Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Vai trò của ngoại giao nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ​

Ngày phát hành: 31/08/2022 Lượt xem 4383


Quang cảnh Hội nghị Pari về Việt Nam (ảnh tư liệu)

 

Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, trong đó có lực lượng làm công tác đối ngoại mà ngoại giao nhà nước là một trong ba trụ cột. Đại hội XIII đã xác định chủ trương xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại dựa trên ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đại hội XIII cũng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy với vai trò là phương cách quan trọng hàng đầu trong tư duy giữ nước, gìn giữ hòa bình, duy trì ổn định, phục vụ các mục tiêu phát triển của đất nước.

Tham luận sẽ tập trung phân tích, làm rõ ba nội dung chính: Cách hiểu và cách tiếp cận đối với “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy”; vai trò của ngoại giao nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ trên; một số suy nghĩ và khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của ngoại giao nhà nước trên cơ sở thế mạnh đặc thù và phối hợp với hai trụ cột đối ngoại đảng và đối ngoại nhân dân.

 

1. Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy

Không phải đến Đại hội XIII, Đảng ta mới đưa ra quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy. Trên thực tế, tư duy đó bắt nguồn từ sự kế thừa truyền thống chủ động bảo vệ đất nước của cha ông ta. Từ thế kỷ XV, vua Lê Thái Tổ đã đưa ra huấn thị qua phương châm “Biên phòng hảo vị trù phương lược - Xã tắc ưng tu kế cửu an”, dịch nghĩa là: Biên phòng phải lo sẵn phương lược - Giữ nước cần tính kế lâu dài. Tư duy bảo vệ “phên giậu”, “nhu viễn”, giữ quan hệ hữu nghị, khéo léo nhưng có nguyên tắc với lân bang, các nước láng giềng đã xuất hiện từ rất sớm.

Đến thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng đó tiếp tục được phát triển một cách hệ thống, sâu sắc và nhất quán. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân cho nền ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến” để bảo vệ đất nước, giành giữ độc lập ngay từ khi lực lượng còn non trẻ và trong những tình huống “ngàn cân treo sợi tóc”. “Hòa để tiến” là một ví dụ sách lược thành công để tránh nạn binh đao cho đất nước. Các mối quan hệ hữu nghị được vun đắp giữa Việt Nam với bạn bè quốc tế đã giúp tạo thành một mặt trận và là nguồn lực quan trọng tạo lên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong thế kỷ XX.

Trong thời kỳ đổi mới, tư duy bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy đã được triển khai trên mọi lĩnh vực và phương diện trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XII đã nêu quan điểm “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”[1]. Trước đó, nhiều vấn đề lý luận thực tiễn về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa cũng đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

Theo cách hiểu hẹp, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy là việc bảo vệ ngoài biên giới lãnh thổ (thay vì chờ nước đến chân mới nhảy). Còn theo nghĩa rộng là “bao gồm cả bảo vệ Tổ quốc từ bên ngoài lãnh thổ và cả bảo vệ từ trước, phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị các điều kiện để bảo vệ Tổ quốc ngay trong thời bình, khi đất nước chưa nguy, lấy việc phòng ngừa từ trước, chuẩn bị từ trước làm chủ yếu, theo phương châm không phải sử dụng chiến tranh là thượng sách”[2]. Hiểu một cách chi tiết hơn, “Quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” là tổng thể các tư tưởng, hành động của Đảng, Nhà nước và nhân dân diễn ra từ trước, nhằm sớm phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi, triệt tiêu những âm mưu, hành động chống phá chế độ, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[3].

Nhờ có tư duy bảo vệ từ sớm từ xa, đất nước đã có nền hòa bình, độc lập vững chắc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia được bảo đảm, có điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển và nâng cao vị thế quốc tế. Tư duy đó đã góp phần vào thành công toàn diện của đất nước trong thời kỳ đổi mới.

Nhìn rộng ra, nhiều nước trên thế giới cũng có cách tiếp cận và tư duy tương tự có thể so sánh và tham khảo. Binh pháp Tôn tử đề cao chiến lược “bất chiến tự nhiên thành”, nghĩa là không đánh mà thắng. Người Do Thái thường nói “nếu ta không chủ động tìm đến vấn đề, vấn đề sẽ tìm đến ta”. Singapore, mặc dù chỉ là “chấm đỏ nhỏ trên bản đồ thế giới” nhưng nhờ tạo thế đan xen lợi ích sâu rộng với thế giới nên đã được cộng đồng quốc tế tôn trọng trên nhiều phương diện...

 

Lễ kí kết Hiệp định Paris (ảnh tư liệu)

 

2. Ngoại giao nhà nước góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy

Là lực lượng chủ công trong nền ngoại giao Việt Nam, ngoại giao nhà nước trong những năm qua đã đóng góp quan trọng vào việc thực hiện hiệu quả chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy. Trong thời kỳ đổi mới, “đối ngoại luôn thực hiện nhiệm vụ bao trùm và thường xuyên là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước”[4].

Nhiệm vụ trên đã được cụ thể hóa trong các đối sách và hoạt động phong phú, từ công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu đến ngoại giao song phương và đa phương, từ hội nhập kinh tế đến văn hóa đối ngoại, đối ngoại quốc phòng, an ninh, từ bảo vệ quyền lợi và lợi ích của công dân Việt Nam ở nước ngoài đến công tác biên giới, lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam tại Biển Đông.

Đánh giá về vai trò của đối ngoại, trong đó có ngoại giao nhà nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu khái quát bốn thành tựu lớn: Một là, từ phá thế bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mới; hai là, chúng ta đã tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các nguồn lực từ bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội; ba là, đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; bốn là, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới[5].

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định “những cố gắng, kết quả và thành tích của chúng ta nói trên đã góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”2.

Các thành tựu trên có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau nhưng đều dựa trên mẫu số chung, đó là bảo vệ, phát huy lợi ích quốc gia-dân tộc và trên cơ sở kế thừa truyền thống ngoại giao cha ông, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, đường lối của Đảng.

Điểm đặc sắc trong nền ngoại giao Việt Nam chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Có thể nói, ít có nước nào có nền ngoại giao với sự tham gia đa dạng về phương thức mà thống nhất về mục tiêu như Việt Nam hiện nay. Các trụ cột đã bổ sung, tạo sức mạnh cộng hưởng cho nhau và đem đến diện mạo “kết hợp cương nhu”, uyển chuyển linh hoạt nhưng có nguyên tắc của đối ngoại Việt Nam.

Một ví dụ tiêu biểu về một trong những lực lượng quan trọng của ngoại giao nhà nước là đối ngoại quốc phòng. Theo đó, trong những năm qua, lực lượng đối ngoại quốc phòng đã góp phần “thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 nước trên thế giới, trong đó có đầy đủ năm nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn với nhiều lĩnh vực, cơ chế hợp tác thực chất, hiệu quả như: Đào tạo, trao đổi đoàn quân sự, hợp tác quân binh chủng, công nghiệp quốc phòng, gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, đối thoại chính sách quốc phòng cũng như các hoạt động giao lưu quốc phòng biên giới, biên cương thắm tình hữu nghị, kết nghĩa đồn, trạm, cụm dân cư hai bên biên giới; diễn tập phòng chống các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống như: diễn tập quân y, cứu hộ - cứu nạn, chống cướp biển, tội phạm xuyên biên giới, tổ chức các hoạt động tuần tra chung trên biên giới, trên biển; tham gia Hội thao Quân sự Quốc tế Army Games, Hội thao Quân sự ASEAN; hợp tác trong khắc phục hậu quả chiến tranh; xử lý ô nhiễm bom, mìn và chất độc da cam/dioxin; tăng cường đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần củng cố, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế”[6]. Công tác đối ngoại quốc phòng đã được “Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tích cực, chủ động, lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt và hiệu quả trên cả bình diện song phương và đa phương”2.

3. Một số suy nghĩ và khuyến nghị

Với cách tiếp cận “dùng đối ngoại để phòng ngừa, ngăn chặn chiến tranh hoặc để sớm kết thúc chiến tranh trong vị thế có lợi nhất; đối ngoại phải luôn luôn phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp đối nội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”3, trong thời gian tới, ngoại giao nhà nước nên chú trọng triển khai một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo tham mưu, trên cơ sở có sự phối hợp chặt chẽ, liên thông giữa các bộ, ngành và giữa ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Công tác nghiên cứu chính là một lĩnh vực quan trọng nhằm phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại theo định hướng của Đại hội XIII, góp phần “nắm trước, biết trước”, tránh bị động, bất ngờ, đặt đất nước vào các điều kiện tối ưu về an ninh và phát triển. Bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường như thể hiện ở đại dịch Covid-19 hay cuộc xung đột Nga - Ukraina hiện nay càng đòi hỏi sự coi trọng công tác nghiên cứu, dự báo và tham mưu.

Thứ hai, tiếp tục hiện đại hóa các lực lượng làm công tác ngoại giao nhà nước, quốc phòng, đổi mới mô hình về tăng trưởng kinh tế nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước, qua đó góp phần hạn chế các tính toán phiêu lưu của các thế lực thù địch, các đối tượng có âm mưu chống phá và xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam. Tư duy ở đây không chỉ là “để tránh chiến tranh hãy chuẩn bị cho chiến tranh” mà là một cách tiếp cận tổng thể, toàn diện hơn, dựa trên việc phát huy sức mạnh cộng hưởng của các lực lượng, dựa trên “thế trận lòng dân” đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng.

Thứ ba, cụ thể hóa đường lối đối ngoại Đại hội XIII, trong đó có đối ngoại quốc phòng, “chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc”[7], theo hướng “lấy đối ngoại quốc phòng làm công cụ quan trọng giải quyết tranh chấp, bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc; tạo lợi thế chính trị trong mọi biến động của tình hình, đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực. Mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là, thiết lập và phát triển quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, nhằm huy động các nguồn lực bên ngoài vào củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang, giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[8].

Có thể thấy, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy là chủ trương đúng đắn của Đảng, là sự kế thừa tinh hoa về tư tưởng của cha ông trong lịch sử đấu tranh dựng nước gắn với giữ nước; và là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới. Tư duy đó đã góp phần đem đến những thành tựu có tính lịch sử của nền ngoại giao Việt Nam, được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận. Trong tình hình mới hiện nay, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước tà khi nước chưa nguy thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng[9] và để góp phần hiện thực hóa tầm nhìn, tư duy đó, đòi hỏi sự chủ động của các lực lượng làm công tác đối ngoại, trong đó có ngoại giao nhà nước.

Ngoại giao chính là “tuyến phòng thủ đầu tiên”[10], để góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm từ xa.Ngoại giao nhà nước trong thời gian tới nên tiếp tục chú trọng công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng làm đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng. Một trong những phương cách hữu hiệu để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa phải chăng là đầu tư thực chất hơn nữa cho việc khai phá những “không gian chiến lược mới”, bổ sung, mở rộng không gian chiến lược quốc gia trong “không gian mạng”, thiết lập các “đường biên giới mềm” ra ngoài giới hạn của “đường biên giới cứng” thông qua quá trình hội nhập quốc tế, ngoại giao song phương và đa phương, tạo thế trận “phòng thủ từ xa và theo chiều sâu” một cách vững chắc[11]. Ngoại giao nhà nước luôn và cần đóng vai trò xứng đáng trong những nỗ lực đó./.

 

PGS. TS Lê Đình Tĩnh

Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược Ngoại giao Học viện Ngoại giao

 

 



[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.149.

[2] Đỗ Văn Soan, “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa- điểm mới trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng”, Hải quân Việt Nam, 01/2017, https://baohaiquanvietnam.vn/tin-tuc/bao-ve-to-quoc-tu-som-tu-xa-diem-moi-trong-van-kien-dai-hoi-lan-thu-xii-cua-dang, truy cập ngày 18/4/2022.

[3] Lê Văn Hải, Tiếp tục quán triệt, thực hiện quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng”, Quốc phòng Toàn dân, 5/2021, http://m.tapchiqptd.vn/vi/quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet/tiep-tuc-quan-triet-thuc-hien-quan-diem-bao-ve-to-quoc-tu-som-tu-xa-cua-dang-17174.html, truy cập ngày 18/4/2022.

[4] Bùi Thanh Sơn, “Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, 11/2021, https://dangcongsan.vn/thoi-su/duong-loi-doi-ngoai-dai-hoi-dang-xiii-ke-thua-phat-trien-va-hoan-thien-duong-loi-doi-ngoai-thoi-ky-doi-moi-598434.html, truy cập ngày 19/4/2022.

[5],2 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Toàn văn phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc, 14/12/2021.

[6],2 Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc, 14/12/2021.

3 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Toàn văn phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc, 14/12/2021.

[7]Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng,Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 66.

[8] Lê Văn Hải, Tiếp tục quán triệt, thực hiện quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng”, Quốc phòng toàn dân, 5/2021, http://m.tapchiqptd.vn/vi/quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet/tiep-tuc-quan-triet-thuc-hien-quan-diem-bao-ve-to-quoc-tu-som-tu-xa-cua-dang-17174.html, truy cập ngày 18/4/2022.

[9] Lê Bảo Ngọc, “Quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” thể hiện tầm nhìn chiến lược”, VietnamPlus, 29/10/2021.

[10] Xem thêm Lê Đình Tĩnh (2017), “Bàn về tư duy chiến lược: Lý thuyết, thực tiễn và trường hợp Việt Nam”, Nghiên cứu Quốc tế số 4 (111).

[11] Xem thêm Lê Đình Tĩnh (2020), “Tiếp cận khái niệm “địa - chiến lược” trong bối cảnh mới: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam đến năm 2030”, Tạp chí Cộng sản điện tử, 9/2020.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết