Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Một số kiến nghị của Đề tài “Thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng CSVN lãnh đạo: thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp"

Ngày phát hành: 12/06/2020 Lượt xem 7164

 

1. Giải pháp thực hiện nội dung nguyên tắc pháp quyền

1) Giải pháp nhận thức

Cần hiểu nguyên tắc pháp quyền với nghĩa là các nguyên tắc. Với nghĩa đó và được tiếp cận ở nghĩa rộng, nguyên tắc pháp quyền bao gồm tổng thể các yếu tố cấu thành chủ yếu sau đây: (1) Quyền lực nhà nước bị giới hạn, bị kiểm soát và ràng buộc bởi pháp luật; (2) Hiến pháp và pháp luật có hiệu lực tối thượng; (3) An toàn pháp lý; (4) Bình đẳng trước pháp luật; (5) Pháp luật được tôn trọng và bảo vệ, các vi phạm được xét xử công bằng theo thủ tục tố tụng chặt chẽ bởi cơ quan xét xử độc lập; (6) Gắn pháp quyền với bảo đảm, bảo vệ tự do, nhân phẩm, công bằng, công lý, dân chủ và quyền con người.

2) Giải pháp thực thi, giới hạn, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng pháp luật

a. Giải pháp chung

Trước hết, cần tạo lập nền tảng pháp luật hoàn chỉnh để hoàn thiện cơ chế thực thi, giới hạn, kiểm soát quyền lực trên. Việc thực thi, giới hạn, kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (khoản 3 Điều 2 Hiến pháp). Việc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp cần phải tuân thủ yêu cầu về tính thống nhất của quyền lực nhà nước.

b. Về phân công thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

Trước hết cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí, vai trò của từng nhóm cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mục tiêu của phân công là xác định được “nhiệm vụ chính”, chuyên nghiệp, thường xuyên của cơ quan thực thi quyền lực. Theo đó, mỗi cơ quan chịu trách nhiệm chính đối với một lĩnh vực hoặc một số công việc. Cơ quan đó có nhiệm vụ chính, thường xuyên trong quản lý lĩnh vực đó hoặc công việc đó. Với lĩnh vực hoặc công việc nào cần có sự phối hợp thì quy định rõ cơ quan phối hợp, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan phối hợp trong phối hợp thực hiện với cơ quan có nhiệm vụ chính.

Quốc hội phải tuân theo Hiến pháp, luật của Quốc hội không được hoạt động trái với Hiến pháp. Quyền lập pháp không đồng nghĩa với quyền làm luật mà là quyền thông qua các dự luật.[1] Cần phân biệt thẩm quyền ủy quyền lập pháp của Quốc hội[2] với quyền ban hành văn bản pháp luật của cơ quan hành pháp.[3] Ủy quyền lập pháp cần thực hiện trên cơ sở luật và chỉ nên áp dụng trong một số trường hợp. Không nên áp dụng ủy quyền lập pháp đối với những vấn đề quan trọng được Hiến pháp quy định phải do luật định,[4] cả ở phương diện luật nội dung và luật thủ tục.[5]

c.Về phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

Phân công, phối hợp phải gắn chặt với nhau, không chia cắt, đứt đoạn, nhưng không chồng chéo. Phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước cần thực hiện theo nguyên tắc xác định rõ “nhiệm vụ chính, nhiệm vụ phụ”, “trách nhiệm chính, trách nhiệm liên đới”, đồng thời phân định rõ trách nhiệm của tổ chức với trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm của tập thể với trách nhiệm của cá nhân. Sau khi đã xác định được chức năng, lĩnh vực và không gian hành động riêng của mỗi cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì bước tiếp theo là xác định những hoạt động, nhiệm vụ, công việc trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp cần có sự phối hợp của các cơ quan khác. Hiệu quả của hoạt động lập pháp không chỉ phụ thuộc vào năng lực thẩm định của Quốc hội[6] mà phụ thuộc vào cả năng lực đưa ra sáng kiến và thiết kế luật của Chính phủ. Thực hiện quyền lập pháp là nhiệm vụ chính của Quốc hội. Chính phủ chỉ là cơ quan phối hợp với Quốc hội để làm ra các luật. Quốc hội phải chịu trách nhiệm chính về chất lượng của các đạo luật. Chính phủ có trách nhiệm chính trong việc đưa các đạo luật vào cuộc sống. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, nếu phát hiện thấy đạo luật có mâu thuẫn, chồng chéo với luật khác, không hợp lý, thiếu thống nhất, thiếu khả thi, không phù hợp với thực tế thì Chính phủ đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung. Từng bước nâng cao hiệu quả xây dựng, ban hành luật theo hướng luật có hiệu lực trực tiếp, hạn chế tình trạng “luật khung” để giảm bớt tình trạng cần có quy định chi tiết thi hành luật thì luật mới thực hiện được.

d. Về kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

Cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý để kiểm soát quyền lực nhà nước. Cần ban hành luật cụ thể hóa Điều 119 của Hiến pháp về cơ chế bảo vệ hiến pháp.

e. Đổi mới cơ chế bảo vệ Hiến pháp

Cần cụ thể hóa Điều 119 của Hiến pháp cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Khi thiết kế cơ chế bảo vệ hiến pháp cần lưu ý một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất: các cơ quan tài phán hiến pháp (bảo vệ hiến pháp) là những cơ quan của hiến pháp, được ghi nhận trong hiến pháp; nên cơ quan này là một thiết chế độc lập và không trực thuộc một cơ quan hiến pháp nào của quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Bản chất của hoạt động tài phán hiến pháp mang tính chất tư pháp, xét xử. Phán quyết của cơ quan tài phán hiến pháp có hiệu lực bắt buộc, có giá trị như một đạo luật và về nguyên tắc các bản án đó không bị kháng cáo.

Thứ hai: cơ quan tài phán Hiến pháp không phải là “cấp phúc thẩm” của hệ thống tòa án tư pháp (Tòa án tối cao). Vì vậy, chúng không xét lại nội dung các bản án (có hoặc chưa có hiệu lực) của tòa án tư pháp nếu vấn đề đó thuộc thẩm quyền của Tòa án đã được luật định.

Thứ ba, chỉ sau khi đã tận dụng hết các khả năng của toàn bộ hệ thống tài phán tư pháp (khả năng pháp luật nội dung và hình thức) mà Hiến pháp vẫn bị vi phạm thì lúc đó, cơ quan tài phán mới vào cuộc.

g. Phân công, phối hợp giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền ở địa phương và kiểm soát quyền lực của chính quyền địa phương

Việc thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương cần phải được đặt trong tổng thể với việc thực thi quyền lực nhà nước của cả quốc gia. Sự phân công, phối hợp giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương và giữa các cấp chính quyền ở địa phương được thực hiện theo nguyên tắc mỗi cấp chính quyền hiện nay (trung ương, tỉnh, huyện, xã) có nhiệm vụ, quyền hạn riêng, đồng thời có sự phối hợp giữa các cấp chính quyền. Ngoài ra, trong những trường hợp cần thiết có thể áp dụng sự ủy quyền hoặc chuyển giao quyền hạn, nhiệm vụ từ chính quyền cấp trên cho chính quyền cấp dưới kèm theo bảo đảm nguồn lực cần thiết để thực hiện. 

Về kiểm soát quyền lực của chính quyền địa phương: đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới gắn với kiểm soát hiệu quả quyền lực của chính quyền địa phương, gắn quyền hạn với trách nhiệm, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện là hướng đi đúng đắn.[7]

3) Giải pháp bảo đảm tính tối thượng của pháp luật và sự an toàn pháp lý 

a. Giải pháp về nhận thức

Tiếp tục củng cố, nâng cao ý thức pháp quyền, văn hóa pháp quyền của các cơ quan nhà nước, đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; coi đây là một trong những nhiệm vụ cần phải ưu tiên thực hiện và coi đó là khâu đột phá trong bảo đảm hiệu quả thực hiện nguyên tắc pháp quyền. Với yêu cầu đó, cần thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ, ý thức chính trị và ý thức pháp luật, năng lực, kỹ năng thực hiện pháp luật cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.

b. Giải pháp bảo đảm tính tối thượng của pháp luật trong xây dựng pháp luật

Thứ nhất, nâng cao chất lượng chính sách pháp luật. Cần phân biệt hiệu lực của Hiến pháp với tính chất là đạo luật gốc có giá trị pháp lý cao nhất của Quốc gia với Cương lĩnh chính trị và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Pháp luật tối thượng nên các quy phạm xã hội, trong đó có quy định của Đảng, phải phù hợp với pháp luật. Các tổ chức của Đảng và đảng viên của Đảng có nghĩa vụ chấp hành pháp luật và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật (khoản 3 Điều 4 Hiến pháp).

Thứ hai, nâng cao chất lượng pháp luật. Pháp luật cần phải tổng quát, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, không chồng chéo, mâu thuẫn; có nội dung rõ ràng; ổn định, nhất quán; minh bạch, có thể tiếp cận;[8] khả thi; đáp ứng yêu cầu điều chỉnh của thực tế; có thể dự báo được; áp dụng cho mọi chủ thể có liên quan và không phân biệt đối xử đối với mọi người; phù hợp với các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam đã tham gia ký kết và phê chuẩn)[9], hướng tới các giá trị tiến bộ như tự do, nhân phẩm, quyền con người, công bằng, công lý, dân chủ. Từng bước khắc phục tình trạng luật “khung”, luật “chờ” văn bản dưới luật hướng dẫn, cụ thể hóa thì mới thực hiện được.

Thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, cập nhật kịp thời văn bản pháp luật. Chỉ ban hành quy định mới nếu quy định hiện hành thực sự chưa có đủ cơ sở để giải quyết hoặc có thể giải quyết nhưng với hiệu quả thấp. Chỉ đặt ra vấn đề sửa đổi, bổ sung pháp luật khi đã chứng minh được lợi ích có được từ việc sửa đổi, bổ sung pháp luật nhiều hơn không sửa đổi, bổ sung pháp luật.

Thu hút sự tham gia rộng rãi của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách, của các chuyên gia, các nhà khoa học trong đề xuất, xây dựng, phản biện dự thảo chính sách pháp luật. Chú trọng hơn nữa sự phản hồi, giải trình tiếp thu của các cơ quan xây dựng chính sách pháp luật.

Thứ ba, cân đối và hài hòa các lợi ích trong điều chỉnh pháp luật.

Thứ , chú ý các yếu tố trong nước và quốc tế tác động, ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc pháp quyền để kịp thời xử lý trong thực hiện các yếu tố nội dung của nguyên tắc pháp quyền.

Thứ năm, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật để chọn lọc các yếu tố hợp lý, phù hợp, tham khảo áp dụng. Chẳng hạn, khuyến khích các địa phương xây dựng mô hình địa phương pháp quyền. Nếu mỗi cá nhân, tổ chức, gia đình, doanh nghiệp, địa phương cụ thể (xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thành phố, thị xã, tỉnh) tôn trọng, tuân thủ, chấp hành, thực hiện pháp luật, hành động theo pháp luật thì sẽ góp phần tạo nên xã hội thượng tôn pháp luật.

c. Giải pháp bảo đảm tính tối thượng của pháp luật trong thực hiện pháp luật

Thứ nhất, chú trọng tổ chức thực hiện pháp luật và bảo đảm hiệu lực của pháp luật. Nhà nước cần chuyển trọng tâm từ xây dựng pháp luật sang tổ chức, thực hiện pháp luật, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật.

Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền, quán triệt tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội.

 d.Giải pháp bảo đảm tính tối thượng của pháp luật trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp hướng tới mục tiêu bảo đảm các đạo luật của cơ quan lập pháp và hành động của cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp phù hợp với Hiến pháp.

Thứ hai, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật.

Thứ ba, tăng cường thiết lập trật tự, kỷ cương; phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.

Phát huy vai trò của cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan tiến hành tố tụng.  Khuyến khích các chủ thể tự giải quyết mâu thuẫn, bất đồng, các thiết chế giải quyết theo phương thức thương lượng, hòa giải, trọng tài để giảm nhẹ gánh nặng cho Tòa án. Các cơ quan tư pháp hỗ trợ các thiết chế giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng thay thế trong thực hiện quyết định giải quyết hoặc biên bản thỏa thuận hòa giải.

Để tránh việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp thì giải quyết khiếu nại, tố cáo phải triệt theo pháp luật chứ không phải theo đạo đức. Các hành vi vi phạm pháp luật cần được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết đúng quy định pháp luật và bị áp dụng nghiêm khắc chế tài. 

Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm.

4) Giải pháp bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật

Bình đẳng trước pháp luật cần được thể hiện cả trong quy định pháp luật, áp dụng pháp luật và bảo đảm trên thực tế, áp dụng chế tài đối với hành vi vi phạm. Với yêu cầu đó, trước hết cần rà soát tổng thể các quy định pháp luật và chuẩn mực xã hội để phát hiện và loại bỏ các quy phạm, quy tắc mang tính phân biệt đối xử.[10]

Trong lĩnh vực chính trị, cần giảm bớt sự khác biệt giữa quy định của Đảng với pháp luật trong quy định về quyền và nghĩa vụ của đảng viên, về đánh giá, phân loại cán bộ, về thời hiệu xử lý kỷ luật đối với đảng viên.

 Trong lĩnh vực kinh tế, cần đảm bảo trên thực tế sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong tiếp cận tài nguyên và nguồn lực công; giảm bớt sự khác biệt trong ưu đãi đầu tư theo nhóm doanh nghiệp. Hoàn thiện cơ sở pháp lý và tăng cường các biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát để chống lợi ích nhóm; phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm trong thực hiện Luật Đấu thầu, sự câu kết giữa doanh nghiệp, nhà đầu tư với người có chức vụ, quyền hạn để vi phạm pháp luật đất đai, tài nguyên, cố ý làm trái, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi bất chính, vi phạm trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thâu tóm, nhận giao quyền sử dụng đất ở các vị trí đắc địa, biến đất công thành đất tư, điều chỉnh quy hoạch chi tiết sau khi quy hoạch đã được phê duyệt, điều chỉnh dự án đầu tư sau khi đã được phê duyệt.

Giảm bớt sự chênh lệch trong phát triển giữa các địa phương, vùng, miền, giữa miền núi với đồng bằng, giữa nông thôn với thành thị thông qua bổ sung ngân sách theo mục tiêu quốc gia và các biện pháp đầu tư, hỗ trợ khác. Tiếp tục thực hiện chủ trương và phương châm thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.

Trong lĩnh vực xã hội: thực hiện nguyên tắc pháp quyền cần hướng đến các giá trị tiến bộ xã hội. Bảo đảm sự bình đẳng của những người yếu thế trong xã hội như người dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi, người nhiễm HIV,...là trách nhiệm của Nhà nước và của xã hội. Các cơ quan có thẩm quyền cần có các biện pháp hữu hiệu hơn để bảo đảm trên thực tế sự bình đẳng trước pháp luật của người dân.

Trong bảo đảm sự bình đẳng về trách nhiệm pháp lý: bổ sung, sửa đổi một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng bảo đảm hơn nữa sự bình đẳng của các đương sự. Mở rộng hơn nữa quyền của người bào chữa; tạo thuận lợi cho luật sư tham gia vào quá trình tố tụng tại phiên tòa như đọc, nghiên cứu hồ sơ, sao chụp các tài liệu trong hồ sơ có liên quan đến việc bào chữa cho bị cáo trước khi mở phiên tòa. Tiếp tục cải cách hành chính trong tư pháp để giảm bớt chi phí tham gia tố tụng của đương sự.

5) Giải pháp bảo vệ pháp luật, xét xử vi vi phạm pháp luật theo nguyên tắc pháp quyền

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp.

Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên là phải quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 27-CT/TW.

Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định của Đảng, các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Luật Giám định tư pháp, Luật Thanh tra, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản quy định chi tiết thi hành để khắc phục hạn chế về cơ sở pháp lý trong phòng, chống tham nhũng.[11]

Cần tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung các quy định của pháp luật đã được Tòa án nhân dân tối cao nêu trong Báo cáo sơ kết 03 năm thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản triển khai thi hành.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 119 Hiến pháp về trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, của công dân và của các tổ chức đại diện của công dân như sau “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, TAND, VKSND, các cơ quan khác của Nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp và mọi công dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp, pháp luật. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định.”

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 102 Hiến pháp về nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, pháp luật của Tòa án. Theo đó, “TAND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.” 

Thứ tư, nâng cao hiệu quả thực hiện và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp.

Thứ năm, ngoài các biện pháp bảo đảm sự bình đẳng trước tòa án và trước pháp luật, cần bảo đảm cho thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập hơn nữa trong xét xử.

Thứ sáu, tiếp tục thực hiện 14 giải pháp ngành Tòa án đã đề ra để nâng cao chất lượng công tác xét xử theo tinh thần Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Thứ bảy, bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người dân. Cần có các biện pháp để tổ chức, cá nhân tiếp cận công lý dễ dàng hơn như tiếp tục cải cách tư pháp để thủ tục tố tụng rõ ràng hơn và bớt phức tạp, giảm chi phí tố tụng, khắc phục tình trạng chậm, muộn, kéo dài trong thực hiện thủ tục tố tụng. Khuyến khích người bị xâm phạm trong quan hệ dân sự tự giải quyết hoặc chọn các phương thức giải quyết thay thế tố tụng tư pháp.

2. Giải pháp thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong mối quan hệ với các nguyên tắc khác

  1) Giải pháp thực hiện nguyên tắc pháp quyền gắn với thực hành dân chủ

Thứ nhất, cụ thể hóa nội dung khoản 1 Điều 8 Hiến pháp về yêu cầu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Thứ hai, cụ thể hóa quy trình lập hiến theo hướng đề cao vị trí quyền lực của nhân dân, đi đôi với xây dựng cơ chế bảo hiến hữu hiệu.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về dân chủ, luật hóa các quyền dân chủ của người dân, đảm bảo pháp luật dân chủ trở thành một bộ phận trọng yếu của hệ thống pháp luật hiện hành.

Thứ tư, xây dựng và thực thi cơ chế pháp lý nhằm áp dụng nguyên tắc quyết định theo đa số và bảo vệ ý kiến của thiểu số trong hoạt động của nhà nước và xã hội.

Thứ năm, nâng cao năng lực thực hành dân chủ của công dân.

 2) Giải pháp thực hiện nguyên tắc pháp quyền gắn với quyền làm chủ của nhân dân

 Thứ nhất, cần nhất quán trong nhận thức: Nhân dân làm chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển và của sự nghiệp đổi mới ở đất nước ta hiện nay. Pháp quyền và quyền làm chủ của nhân dân có quan hệ gắn bó, vừa là tiền đề, điều kiện, vừa là hệ quả của nhau. Quyền làm chủ của nhân dân chính là khả năng thực hành dân chủ, pháp quyền trên thực tế. Vì vậy, cần gắn thực hiện nguyên tắc pháp quyền với quyền làm chủ của nhân dân và ngược lại.

Thứ hai, tăng cường hơn nữa sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật đi đôi với xác định rõ trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý của công quyền trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền dân chủ.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện các lĩnh vực pháp luật theo hướng ghi nhận đầy đủ quyền của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống, đi đôi với xác định rõ các điều kiện thực hiện quyền, trách nhiệm của nhà nước trong bảo đảm, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 2013 chưa có hiệu lực trực tiếp, chưa có cơ chế tố tụng hiến pháp để bảo vệ quyền khi bị cơ quan công quyền xâm phạm. Nhiều quyền mới chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp mà chưa rõ cơ chế thực thi. Do đó, cần khẩn trương ban hành một số đạo luật để bảo đảm những quyền này trong thực tế. Đồng thời, cần rà soát để khắc phục mâu thuẫn hoặc bổ sung thêm một số quy định trong các văn bản pháp luật liên quan gắn với việc thực hiện quyền của người dân trong các lĩnh vực cụ thể. Đáp ứng yêu cầu đó, cần: (i) Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin, trước hết cần chú ý hiệu quả thực hiện Luật Tiếp cận thông tin năm 2016; (ii) Tiếp tục đổi mới các quy định pháp luật về dân chủ cơ sở theo hướng rà soát, so sánh, đối chiếu giữa Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 với các văn bản pháp luật có liên quan để pháp điển hóa pháp luật dân chủ cơ sở, ban hành Luật về dân chủ ở cơ sở. (iii) Rà soát các quy định pháp luật về các hình thức giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước, đặc biệt đối với hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Củng cố kênh giám sát, phản biện hiện hành của hệ thống Mặt trận tổ quốc, đồng thời phát triển, đa dạng hóa những kênh giám sát khác thông qua mở rộng quyền tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình,… để thúc đẩy mạnh mẽ cơ chế giám sát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. (iv) Khẩn trương xây dựng Luật phản biện xã hội, đi đôi với xác lập đa dạng các cơ chế tiếp nhận và phản hồi ý kiến của nhân dân.

Thứ ba, đảm bảo tính hợp lý trong cơ cấu thực hiện quyền lực nhà nước, nâng cao tính trách nhiệm của nhà nước, khắc phục những yếu kém trong cải cách khuôn khổ quản trị quốc gia, nâng cao tính độc lập của tư pháp hướng tới tôn trọng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.

Thứ tư, áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm nâng cao năng lực làm chủ của người dân, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ một cách chủ động.

3) Giải pháp thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong mối quan hệ với nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

Thứ nhất, Đảng tổ chức và hoạt động theo yêu cầu của pháp quyền.

Từ yêu cầu thực hiện nguyên tắc pháp quyền đối với Nhà nước và xã hội, có thể gợi mở ý tưởng thực hiện nguyên tắc pháp quyền đối với tổ chức và hoạt động của Đảng như sau:

Một là, bổ sung trong Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng và Hiến pháp quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Hai là, quyền lực chính trị của Đảng được thực hiện, giới hạn và kiểm soát bởi Hiến pháp và luật, Cương lĩnh chính trị, điều lệ và quy định của Đảng. Các tổ chức của đảng, người có thẩm quyền trong Đảng phải thực hiện quyền hạn của mình trong khuôn khổ pháp luật và phù hợp với các quy định của Đảng đã được ban hành.

Ba là, Hiến pháp với tính chất là đạo luật gốc có giá trị pháp lý cao nhất của quốc gia. Cương lĩnh chính trị, Điều lệ của Đảng và các loại văn bản khác của Đảng phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật.

Bốn là, đảng viên bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm trước Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng và các quy định khác của Đảng.

Năm là, đảng viên ở bất cứ cương vị nào, nếu vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều lệ, nghị quyết, quy định của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cơ quan, đơn vị thì bị xem xét, kỷ luật đảng. Kỷ luật đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình thức trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, nghiên cứu, ban hành nghị quyết về quản trị toàn diện đất nước theo pháp luật.

 4) Giải pháp thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ theo yêu cầu của nguyên tắc pháp quyền

Thứ nhất, nhận thức đầy đủ và rành mạch về vị trí, vai trò, chức năng, thẩm quyền của Đảng Cộng sản và của Nhà nước, về mối quan hệ giữa hai thiết chế đó trong hệ thống chính trị.

Thứ hai, điều chỉnh phương thức vận hành mối quan hệ giữa các thiết chế trong hệ thống chính trị nước ta theo mô hình Đảng lãnh đạo – Nhân dân làm chủ - Nhà nước quản lý.

Về mặt nội dung, cần xác định rõ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và Nhà nước với hai nhóm quan hệ cơ bản sau đây:

Một là, quan hệ bình đẳng trước pháp luật trong thực thi quyền lực chính trị.

Hai là, quan hệ chi phối và phối hợp giữa lãnh đạo của Đảng với điều hành, quản lý của Nhà nước. Quan hệ này thể hiện chủ yếu và nổi bật ở ba lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp. (i) Đối với hoạt động lập pháp, cần phân định rõ ràng giữa vai trò định hướng và nhiệm vụ hoạch định đường lối, chiến lược phát triển của Đảng với vai trò thể chế hóa thành Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đảng phải lãnh đạo hoạt động lập hiến, lập pháp. Khi thể chế thành pháp luật, Nhà nước phải tuân theo phương hướng, mục tiêu chính trị của Đảng và khi luật pháp được ban hành thì Đảng cầm quyền phải phục tùng pháp luật. Để xây dựng cơ chế bảo hiến, trước hết cần xây dựng cơ chế thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng thành pháp luật để vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa đảm bảo yêu cầu của pháp quyền, tránh nghị quyết “đi trước, đón đầu” của Đảng bị phán quyết là trái với Hiến pháp. (ii) Đối với hoạt động hành pháp, cần phân định, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát việc thực hiện pháp luật của Đảng với phát huy vai trò chủ động trong tổ chức thực hiện pháp luật của Nhà nước. (iii) Trong lĩnh vực tư pháp cần phân định vai trò lãnh đạo của Đảng với vai trò bảo vệ pháp luật của Nhà nước và sự độc lập của tòa án, thẩm phán, hội đồng xét xử. Nguyên tắc pháp quyền đòi hỏi quyền xét xử là quyền độc lập của Nhà nước. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tư pháp chỉ thể hiện trên phương diện định hướng chính trị, đề ra định hướng, mục tiêu, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp, lãnh đạo cải cách tư pháp, tổ chức cán bộ, giám sát hoạt động tư pháp, lãnh đạo việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, lựa chọn những đảng viên ưu tú tiến cử giữ các trọng trách trong các cơ quan tư pháp và kiểm tra hoạt động của các đảng viên đó.

Cần phân định rõ hơn các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng với các nguyên tắc tổ chức và hoạt động quản lý của Nhà nước. Chẳng hạn, “nguyên tắc tập trung dân chủ” vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng (Điều 9 của Điều lệ Đảng), vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước (khoản 1 Điều 8 Hiến pháp). Cụ thể hóa khoản 1 Điều 8 Hiến pháp về nguyên tắc tập trung dân chủ và xác định các yêu cầu cụ thể của nguyên tắc tập trung dân chủ đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Ba là, đẩy mạnh thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ, với điểm nhấn là quyền giám sát của người dân đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy Đảng và bộ máy nhà nước trong thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.

Bốn là, xây dựng cơ chế kiểm soát việc trao và thực thi quyền lực của người đứng đầu trong điều kiện nhất thể hóa các chức danh đảng và chính quyền.

3. Giải pháp tạo lập, duy trì các điều kiện đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp quyền

1) Giải pháp xây dựng ý thức pháp quyền

Thứ nhất, tiếp tục củng cố, nâng cao ý thức, văn hóa pháp quyền của các cơ quan nhà nước, đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.

Thứ hai, củng cố, nâng cao ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật của công dân, doanh nghiệp và các chủ thể khác

Một là, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp quyền cho người dân, doanh nghiệp và các chủ thể khác.

Hai là, giáo dục ý thức tôn trọng, chấp hành và tuân thủ pháp luật của công dân, tổ chức. Để xây dựng ý thức pháp quyền, ở hệ thống giáo dục, đào tạo cần dạy cho người học các nguyên tắc pháp quyền và các giá trị mà pháp luật có thể phục vụ.[12]

Thứ ba, xây dựng ý thức pháp quyền và văn hóa pháp quyền của xã hội, từng bước hình thành, tạo lập các tiền đề của xã hội pháp quyền.

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu và đào tạo về pháp quyền

2)Bảo đảm các điều kiện pháp lý

Một là, thường xuyên hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý sự phát triển.

Để đáp ứng yêu cầu của pháp quyền thì pháp luật (nội dung và thủ tục) cần phải tổng quát, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, không chồng chéo, mâu thuẫn; có nội dung rõ ràng; ổn định, nhất quán; minh bạch, có thể tiếp cận;[13] khả thi; phù hợp với yêu cầu của thực tế; có tính dự báo; áp dụng cho mọi chủ thể có liên quan và không phân biệt đối xử đối với mọi người; phù hợp với các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam đã tham gia ký kết và phê chuẩn[14], hướng tới các giá trị tiến bộ như tự do, nhân phẩm, quyền con người, công bằng, công lý, dân chủ.

Hai là, khuyến khích chủ thể pháp luật tự quản theo các quy phạm xã hội phù hợp với pháp luật, không trái pháp luật; khuyến khích giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp từ cơ sở và trong nội bộ bằng các phương thức thương lượng, hòa giải, trọng tài.

Ba là, chú trọng hiệu quả thực hiện pháp luật; củng cố niềm tin của người dân đối với pháp quyền.

Bốn là, đổi mới phương thức thực hiện pháp luật theo hướng giảm bớt thủ tục, ứng dụng công nghệ thông tin.

Năm là, phát huy vai trò và thu hút sự tham gia của người dân trong xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, giám sát việc thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.

Sáu là, nâng cao hiệu quả bảo vệ pháp luật.

Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức và sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử. Hiện nay đã có nhiều đề xuất giải pháp về tính độc lập xét xử của tòa án[15]. Cấm sự tác động trái pháp luật của cơ quan báo chí vào hoạt động tư pháp.

3) Điều kiện về bộ máy, nhân sự

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, nhất là có tinh thần và ý thức trách nhiệm đối với tập thể, có khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.[16] Việc xây dựng đội ngũ cán bộ thực thi nguyên tắc pháp quyền cũng phải quán triệt tinh thần và nội dung Nghị quyết số 26-NQ/TW. Cần coi trọng công tác chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, trung thành với Đảng, trung thành với đất nước, trung thành với nhân dân của lực lượng thực thi pháp luật. Chú trọng nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật của đội ngũ cán bộ thực thi nguyên tắc pháp quyền. Phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong tổ chức thực hiện pháp luật, giám sát và bảo đảm duy trì hiệu lực của pháp luật.

4) Bảo đảm điều kiện về chính trị

Pháp quyền có thể đạt được cả ở trong thể chế nhất nguyên, khi mà quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nguyên tắc pháp quyền ở nước ta cần thực hiện trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước tổ chức, Nhân dân tham gia.

5) Bảo đảm điều kiện kinh tế

Thứ nhất, hạn chế phát sinh mâu thuẫn để hạn chế phát sinh chi phí giải quyết.

Thứ hai, thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống tội phạm, phòng ngừa, hạn chế, giảm bớt vi phạm pháp luật, giải quyết vấn đề ngay từ khi mới phát sinh.

Thứ ba, tìm kiếm các biện pháp giảm chi phí thực hiện các công việc, nhiệm vụ trong thực hiện nội dung nguyên tắc pháp quyền.

Thứ tư, thu hút sự tham gia, hỗ trợ của xã hội (người dân, doanh nghiệp .v.v.) theo nguyên tắc tự nguyện và xã hội hóa trong thực hiện nguyên tắc pháp quyền.

Thứ năm, cung cấp tài chính cần thiết tương xứng với nhiệm vụ để các cơ quan, tổ chức có đủ nguồn lực thực hiện nhiệm vụ trong thực hiện nguyên tắc pháp quyền.  

4.Đề xuất một số nội dung trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII

Thứ nhất, sử dụng chính xác một số thuật ngữ và sử dụng phù hợp với hoàn cảnh cần đề cập.

“Pháp quyền”, “pháp trị”, “pháp chế” là các tư tưởng chính trị, pháp lý có nội hàm không đồng nhất. Thuật ngữ “các nguyên tắc pháp quyền” không đồng nghĩa với thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” và thuật ngữ “các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền”. Trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XII đã sử dụng các thuật ngữ “Nhà nước”, “Nhà nước pháp quyền”, “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “pháp quyền”, “dân chủ, pháp quyền”, “pháp chế”, “nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền”, “nguyên tắc pháp quyền”, “các nguyên tắc pháp quyền” nhưng một số thuật ngữ đã được sử dụng không phù hợp với hoàn cảnh cần đề cập. Vì vậy, trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII cần khắc phục vấn đề này.

Thứ hai, trong phần khái quát tình hình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có nội dung đánh giá kết quả thực hiện nguyên tắc pháp quyền.

Về kết quả thực hiện nguyên tắc pháp quyền: chúng tôi đề xuất ghi nhận trong nội dung văn kiện (ở phần tình hình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Báo cáo chính trị) như sau: “Nhà nước pháp quyền XHCN tiếp tục được đẩy mạnh xây dựng. Quan điểm và các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng rõ hơn. Thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong từng lĩnh vực, từng mặt hoạt động đã đạt được ở mức độ cơ bản. Quyền lực nhà nước được tổ chức thực hiện, kiểm soát trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật theo nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lực được xác định rõ hơn và đạt được những kết quả nhất định trong tổ chức thực hiện. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật là nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp. Pháp luật cơ bản khẳng định được vị trí tối thượng. Vai trò của pháp luật ngày càng được đề cao và trở thành công cụ chủ yếu để quản trị đất nước, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.…..”.

Về hạn chế của thực hiện nguyên tắc pháp quyền: chúng tôi đề xuất ghi nhận trong nội dung văn kiện (ở phần tình hình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Báo cáo chính trị): “Tuy nhiên, nhận thức của các cấp, các ngành, của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về pháp quyền còn chưa đầy đủ. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước vẫn chưa cụ thể và còn có điểm chưa hợp lý. Hiệu quả, hiệu lực kiểm soát quyền lực nhà nước còn thấp. Các luật vẫn cần hệ thống văn bản dưới luật đồ sộ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu ổn định của hệ thống pháp luật vẫn cần phải khắc phục. Nhiều nội dung của pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Hiệu quả thực hiện pháp luật còn thấp. Chi phí thực hiện pháp luật cao. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong thực hiện chính sách, pháp luật, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật còn thiếu chặt chẽ. Vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, kỷ cương vẫn diễn ra ở mức độ đáng lo ngại trong một số lĩnh vực. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng. Hiệu quả, hiệu lực kiểm tra, giám sát, kiểm soát và xử lý vi phạm còn yếu.”

Thứ ba, trong nội dung văn kiện về phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN nên đề cập phương hướng thực hiện nguyên tắc pháp quyền.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nên tiếp tục khẳng định “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” như Đại hội lần thứ XII đã xác định. Tuy nhiên, phương hướng, nhiệm vụ này tiếp tục được cụ thể như sau: “Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn đổi mới hệ thống chính trị với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội.”

Về hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền, chúng tôi đề xuất thể hiện như sau: “Tiếp tục điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, vai trò của Nhà nước, đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật. Bảo đảm pháp luật vừa là căn cứ tổ chức thực hiện, kiểm soát quyền lực, vừa là phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội và là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Quản lý đất nước theo pháp luật, củng cố pháp quyền, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội….”

 

                                                                            PV (nguồn: Theo Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.06/16-20)

 

 



[1] Nguyễn Sĩ Dũng, Về quyền lập pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 1+2 (329+330)/2017, tr.8.

[2] Về lợi ích của ủy quyền lập pháp, xem Cao Anh Đô, Bàn về quyền lập pháp và mô hình lập pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 24/2011, tr.12-17.

[3] Xem Lương Minh Tuân, Pháp luật về ủy quyền lập pháp ở Việt Nam - thực trạng và kiến nghị, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 21/2014, tr.53-58 cho rằng phạm vi ủy quyền lập pháp của Quốc hội có thể mở rộng cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trong ban hành văn bản pháp luật.

[4] Cùng quan điểm, Lương Minh Tuân, Pháp luật về ủy quyền lập pháp ở Việt Nam - thực trạng và kiến nghị, tlđd, tr.53.

[5] Cùng quan điểm, Trần Ngọc Đường, Nâng cao chất lượng lập pháp trong Hiến pháp năm 2013, tlđd, tr.17.

[6] Như ý kiến của Nguyễn Sĩ Dũng, Về quyền lập pháp, tlđd, tr.9.

[7] Nghị quyết số 20/NQ-CP ngày 19/3/2019 của Chính phủ phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 3 năm 2019. Xem mục 4 của Nghị quyết về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương. Ngoài ra, Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.

[8] Tiêu chí này bao gồm các yêu cầu về việc pháp luật phải được công bố công khai để người dân có thể dễ dàng tìm kiếm; pháp luật dễ hiểu với người dân để họ có thể hiểu được nội dung pháp luật bằng ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản.

[9] Yêu cầu của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của thực tế xây dựng Nhà nước pháp quyền, không chồng chéo, công khai, minh bạch, khả thi, ổn định cũng cho thấy qua đánh giá của Đại hội lần thứ XII về hệ thống pháp luật “hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế”. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tlđd, tr.173.

[10] Như ý kiến của bà Helen Clark, thông tin trên trang điện tử của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Báo cáo của UNDP: Các nhóm yếu thế vẫn bị tụt hậu trong các ưu tiên phát triển, tlđd.

[11] Xem thêm, Nguyễn Phú Trọng, Phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng, bài phát biểu được công bố trên trang điện tử của Chính phủ http://baochinhphu.vn/Phong-chong-tham-nhung-khong-danh-trong-bo-dui/Tong-Bi-thu-nhan-manh-6-giai-phap-trong-tam-phong-chong-tham-nhung/339817.vgp, ngày 26/6/2018.

 

[12] Robert S. Simmers, The Principles of the Rule of Law, tr.1711-1712.

[13] Tiêu chí này bao gồm các yêu cầu về việc pháp luật phải được công bố công khai để người dân có thể dễ dàng tìm kiếm; pháp luật dễ hiểu với người dân để họ có thể hiểu được nội dung pháp luật bằng ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản.

[14] Yêu cầu của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của thực tế xây dựng Nhà nước pháp quyền, không chồng chéo, công khai, minh bạch, khả thi, ổn định cũng cho thấy qua đánh giá của Đại hội lần thứ XII về hệ thống pháp luật “hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế”. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, tlđd, tr.173.

[15] Trương Hòa Bình, Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho tòa án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2014, tr. 1-6. Phí Thành Chung, Quyền tư pháp độc lập và một số nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2017, tr.10-15. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Tư pháp độc lập: một số vấn đề lý luận và thực tiễn (kỳ 2), Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 21/2012, tr. 7-14. Phạm Quý Đạt, Tính độc lập của Hệ thống tòa án Việt Nam trong việc thực hiện quyền tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 1/2017, tr. 21-26. La Thị Quế, Giải pháp nâng cao tính độc lập xét xử của tòa án trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Công thương, http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/giai-phap-nang-cao-tinh-doc-lap-xet-xu-cua-toa-an-trong-nha-nuoc-phap-quyen-o-viet-nam-hien-nay-57327.htm, ngày 19/11/2018.

[16] Về giải pháp, xem Nguyễn Mậu Quyết, Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ đức, đủ tài, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, Tạp chí Cộng sản, http://www.tapchicongsan.org.vn/home/nghiencuu-traodoi/2018/53605/xay-dung-doi-ngu-can-bo-cap-chien-luoc-du-duc-du.aspx, ngày 25/12/2018.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết