết quả nghiên cứu, về những vấn đề cần thiết khác, tạo điều kiện cho công tác lý luận phát triển thuận lợi.
Định kỳ 5 năm, theo nhiệm kỳ của Đại hội Đảng, các cơ quan tham mưu của Đảng về công tác lý luận phối hợp với các cơ quan quản lý khoa học của Nhà nước, xây dựng các chương trình nghiên cứu lớn trong nhiệm kỳ trình Ban Bí thư phê duyệt. Trên cơ sở các định hướng của Ban Bí thư, Chính phủ phê duyệt các chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm quốc gia, trong đó có các chương trình nghiên cứu lý luận. Năm 1996, Hội đồng Lý luận Trung ương đã được thành lập để tư vấn cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những vấn đề lý luận lớn, cấp bách. Hệ thống các chương trình, đề tài khoa học cấp nhà nước về lý luận được tổ chức hoạt động thành nề nếp nhằm nghiên cứu những vấn đề trọng tâm mà Trung ương đề ra trong mỗi kỳ đại hội.
Thứ ba, các cấp uỷ đảng ngày càng coi trọng hơn đến công tác lý luận, thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc kết lý luận, tăng cường giáo dục để nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới. Việc sử dụng kết quả nghiên cứu lý luận, xây dựng các luận cứ cho việc hình thành chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo… đang trở thành công việc được nhiều cấp ủy đảng ngày càng quan tâm. Các cơ quan nghiên cứu lý luận của Trung ương và một số ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng triển khai việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chất lượng và khả năng ứng dụng các kết quả nghiên cứu lý luận đã tiến bộ hơn trước.
Các ngành, các cấp ngày càng coi trọng và không ngừng nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, làm cơ sở tiếp tục triển khai nghiên cứu lý luận. Hệ thống chương trình, đề tài nghiên cứu cụ thể và thiết thực hơn; kinh phí để thực hiện các chương trình từng bước tăng lên. Công tác quản lý việc thực hiện chương trình, đề tài, đặc biệt khâu đánh giá, nghiệm thu để bảo đảm chất lượng công trình nghiên cứu cũng được cải tiến, hoàn thiện hơn.
Thứ tư, thực hiện chủ trương của Đảng, các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường đã chủ động mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu lý luận và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài. Trong những năm qua, đã gửi đi đào tạo được một số lượng không nhỏ cán bộ có trình độ cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn, lý luận chính trị ở một số nước, góp phần tăng thêm số lượng và chất lượng đội ngũ những người làm công tác lý luận. Đã chú trọng hợp tác nghiên cứu với nước ngoài về những đề lý luận trong nước quan tâm, với nhiều đối tác có kinh nghiệm, góp phần bổ sung, hoàn thiện một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Hoạt động trao đổi, tham vấn trong lĩnh vực lý luận, có bước bộ tiến thông qua nhiều cuộc trao đổi lý luận với một số đảng cầm quyền, đảng tham chính, như : Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; Đảng Cộng sản Trung Quốc; Đảng Cộng sản Cu Ba; Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Nhật Bản và một số Đảng cánh tả Châu Âu... Trong hệ thống Đảng, tiếp tục có các chương trình gửi đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn và lý luận ở nước ngoài.
Thứ năm, một số ngành khoa học quan trọng đã được tăng cường và củng cố như kinh tế học phát triển, chính trị học, văn hóa và phát triển... Đặc biệt, ngành khoa học nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng trong thực tiễn có bước phát triển nhanh và đi vào chiều sâu. Việc tập trung nghiên cứu, truyền bá giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đã bước đầu đạt kết quả tốt. Công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch được tăng cường, tính thuyết phục được nâng cao, tạo được những tác động tích cực trong đời sống xã hội. Đặc biệt là, kể từ sau khi có Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng nói riêng và các hình thức khác đã có bước phát triển mới.
2. Một số kết quả chính trong công tác nghiên cứu lý luận
Trong quá trình phát triển, từ đặc điểm của Việt Nam xuất hiện nhiều vấn đề lý luận cần nghiên cứu, tổng kết, bổ sung và phát triển, loại bỏ sự giáo điều, chủ quan duy ý chí, đồng thời tiếp nhận những giá trị mới, tinh hoa của nhân loại, đưa đất nước đi lên phù hợp với quy luật, xu thế phát triển của xã hội loài người. Công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nhất là các vấn đề mới về lý luận do thực tiễn đặt ra, cung cấp luận cứ khoa học để Đảng ta xây dựng, đưa ra những quyết sách với nhiều cấp độ khác nhau, như mô hình phát triển đất nước, chủ trương, chính sách lớn trong từng giai đoạn, vấn đề ở từng lĩnh vực, trên một số nét khái quát có thể thấy là:
- Đó là mô hình phát triển đất nước, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định nhận thức ngày càng rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bước đầu hình thành hệ thống lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; các định hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội; về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; các vấn đề về đối ngoại; về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; về phát huy dân chủ, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức cán bộ và đạo đức; về phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng; về dân chủ xã hội chủ nghĩa; bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, đến Đại hội XII tổng kết 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011; các văn kiện Đại hội Đảng theo nhiệm kỳ, chuẩn bị tiền đề đến năm 2030 kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, năm 2045- 100 năm thành lập nước..
- Đó là vấn đề giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước. Giữ vững nguyên tắc, kiên định lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại. Nhờ đó, công tác lý luận của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tháo gỡ nhiều vấn đề phức tạp đặt ra của thực tiễn. Nhiều vấn đề lý luận về nền tảng tư tưởng được làm sáng tỏ, khẳng định các nguyên lý cơ bản vẫn giữ nguyên giá trị. Đồng thời, bổ sung làm sáng tỏ những vấn đề mới, những nội dung thực tiễn cuộc sống đã vượt qua. Quá trình đổi mới tư duy lý luận, trước hết là tư duy kinh tế tiếp tục được triển khai rộng khắp, từng bước hình thành và phát triển hệ thống quan điểm đổi mới toàn diện đất nước; đặt quá trình đổi mới đất nước trong xu thế phát triển của thời đại, khẳng định thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới; chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển nhưng không thay đổi bản chất; xu hướng lớn của giai đoạn hiện nay là hòa bình, hợp tác và phát triển, bên cạnh xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ, sắc tộc, tôn giáo...Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội[1].
- Từng bước xây dựng mô hình công nghiệp hóa của Việt Nam trong điều kiện thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; kết hợp phát triển nhanh với phát triển bền vững, trong đó, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt.
Công nghiệp hóa là tính quy luật chung trong xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất của tất cả quốc gia chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Mô hình công nghiệp hóa của Việt Nam được tiến hành qua 3 bước. Trong giai đoạn hiện nay, kết hợp phát triển nhanh với phát triển bền vững, thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi từ phát triển từ chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu một cách hợp lý, coi trọng chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát huy tốt sức mạnh nội lực với ngoại lực, trong đó, nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng; kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng....
- Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, là nền kinh tế vận hành đầy đủ và đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, cạnh tranh theo pháp luật. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xử lý tốt mối quan hệ giữa Nhà nước- thị trường- xã hội...
- Xác định phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, là động lực của sự phát triển, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân- thiện- mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.. Chủ trương nhất quán trong phát triển của Việt Nam là gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, gắn ngay từ đầu, trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.
- Vấn đề quốc phòng, an ninh và đối ngoại cũng có nhiều kết quả nghiên cứu lý luận đã được tổng kết, bổ sung và phát triển, trực tiếp cung cấp luận cứ để đưa ra quyết sách trên nhiều vấn đề, trong các giai đoạn, từng thời điểm trước sự biến đổi mau lẹ của tình hình thế giới và khu vực hiện nay. Quan điểm thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, xử lý tốt mối quan hệ giữa “đối tác” và “đối tượng”, lấy việc bảo đảm lợi ích quốc gia là nguyên tắc của hội nhập, an ninh, quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Từng bước hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng, cùng có lợi; giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực.
- Nghiên cứu và tiếp thu nhiều vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về quản lý xã hội, về dân chủ, trong đó dân chủ được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trong đó, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, làm cho Nhà nước thực sự là của dân, phục vụ nhân dân; hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực hiện phân cấp, phân quyền, có cơ chế giám sát quyền lực nhà nước....
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội, khắc phục biểu hiện dân chủ hình thức. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ cấu xã hội, giai cấp và công bằng trong phát triển. Bảo đảm việc Nhà nước chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết.
- Về hoàn thiện hệ thống chính trị trước yêu cầu mới cũng đặt ra nhiều vấn đề lý luận cần phải xử lý, tiếp thu. Hệ thống chính trị của Việt Nam được cấu thành từ các thành tố có mối quan hệ hữu cơ, được thử thách và tiếp tục hoàn thiện qua các giai đoạn, theo hướng phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tiềm năng, sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, thực hành dân chủ. Bên cạnh vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước tiếp tục được đổi mới, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội đang đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ, tinh gọn, hiệu quả, thực sự đại diện cho lợi ích của người dân.
- Những vấn đề lý luận về xây dựng Đảng, về bản chất của Ðảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới; về vai trò, phương thức lãnh đạo của Ðảng cầm quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường...luôn là những nội dung đặt ra nhiều vấn đề lý luận phải xử lý, bổ sung và phát triển, từ khi Đảng ta ra đời, lãnh đạo và đưa đất nước phát triển đến ngày hôm nay. Các vấn đề xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức và xây dựng Đảng về đạo đức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng luôn có tầm quan trọng đặc biệt. Thực tiễn Việt Nam, kinh nghiệm quốc tế luôn khẳng định, việc coi xây dựng Ðảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, từ đó đặt ra yêu cầu Ðảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn; tăng cường xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là hết sức đúng đắn. Ðẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nâng cao trình độ nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới của Ðảng; tăng cường công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, đấu tranh chống sự suy thoái, biến chất, tham nhũng, hư hỏng; đổi mới phương thức lãnh đạo và lề lối công tác; gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng. Ðặc biệt đề phòng nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...
- Các cơ quan nghiên cứu, đào tạo đã chủ động hơn trong xây dựng chương trình, đề tài nghiên cứu, hình thành lực lượng, đội ngũ chuyên sâu trên nhiều lĩnh vực như Hội đồng lý luận Trung ương với 34 đề tài cấp Nhà nước; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh với nhiều chương trình, đặc biệt là chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020 về tổng kết lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, mã số KX.02/16-20. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, các trường Đại học trong cả nước dần trở thành các trung tâm nghiên cứu...
Những kết quả đạt được trên cho thấy, trong việc nghiên cứu các vấn đề lý luận thời gian qua đã góp phần:
- Nâng cao nhận thức, phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về nền tảng, tư tưởng lý luận của Đảng, tạo tiền đề để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng, tổ chức, cán bộ, đạo đức lối sống.
- Đảm bảo xây dựng chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước đi lên, củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối đúng đắn của Đảng.
- Bổ sung các giá trị tinh hoa của nhân loại, làm sâu sắc hơn kho tàng lý luận của Đảng,..
- Xử lý các vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển của đất nước cả về lý luận và thực tiễn, khuyến khích phát huy dân chủ, sáng tạo, phản biện chính sách nhằm làm rõ hơn cơ sở khoa học, thực tiễn, tạo sự đồng thuận cao trong Đảng và xã hội.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu mới của đất nước
- Phê phán các quan điểm sai trái, thù địch; củng cố và nâng cao vị thế, uy tín của Đảng ở trong và ngoài nước, nâng cao hình ảnh và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
II. Về những hạn chế và nguyên nhân trong công tác nghiên cứu lý luận những năm qua
1. Trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu lý luận
Một là, tuy đã đạt được những kết quả to lớn không thể phủ nhận, song công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được không ít cấp ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo một cách đúng mức, thường xuyên; kết quả đạt được chưa tương xứng với vị trí, vai trò, yêu cầu phát triển của đất nước. Nhận thức về lý luận, tư duy lý luận còn bất cập, nhiều vướng mắc trong nghiên cứu, sáng tạo, tự do tư tưởng vẫn chậm được khắc phục, chưa phát huy đầy đủ môi trường dân chủ trong nghiên cứu lý luận. Nghiên cứu lý luận chưa theo kịp với sự phát triển của thực tiễn, còn “nợ” thực tiễn nhiều vấn đề chưa giải quyết, tính dự báo không cao. Không ít vấn đề lý luận chậm sơ kết, tổng kết; kết quả nghiên cứu chậm được ứng dụng, thậm trí lạc hậu, xa rời thực tiễn.
Nhiều cấp ủy đảng ở địa phương nhận thức hạn chế về công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Vẫn còn tâm lý coi nhẹ, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ tổng kết thực tiễn. Việc học tập, quán triệt, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng của nhiều đảng viên có nơi còn hình thức, thụ động; công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch tiến hành chưa thường xuyên, một số trường hợp tính thuyết phục chưa cao.
Hai là, các cơ quan nghiên cứu lý luận tuy đã có bước phát triển nhất định, song còn phân tán hoặc trùng lắp, chưa được kiện toàn sắp xếp một cách hợp lý; chưa thật sự có cơ quan đủ mạnh, đủ sức quy tụ các đơn vị nghiên cứu thành một khối thống nhất, cùng phối - kết hợp giải quyết các chương trình, nhiệm vụ lớn; việc quy hoạch hệ thống các cơ quan nghiên cứu về dài hạn còn nhiều bất cập, chậm đổi mới; chưa thực sự phát huy được tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu lý luận. Chất lượng dậy và học các môn lý luận chính trị trong hệ thống các trường đào tạo của Đảng, đoàn thể, hệ thống giáo dục quốc dân còn chậm đổi mới về nội dung, phương pháp.
Việc chỉ đạo định hướng nghiên cứu lý luận chưa thường xuyên, kịp thời, chưa có chiến lược phát triển dài hạn, về cơ bản là thực hiện theo nhiệm kỳ đại hội Đảng; còn thiếu nhiều cơ chế, chính sách riêng phù hợp với tính chất đặc thù của hoạt động này. Kinh phí đầu tư cho hoạt động nghiên cứu lý luận vừa thiếu, vừa lãng phí, chưa thực sự có đủ nguồn lực đủ mạnh để giải quyết những vấn đề lý luận lớn của đất nước; định hướng hợp tác quốc tế về các vấn đề lý luận, thực tiễn của đất nước còn nhiều hạn chế. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận hiện nay thiếu về số lượng, hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, quá ít chuyên gia đầu đàn trên các lĩnh vực; lòng nhiệt tình, sự say mê nghiên cứu bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu trẻ gặp nhiều khó khăn trong đời sống, chưa thực sự tâm huyết, chưa thu hút được nhiều cán bộ giỏi tham gia công tác lý luận trong điều kiện hiện nay.
Ba là, mặc dù việc xây dựng môi trường dân chủ, sáng tạo trong nghiên cứu lý luận đã được quan tâm nhất định, song chưa được thể chế kịp thời, đồng bộ; nhiều vấn đề được cho là “ nhạy cảm”, “ mật” chưa kịp thời làm rõ, định hướng cụ thể, dẫn tới hạn chế sự tham gia nghiên cứu của giới khoa học, nhưng dễ bị các thế lực thù địch, cơ hội lợi dụng, chống phá. Mặt khác, không ít những kết quả nghiên cứu lý luận mới chậm được khai thác và ứng dụng trong thực tiễn, gây lãng phí nguồn lực trí tuệ của xã hội.
2. Trong xử lý, tiếp thu kết quả nghiên cứu lý luận
Một là, công tác xử lý, tiếp thu các lý luận còn trong tình trạng lạc hậu trên một số mặt, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đang vận động nhanh chóng, phong phú và phức tạp; không ít vấn đề đã rõ nhưng chậm được cập nhật, tiếp thu đầy đủ, một số vấn đề mới chưa được tổng kết, làm rõ.
Nhiều vấn đề lớn, bức xúc đặt ra từ thực tiễn trong nước và quốc tế chưa tìm ra hướng giải quyết hoặc giải đáp chưa có sức thuyết phục. Một số vấn đề lý luận đã thảo luận, làm rõ, nhưng chậm được kết luận, khẳng định để đưa vào thực hiện. Kết quả các công trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn có chất lượng chưa cao, còn trùng lắp, không ít công trình tính ứng dụng thấp, thậm trí mới dừng ở mức giải thích nghị quyết. Hiệu quả nghiên cứu chưa tương xứng với sự đầu tư của Đảng và Nhà nước. Nhiều kết quả nghiên cứu lý luận có giá trị chưa được tổ chức chắt lọc và sử dụng.
Hai là, công tác nghiệm thu, thẩm định, đánh giá chất lượng các chương trình, đề tài tuy đã bước đầu đổi mới, đặc biệt từ khi có Nghị quyết 20, khóa XI về phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ trọng điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, tuy nhiên trong nhiều trường hợp, đánh giá chưa thực sự khách quan, khoa học. Hầu như ít có chương trình, đề tài bị đánh giá không đạt yêu cầu về chất lượng. Các kết quả nghiên cứu sau nghiệm thu được xã hội hóa còn hạn chế, tính công khai, minh bạch trong đánh giá về giá trị ứng dụng, tác động, ảnh hưởng đến đời sống xã hội chưa đươc quan tâm đúng mức. Chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu chung về kết quả nghiên cứu lý luận phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý và công tác nghiên cứu, ứng dụng.
Ba là, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhà lý luận và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, giữa công tác nghiên cứu lý luận và công tác giảng dạy, đào tạo lý luận còn hạn chế.
Trên thực tế có sự tách rời giữa nghiên cứu lý luận với công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong thực tiễn. Không ít trường hợp người “làm” thực tiễn ít quan tâm lý luận, cán bộ nghiên cứu không có điều kiện tham gia các hoạt động thực tiễn; cán bộ giảng dậy lý luận dậy “chay”, việc nghiên cứu mang tính chiếu lệ, bỏ “ ngăn kéo” hoặc không được quan tâm xã hội hóa, ứng dụng. Tính phản biện trong nghiên cứu, trong xử lý và tiếp thu các vấn đề lý luận chưa cao, tính “cát cứ” thiếu sự phối hợp còn phổ biến...
Bốn là, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch tuy đã đạt được một số kết quả nhất định, đặc biệt từ khi có Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị, khóa XII về vấn đề này. Mặc dù vậy, tính chủ động, tính dự báo cần tiếp tục được nâng cao hơn nữa; nội dung, phương thức đấu tranh, đặc biệt là trên mạng xã hội cần đổi mới mạnh mẽ hơn. Cần nhận diện kịp thời, cụ thể hơn các loại tội phạm, các loại hình an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống, âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá mới, đặc biệt là các hình thức công nghệ cao. Đội ngũ cán bộ lý luận, cán bộ tác chiến trên lĩnh vực này tuy có bước phát triển mới, nhưng cần nâng cao tính chuyên nghiệp, sự phối hợp giữa các cơ quan, theo phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; vấn đề lực lượng vũ trang làm kinh tế, việc “ phi chính trị hóa quân đội, công an..
III. Về một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận trong thời gian tới
Công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước càng đi vào chiều sâu, càng đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng công tác nghiên cứu lý luận. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “ Đẩy mạng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, định hướng chính sách. Thực hiện nghiêm quy định dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị, tạo môi trường dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của các tổ chức và cá nhân. Chú trọng cập nhật kết quả tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; sớm kết luận những vấn đề lý luận đã chín, đã rõ, phát triển, hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”[2] . Điều này càng khẳng định tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận trong thời gian tới.
Bối cảnh mới có nhiều đặc điểm chi phối tới yêu cầu nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, đó là tình hình thế giới biến đổi khó lường, sự bất ổn, xung đột vũ trang, cạnh tranh giữa các nước trong quá trình phát triển, cách mạng khoa học, công nghệ, đặc biệt là cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động sâu sắc tới các quốc gia..để ổn định và phát triển. Việt Nam sau Đại hội XIII của Đảng sẽ có nhiều thời cơ mới, cùng thách thức đan xen, đòi hỏi muốn nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận phải có nhiều giải pháp phù hợp.
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác lý luận
Tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, sớm ban hành các văn bản chỉ đạo về các vấn đề, như: hoàn thiện môi trường dân chủ, sáng tạo trong nghiên cứu lý luận; tổ chức diễn đàn trao đổi, đối thoại về các vấn đề lý luận có ý kiến khác với chủ trương, đường lối của Đảng; định hướng nghiên cứu các vấn đề tư tưởng, lý luận lớn của Đảng cần tập trung giải quyết, ngoài Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị, khóa XI đã đề cập...
Các cấp uỷ đảng, chính quyền phải thường xuyên phát hiện vấn đề, chủ động phối hợp với các cơ quan nghiên cứu để tổng kết thực tiễn, đúc kết lý luận. Xác định quan điểm, phương hướng nghiên cứu, giao nhiệm vụ cho một số cơ quan có trách nhiệm, nhóm nghiên cứu lớn thông qua hệ thống các chương trình, đề tài nghiên cứu trọng điểm trong từng thời kỳ, nhất là những vấn đề lý luận còn “ nợ” nhiều nhiệm kỳ; phát huy tự do tư tưởng, tạo mọi điều kiện cần thiết cho hoạt động nghiên cứu và các mặt công tác khác trên lĩnh vực lý luận; hình thành các “ think tank” trên một số lĩnh vực; thực sự phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, tổ chức, thu hút cán bộ khoa học và các cơ quan khoa học tham gia tích cực vào quá trình hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hoàn thiện tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá cán bộ về công tác lý luận thống nhất trong hệ thống chính trị, tiêu chí đánh giá, ứng dụng về kết quả nghiên cứu lý luận chính trị.
2. Tiếp tục kiện toàn các cơ quan lý luận
Hoàn thiện các quy định về hoạt động nghiên cứu, xử lý, tiếp thu kết quả nghiên cứu nhằm đưa công tác này đi vào nề nếp, phát huy đầy đủ tự do sáng tạo trong quá trình tìm tòi, khám phá chân lý; mở rộng hợp tác quốc tế.
Kiện toàn các cơ quan nghiên cứu, các cơ sở đào tạo, phân định rõ chức năng và nhiệm vụ, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo, nghiên cứu trong hệ thống Đảng, đoàn thể và hệ thống các trường đại học, viện nghiên cứu nhà nước về công tác lý luận.
Phát huy vai trò của Hội đồng lý luận Trung ương trong tư vấn, nghiên cứu và là đầu mối trong tập hợp lực lượng. Củng cố, tăng cường và phát triển nhanh một số ngành khoa học quan trọng. Xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông kết quả nghiên cứu giữa các cơ quan khoa học. Có giải thưởng hàng năm cho các công trình khoa học xã hội và lý luận thật sự có giá trị cao.
3. Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác lý luận
Đa dạng hoá các hình thức và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, lấy các trường đại học, viện nghiên cứu làm trung tâm mạnh trong hợp tác quốc tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả trao đổi lý luận giữa Đảng ta với các đảng cộng sản, đảng cầm quyền về những vấn đề lý luận, thực tiễn Việt Nam quan tâm.
Coi trọng công tác thông tin khoa học về những thành tựu của các nước trên thế giới, đặc biệt các nước có những điểm tương đồng về ý thức hệ; những quốc gia có mô hình hay, kinh nghiệm giải quyết các vấn đề lý luận, thực tiễn mà Việt Nam quan tâm trong quá trình hội nhập và phát triển đất nước.
4. Đổi mới nội dung và phương pháp đấu tranh tư tưởng, lý luận trong điều kiện mới
Xác định rõ những mục tiêu trực tiếp, cụ thể trong từng giai đoạn cần nghiên cứu, tổng kết. Khẳng định và bảo vệ một cách khoa học vững chắc, có sức thuyết phục những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Quán triệt tinh thần đối thoại khoa học, dân chủ, bình đẳng, tôn trọng sự thật và chân lý khách quan, không áp đặt, quy chụp đối với những người có quan điểm khác, tạo sự thống nhất nhận thức và hành động. Phê phán, vạch trần những âm mưu, thủ đoạn, làm rõ bản chất phản khoa học của những luận điệu sai trái, chống đối, thù địch và phản động.
Đa dạng hóa các hình thức và phương thức đấu tranh, đặc biệt là trên không gian mạng, giữ vững quan điểm và nguyên tắc, mềm dẻo linh hoạt trong phương pháp, công khai minh bạch, dân chủ, đối thoại, gây dựng dư luận xã hội lành mạnh để đồng thuận, nhất trí trong xây và chống.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của báo chí, của các phương tiện truyền thông đại chúng, các diễn đàn khoa học trong tuyên truyền kết quả nghiên cứu, những định hướng lớn cần quan tâm, những kết quả tiếp thu, xử lý các vấn đề lý luận và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Tạo điều kiện để các kết quả nghiên cứu mới được công bố rộng rãi, tạo sự thống nhất nhận thức, vì sự phát triển tốt đẹp của dân tộc, sự ổn định bền vững của chế độ, vì cuộc sống của nhân dân. Có hình thức định hướng dư luận phù hợp, quản lý hiệu quả mạng xã hội về các nội dung liên quan đến tư tưởng, lý luận, đạo đức lối sống .
5. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ lý luận
Quan tâm đúng mức để xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, nhất là các chuyên gia đầu ngành có trình độ cao góp phần giải quyết những vấn đề do thực tiễn đất nước và thời đại đặt ra; đổi mới, nâng cao trình độ, phương pháp nghiên cứu, nhất là khả năng dự báo. Có chính sách và biện pháp thích hợp nhằm phát huy trí tuệ, sự lao động sáng tạo của những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, bản lĩnh chính trị vững vàng.
Đổi mới căn bản công tác đào tạo cán bộ lý luận, từ quy hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp đến quy chế tuyển chọn, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, ưu tiên những ngành lý luận mũi nhọn. Nâng cao trình độ, phương pháp luận duy vật biện chứng, chất lượng nghiên cứu khoa học, chất lượng giảng dậy lý luận chính trị trong các cơ sở đào tạo. Hiện đại hóa các phương pháp tiếp cận...
6. Tăng ngân sách đầu tư cho các hoạt động lý luận
Phân bổ hợp lý nguồn kinh phí từ ngân sách, ưu tiên cho nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm; có cơ chế hợp lý thu hút nguồn lực xã hội, hợp tác quốc tế nhằm bảo đảm từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất phục vụ công tác nghiên cứu.
Hiện đại hoá hệ thống thông tin, dữ liệu lớn và bảo đảm cung cấp thông tin cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn... Có chính sách khuyến khích, đãi ngộ thích đáng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của các nhà khoa học, tăng cường tiểm lực cho hoạt động nghiên cứu lý luận; hiện đại hóa hệ thống các viện, học viện, cơ quan nghiên cứu lý luận...
PGS.TS Phạm Văn Linh
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
[1] Trích “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)”.
[2] Văn kiện Đại hội Đại biêt toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, NXB CTQG. H