Từ khi ra đời đến nay, Đảng đã xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua các thời kỳ lịch sử, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ. Trong bối cảnh đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để hiện thực hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
1. Sự phát triển nhận thức của Đảng về phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới
Tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930), Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng nêu rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “để đi tới xã hội cộng sản”[1]. Tiếp đó, Luận cương Chính trị tháng 10-1930 nhấn mạnh, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là: “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”[2]. Như vậy, ngay từ khi mới được thành lập, Đảng đã dứt khoát lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập (1930 – 1945), độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt; chủ nghĩa xã hội là phương hướng tiến lên.
Bước vào cuộc kháng chién chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954), Đảng chủ trương: vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.Trong nhiệm vụ kiến quốc, Đảng và Chính phủ chú trọng phát triển chế độ dân chủ nhân dân nhằm tạo những tiền đề, mầm mống tiến tới chủ nghĩa xã hội khi kháng chiến thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “... Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”[3]. Phát triển kỹ nghệ, tức lực lượng sản xuất hiện đại để phát triển công nghiệp, nông nghiệp ở trình độ cao, đặc biệt là nhân tố con người, phải nâng cao dân trí, xây dựng con người phát triển toàn diện có trí tuệ và năng lực tự giác xây dựng một xã hội mới. Quan điểm của Hồ Chí Minh là sự khởi đầu nhận thức về xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thực tiễn Việt Nam.
Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2-1951) thông qua Luận cương cách mạng Việt Nam, xác định phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là: hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Luận cương nêu rõ: “… nhiệm vụ trung tâm của Đảng là đẩy mạnh việc kỹ nghệ hóa, phát triển kỹ nghệ nặng, phát triển thật rộng bộ phận kinh tế Nhà nước, tập thể hóa nông nghiệp dần dần, thực hiện những kế hoạch dài hạn để gây thêm và củng cố cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, đặng tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Những bước cụ thể của giai đoạn này phải tùy theo điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và ngoài nước khi đó mà quyết định. Song một điều chắc chắn là chừng nào ta chưa chuẩn bị cơ sở kinh tế đầy đủ và chưa làm cho số đông quần chúng nhân dân nhận rõ chủ nghĩa xã hội là cần thiết, thì chủ nghĩa đó chưa thể thực hiện được. Ở nước ta, thời gian chuẩn bị đó, so với các nước dân chủ nhân dân khác, nhất định sẽ lâu hơn, vì ta phải kiến quốc trên cơ sở một nước nông nghiệp lâu năm bị đế quốc thống trị, tàn phá”[4].
Trong bản Báo cáo với tiêu đề “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội”, do đồng chí Trường Chinh trình bày tại Đại hội chỉ rõ, cách mạng Việt Nam trải qua ba giai đoạn: (i) giải phóng dân tộc; (ii) phát triển dân chủ nhân dân và (iii) tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn này có mối quan hệ mật thiết với nhau và không tách rời nhau, tạo tiền đề, điều kiện cho nhau cùng phát triển. Như vậy, dù trải qua những giai đoạn khác nhau nhưng cách mạng Việt Nam cũng tất yếu đi theo con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội: “Cách mạng Việt Nam sẽ đi đến đâu? Đi con đường tất yếu của nó tiến tới chủ nghĩa xã hội, quyết không thể có một con đường nào khác.”[5]. Trong đó, “dân chủ nhân dân là thời kỳ quá độ tiến tới chủ nghĩa xã hội” để hoàn thành dân chủ nhân dân, Đảng ta chủ trương thực hiện các nội dung chính trị, kinh tế, văn hóa dân chủ nhân dân. Trong đó:
- “Chính trị dân chủ nhân dân nước ta hiện nay là củng cố Nhà nước nhân dân, củng cố cơ sở chính trị của chính quyền là Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế”[6].
- “Kinh tế dân chủ nhân dân là kinh tế của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.., gồm có kinh tế nhà nước …bộ phận hợp tác xã,… bộ phận kinh tế nhỏ,.. bộ phận kinh tế tư bản tư nhân... Ngoài ra, còn bộ phận tư bản nhà nước gồm những xí nghiệp do tư bản tư nhân cùng chung vốn với Nhà nước kinh doanh, hoặc các xí nghiệp và tài nguyên của Nhà nước nhượng cho tư nhân kinh doanh có điều kiện”[7].
- “Văn hóa dân chủ nhân dân của ta có ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng”[8].
Về đặc điểm phát triển của cách mạng Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng khẳng định là đi lên “từ xã hội có tính chất thuộc địa, nửa phong kiến qua dân chủ nhân dân, đến xã hội hội chủ nghĩa.”[9]. Đây là một quá trình lâu dài tùy thuộc vào những biến hóa của kẻ thù, những hỗ trợ của đồng minh và sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng và toàn dân ta. Điều đặc biệt có tích chất tiến bộ là Đại hội đã khẳng định sự cần thiết tồn tại thành phần kinh tế tư nhân trong thời gian lâu dài ở nước ta. “Vì trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, nên thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội không thể ngắn. Kinh tế tư nhân nước ta còn tồn tại và phát triển trong một thời gian lâu dài.”[10].
Như vậy, mặc dù cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp của đế quốc Mỹ chưa kết thúc, sự nghiệp giải phóng dân tộc còn nhiều khó khăn và thử thách nhưng với tầm nhìn xa, trông rộng, Đảng đã đề ra những bước đi cụ thể của cách mạng Việt Nam cho cả hiện tại và tương lai. Trong những bước đi cụ thể đó, có những tư tưởng về thời kỳ quá độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở. Bước đầu chỉ ra được đặc điểm, tính chất và những nhiệm vụ của thời kỳ đó. Trong đó, việc khẳng định sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân được khẳng định còn tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là những giá trị cần được vận dụng sáng tạo và thực sự cần thiết cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Sau Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 – 1975), nhận thức lý luận của Đảng về phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội không ngừng được bổ sung, phát triển, gắn chặt với thực tiễn đất nước. Sự bổ sung, phát triển này được thể hiện ở những điểm chính sau:
Về hình thức quá độ, Đảng xác định, đó là quá độ gián tiếp, tức là Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội mà không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. “Đối với nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa...”[11].
Về đặc điểm quá độ, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, phong kiến, trình độ phát triển rất thấp, đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội.Điều này đã được chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[12]. Bên cạnh đặc điểm lớn nhất này, “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.”[13].
Điều này đồng nghĩa với việc cùng một lúc đất nước ta phải thực hiện hai quy luật tưởng chừng như trái ngược nhau nhưng lại rất thống nhất, đó là vừa xây dựng, kiến thiết, vừa sẵn sàng hy sinh sức người, sức của để đấu tranh thống nhất đất nước.
Về những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định: “… nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”[14].
Trong những năm 1979-1986, là giai đoạn Đảng từng bước đầu tìm ra phương hướng căn bản về con đường thích hợp quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu. Quá trình tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới của Đảng cho thấy, tư duy mới, trước hết là tư duy kinh tế của Đảng từng bước hình thành và phát triển, được thể hiện qua các bước đột phá sau:
Bước đột phá thứ nhất: Nội dung Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV tháng 8-1979 thể hiện sự đổi mới bước đầu trong nhận thức của Đảng về vai trò của các thành phần kinh tế đối với nền kinh tế quốc dân; quan hệ giữa kế hoạch và thị trường; tầm quan trọng của vấn đề lưu thông phân phối... Những điểm mới trong Nghị quyết Trung ương 6, khóa IVlà tín hiệu đổi mới, hé mở những ý tưởng để tìm kiếm con đường thích hợp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn của Đảng.
Bước đột phá thứ hai: Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa V (6-1985) chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Hội nghị có sự đổi mới tư duy trên lĩnh vực phân phối lưu thông với nét nổi bật là thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa.
Bước đột phá thứ ba: Trước những đòi hỏi bức thiết của thực tiễn, cuối tháng 8-1986, Bộ Chính trị và Ban Bí thư tổ chức Hội nghị và ra Kết luận “Về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế”. Kết luận nêu ra ba vấn đề lớn về kinh tế của thời kỳ quá độ: bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế. Điểm cốt lõi trong Kết luận là: Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, tự tạo vốn và hoàn vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, thu nhập của tập thể và người lao động. Phân biệt chức năng quản lý hành chính - kinh tế của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Kế hoạch phải thông qua thị trường, coi thị trường là căn cứ để xây dựng và điều chỉnh kế hoạch. Giá cả phải phù hợp với giá trị, sức mua của đồng tiền và quan hệ cung cầu, từ đó kích thích người lao động làm ra nhiều sản phẩm, nâng cao chất lượng và hạ giá thành. Phấn đấu thi hành chính sách một giá, làm cho thương nghiệp mua được, bán được, Nhà nước không phải bù lỗ.
Những quan điểm trên có giá trị quan trọng về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là cơ sở cho việc soạn thảo Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng. Kết luận của Bộ Chính trị “Về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế”, thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, phù hợp với quy luật khách quan và trình độ của nền kinh tế đất nước.
2. Sự phát triển nhận thức của Đảng về phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới và yêu cầu bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới
Trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12 - 1986) đã đề ra Đường lối đổi mới toàn diện. Đường lối đổi mới đáp ứng yêu cầu bức thiết của cuộc sống, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và xu thế phát triển của thời đại nên đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân tộc và mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước để đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới.
Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, trước những nguy cơ và thách thức từ sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng vẫn chủ trương tiếp tục vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể và đặc điểm của Việt Nam. Bởi lẽ: “Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”[15].Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”[16]. Cùng với việc xác định 8 đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh đề ra 8 phương hướng xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.Những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa và 8 phương hướng lớn là định hướng để xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đồng thời với xác định hệ mục tiêu, những giá trị cụ thể của chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định, phải nhận thức và giải quyết tốt những mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới về chính trị; quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (1-2021) đề ra mục tiêu đến năm 2030: Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ với các đặc trưng cơ bản: (1) Đạt được một xã hội thịnh vượng, có thu nhập thuộc nhóm trên của các nước thu nhập trung bình cao của thế giới. Nền kinh thị trường có năng lực cạnh tranh cao, phát triển năng động, nhanh, bền vững, làm chủ công nghệ và hội nhập nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, nền kinh tế dựa trên cơ sở khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. (2) Một nhà nước pháp quyền, có cơ chế quản trị hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả, minh bạch và bảo đảm trách nhiệm giải trình; tập trung nhiều hơn quản trị phát triển và quản lý xã hội. (3) Một xã hội văn minh, hiện đại, trong đó người dân được phát huy sức sáng tạo, khơi dậy được ý chí, khát vọng phát triển, sức mạnh toàn dân tộc, có xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự kỷ cương, an toàn, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. (4) Một môi trường bền vững sẽ bảo vệ chất lượng không khí, đất và nguồn nước, tạo khả năng thích ứng và chống chịu giảm thiểu những rủi ro nghiêm trọng do biến đổi khí hậu; hướng tới phát triển chủ yếu nguồn năng lượng đa dạng, sạch và an toàn.
Để đạt được mục tiêu đến năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Việt Nam trở thành nước phát triển thì toàn Đảng, toàn dân phải tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, là người khởi xướng và lãnh đạo nên Đảng phải kiên quyết, kiên trì mục tiêu, không nao núng trước những khó khăn, thử thách; phát huy bản lĩnh, trí tuệ và truyền thống đoàn kết, tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cách mạng mới; chú trọng nêu gương của những người đứng đầu, giữ trọng trách trong các cơ quan Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình, thực hiện nghiêm minh kỷ cương, kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát huy dân chủ, công khai minh bạch; nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và tiêu cực. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo có tâm, có tài, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, trước hết.
Thứ hai, phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt dân tộc, giai cấp, người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài.Phát huy vai trò là trung tâm, là chủ thể của nhân dân trong công cuộc đổi mới. Khơi dậy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước và sức mạnh của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế Nhà nước, kinh tế tư nhân; phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển như là động lực và nguồn lực để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giáo dục sâu rộng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh mới.
Thứ ba, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam phải mở rộng quan hệ với tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, xây dựng mối quan hệ hợp tác toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - giáo dục, quốc phòng - an ninh, đặc biệt là 5 nước Thường trực Bảo an Liên hợp quốc, các nước lớn, các nước ASEAN, Châu Á – Thái Bình Dương, liên minh châu Âu…Qua đó, tranh thủ vốn, khoa học kỹ thuật - công nghệ và kinh nghiệm của các quốc gia, dân tộc, đặc biệt là những thành tựu tiên tiến về phát triển kinh tế số.Đó chính là nguồn ngoại lực quan trọng kết hợp với nội lực của đất nước để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay.
Từ khi ra đời đên nay, Đảng Cộng sản luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong các thời kỳ lịch sử, trên cơ sở điều kiện cụ thể, nhận thức lý luận của Đảng về phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội không ngừng được bổ sung, phát triển.Thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam là minh chứng hùng hồn khẳng định chân lý: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[17].
PGS, TS Nguyễn Danh Tiên*
* Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.2.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.94.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.315.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.89.
[5]Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.87.
[6]Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.103.
[7]Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.106.
[8]Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.109.
[9]Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 87.
[10]Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 108.
[11]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.535.
[12]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.411.
[13]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.916.
[14]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.412.
[15]Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, H. 1991, tr8.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, trang 70..
[17]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.70.